Quan niệm triết học về sự phát triển mang tính văn hoá
Trong bài viết này, tác giả đã luận chứng để làm sáng tỏ quan niệm triết học về sự phát triển mang tính văn hoá. Vấn đề được tác giả tập trung vào ba khía cạnh: một là, quan niệm về phát triển nói chung và phát triển mang tính văn hoá; hai là, về đạo đức và nội lực (quyền năng) – những vấn đề đặt ra với các nền văn hoá; ba là, những vấn đề phổ quát và riêng biệt trong văn hoá.
Trong một công trình được xuất bản nhằm chuẩn bị cho Thập kỷ văn hóa của Liên hợp quốc (1988 – 1997), Giáo sư Ioanna Kucuradi đã đúng khi cho rằng, với tư cách kết quả của việc bỏ qua các khía cạnh văn hóa trong sự phát triển và nhấn mạnh quá mức sự phát triển kinh tế – công nghiệp dưới ảnh hưởng của các nước phương Tây, các nước ngoài phương Tây hiện đang lâm vào tình trạng khủng hoảng tâm lý, còn bản thân các nước phương Tây cũng lâm vào một cuộc khủng hoảng giá trị.Người đi trước lo sợ sẽ đánh mất di sản của mình, trong khi những người đi sau lại phân vân liệu những giá trị thật sự của họ là như thế nào. Giáo sư I.Kucuradi cho rằng, những cuộc khủng hoảng ấy đã góp phần tạo nên lý do căn bản thúc đẩy sự ra đời thập kỷ văn hóa của Liên hợp quốc (1988 – 1997) với tên gọi Thập kỷ của sự phát triển văn hóa(**).Quả thực, việc chỉ chú trọng phát triển theo hướng công nghiệp mà quên đi những khía cạnh văn hóa của sự phát triển đã mang lại những phản ứng được đăng tải trong cuốn Tương lai chung của chúng ta, một bản báo cáo của Ủy ban Thế giới nhấn mạnh sự tàn phá môi trường do việc phát triển công nghiệp không được kiểm soát chặt chẽ sẽ tạo ra, xuất bản tại Brundland năm 1989. Ngay cả việc bảo vệ môi trường cũng sẽ không khả thi nếu chúng ta không có sự hiểu biết sâu sắc về những giá trị, những tập quán văn hóa của các dân tộc khác nhau trên thế giới.Một trong những học giả nổi tiếng châu Phi chuyên nghiên cứu lĩnh vực văn hóa, Giáo sư Ali A.Mazrui, gần đây đã cho xuất bản cuốn Động lực văn hóa trong đời sống chính trị thế giới (1990). Ông cho rằng, những khác biệt văn hóa thường nằm ở vị trí tận cùng trong các vấn đề toàn cầu và những chênh lệch kinh tế – xã hội.Chúng ta đều biết rằng, vào những năm đầu thập kỷ 60 của thế kỷ XX, nhiều quốc gia châu Phi đã có những kế hoạch hoàn hảo nhằm thúc đẩy sự cất cánh của công nghiệp. Họ nhấn mạnh đến lĩnh vực giáo dục, đặc biệt là giáo dục công nghệ, kỹ thuật; lập những kế hoạch có tính khả thi cho những dự án phát triển đột phá; đào tạo nhân lực và nhập khẩu tư bản từ mọi nơi trên thế giới. Nhưng chẳng bao lâu, châu Phi đã phải chứng kiến tình trạng xung đột dân tộc, chủ nghĩa cục bộ địa phương, chủ nghĩa quân phiệt trong chính trị, tham nhũng, độc tài công khai và sự áp đặt ý thức hệ từ bên ngoài. Và đã xuất hiện những biện pháp cơ bản để giải quyết những bước thoái bộ này với nguyên nhân chính được xác định là do châu Phi đã bỏ qua những khía cạnh văn hóa trong sự phát triển. Những vấn đề xung đột dân tộc, chuyên quyền và áp đặt ý thức hệ từ bên ngoài là dấu hiệu của những nhân tố văn hóa làm chia rẽ một quốc gia với phần còn lại của thế giới.Mục đích chủ yếu của tôi trong bài viết này là đưa ra một ý kiến rõ ràng mang ý nghĩa “phát triển có tính văn hóa” và làm thế nào để điều này có thể liên hệ với vấn đề kinh tế hay sự phát triển công nghiệp.
10 trang |
Chia sẻ: thanhnguyen | Lượt xem: 2001 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Quan niệm triết học về sự phát triển mang tính văn hoá, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
QUAN NIỆM TRIẾT HỌC VỀ SỰ PHÁT TRIỂN MANG TÍNH VĂN HÓA
H. ODERA ORUKA (*)
Trong bài viết này, tác giả đã luận chứng để làm sáng tỏ quan niệm triết
học về sự phát triển mang tính văn hoá. Vấn đề được tác giả tập trung vào
ba khía cạnh: một là, quan niệm về phát triển nói chung và phát triển
mang tính văn hoá; hai là, về đạo đức và nội lực (quyền năng) – những vấn
đề đặt ra với các nền văn hoá; ba là, những vấn đề phổ quát và riêng biệt
trong văn hoá.
Trong một công trình được xuất bản nhằm chuẩn bị cho Thập kỷ văn hóa
của Liên hợp quốc (1988 - 1997), Giáo sư Ioanna Kucuradi đã đúng khi
cho rằng, với tư cách kết quả của việc bỏ qua các khía cạnh văn hóa trong
sự phát triển và nhấn mạnh quá mức sự phát triển kinh tế - công nghiệp
dưới ảnh hưởng của các nước phương Tây, các nước ngoài phương Tây
hiện đang lâm vào tình trạng khủng hoảng tâm lý, còn bản thân các nước
phương Tây cũng lâm vào một cuộc khủng hoảng giá trị.
Người đi trước lo sợ sẽ đánh mất di sản của mình, trong khi những người đi
sau lại phân vân liệu những giá trị thật sự của họ là như thế nào. Giáo sư
I.Kucuradi cho rằng, những cuộc khủng hoảng ấy đã góp phần tạo nên lý
do căn bản thúc đẩy sự ra đời thập kỷ văn hóa của Liên hợp quốc (1988 –
1997) với tên gọi Thập kỷ của sự phát triển văn hóa(**).
Quả thực, việc chỉ chú trọng phát triển theo hướng công nghiệp mà quên đi
những khía cạnh văn hóa của sự phát triển đã mang lại những phản ứng
được đăng tải trong cuốn Tương lai chung của chúng ta, một bản báo cáo
của Ủy ban Thế giới nhấn mạnh sự tàn phá môi trường do việc phát triển
công nghiệp không được kiểm soát chặt chẽ sẽ tạo ra, xuất bản tại
Brundland năm 1989. Ngay cả việc bảo vệ môi trường cũng sẽ không khả
thi nếu chúng ta không có sự hiểu biết sâu sắc về những giá trị, những tập
quán văn hóa của các dân tộc khác nhau trên thế giới.
Một trong những học giả nổi tiếng châu Phi chuyên nghiên cứu lĩnh vực
văn hóa, Giáo sư Ali A.Mazrui, gần đây đã cho xuất bản cuốn Động lực
văn hóa trong đời sống chính trị thế giới (1990). Ông cho rằng, những
khác biệt văn hóa thường nằm ở vị trí tận cùng trong các vấn đề toàn cầu
và những chênh lệch kinh tế - xã hội.
Chúng ta đều biết rằng, vào những năm đầu thập kỷ 60 của thế kỷ XX,
nhiều quốc gia châu Phi đã có những kế hoạch hoàn hảo nhằm thúc đẩy sự
cất cánh của công nghiệp. Họ nhấn mạnh đến lĩnh vực giáo dục, đặc biệt là
giáo dục công nghệ, kỹ thuật; lập những kế hoạch có tính khả thi cho
những dự án phát triển đột phá; đào tạo nhân lực và nhập khẩu tư bản từ
mọi nơi trên thế giới. Nhưng chẳng bao lâu, châu Phi đã phải chứng kiến
tình trạng xung đột dân tộc, chủ nghĩa cục bộ địa phương, chủ nghĩa quân
phiệt trong chính trị, tham nhũng, độc tài công khai và sự áp đặt ý thức hệ
từ bên ngoài. Và đã xuất hiện những biện pháp cơ bản để giải quyết những
bước thoái bộ này với nguyên nhân chính được xác định là do châu Phi đã
bỏ qua những khía cạnh văn hóa trong sự phát triển. Những vấn đề xung
đột dân tộc, chuyên quyền và áp đặt ý thức hệ từ bên ngoài là dấu hiệu của
những nhân tố văn hóa làm chia rẽ một quốc gia với phần còn lại của thế
giới.
Mục đích chủ yếu của tôi trong bài viết này là đưa ra một ý kiến rõ ràng
mang ý nghĩa “phát triển có tính văn hóa” và làm thế nào để điều này có
thể liên hệ với vấn đề kinh tế hay sự phát triển công nghiệp.
Quan niệm về phát triển nói chung và phát triển mang tính văn hóa
Có lẽ không ai phủ nhận sự phát triển là quá trình vận động từ một vị trí
này đến một vị trí khác, thường là từ những vị trí thấp lên vị trí cao hơn.
L H
Nếu chúng ta xem sự phát triển thuần túy mang ý nghĩa phát triển kinh tế hay
phát triển công nghệ thì điểm H ở lược đồ trên sẽ thể hiện vị trí của những sản
phẩm nền kinh tế và sản xuất công nghiệp có năng suất với số lượng lớn hơn
điểm L. Ở trường hợp này, một quốc gia như Hoa Kỳ sẽ phát triển vượt bậc
hơn so với chính nó 100 năm trước. Và điều chắc chắn rằng, xét ở khía cạnh
này, Hoa Kỳ cũng sẽ phát triển mạnh hơn so với Kenya hay Liên bang Xô
viết.
Chúng ta cũng xem xét việc định lượng sự phát triển như là yêu cầu đầu
tiên của sự phát triển. Việc định lượng này tạo nên một sự tương phản đáng
chú ý với cái mà tôi gọi là yêu cầu thứ hai của sự phát triển, đó là sự phát
triển mang tính chất văn hóa.
Ở yêu cầu thứ hai này, tôi xem xét điểm H ở một thứ hạng cao hơn hay giá
trị hơn điểm L, nhưng dưới dạng chất lượng cao hơn của quá trình tự nhận
thức của một nền văn hóa nhất định hay của các nền văn hóa khác nhau
cùng với sự nhận thức mang tính đạo đức, nguyện vọng chính đáng của
những quốc gia, những dân tộc đã đạt đến điểm H trong sự so sánh với
những dân tộc, những quốc gia khác mới đang ở điểm L. Ví dụ, theo cách
hiểu thông thường thì điều này có nghĩa là, những công dân ở điểm H nhận
thức được những điểm mạnh cũng như những hạn chế trong văn hóa của
mình và sẵn sàng loại bỏ những hạn chế đó để thay thế bằng những giá trị
phù hợp mà họ vay mượn từ bên ngoài. Một cá nhân như vậy sẽ không bị
giam hãm bởi sự cuồng tín trong nền văn hóa tinh khiết của anh ta và những
điều vô lý của những nền văn hóa xa lạ khác; do vậy, cá nhân đó sẽ có được
ý chí vững vàng để hướng tới tiếp nhận các giá trị từ những nền văn hóa xa
lạ ấy.
Những nền văn hóa xa lạ không nhất thiết là những nền văn hóa của các
quốc gia bên ngoài; chúng cũng có thể nằm ngay trong một tiểu bang hay
trong một quốc gia nhất định nào đó. Ở châu Phi, khía cạnh tiêu cực của việc
đề cao dân tộc thường được những thành viên của một sắc tộc nhất định
khuyến khích, động viên khi họ cho rằng, văn hóa tộc người của họ cùng
những giá trị của nó là cao quý và coi văn hóa của những tộc người khác là
vô lý, lố bịch.
Chính vì vậy, ở khía cạnh thứ hai này, sự phát triển được hiểu là khả năng
giải phóng của các cá nhân khỏi sự kiềm tỏa cũng như những thành kiến
văn hóa, đồng thời mang đến cho họ những nhận thức hợp lý nhằm trao đổi
văn hóa với các chủng tộc và các dân tộc khác. Ý nghĩa này của sự phát
triển, như Julius Nyerere đã từng nhận định, là “sự phát triển của dân tộc”
không phải là sự phát triển thuần túy về mặt vật chất, mà là yêu cầu đầu
tiên của sự phát triển.
Với nghĩa thứ hai của sự phát triển - sự phát triển mang tính văn hóa, Hoa
Kỳ không hẳn đã phát triển hơn Kenya hay Nigeria. Và nói chung, thế giới
phương Tây chưa hẳn đã “văn hóa”(***) hơn thế giới ngoài phương Tây.
Trong khi triển khai bài viết này, ngày 1 tháng Tư năm 1991, tôi đọc được
bản tin về cuộc điều tra mới của Hoa Kỳ với tiêu đề Tình trạng tội phạm
gia tăng đang kìm hãm nước Mỹ đăng trên tờ Kenya’s Daily Nation; trong
đó nói rõ: ở Hoa Kỳ ngày nay, “làn sóng tội phạm đang trở nên khó kiểm
soát hơn bao giờ hết trong lịch sử 214 năm tồn tại của quốc gia này”; rằng,
“năm 1990, vụ việc công dân Hoa Kỳ giết hại, cưỡng hiếp, cướp đoạt và
hành hung những người khác đã đạt tới con số kỷ lục là 6 triệu vụ (Theo
Kenya Daily’s Nation ra ngày 01 - 4 - 1991, tr.10). Một xã hội như vậy
không thể lớn tiếng tuyên bố là có văn hóa phát triển hơn các quốc gia khác
hiểu theo bất kỳ khía cạnh nào của thuật ngữ này. Và cũng chính vì vậy, về
cơ bản, thuật ngữ “văn hóa” còn mang một phần ý nghĩa là sự biểu hiện
của những tiến bộ của con người vượt khỏi các dục vọng thấp hèn cũng
như sự trượt dốc của bản thân họ.
Thực vậy, trong những năm tháng châu Phi nằm dưới ách thống trị của chủ
nghĩa thực dân, một điều dễ nhận thấy là, thực dân ở châu Âu mặc dù có
nền công nghiệp phát triển cao hơn châu Phi nhưng về mặt văn hóa dường
như họ lại là những người đi sau. Những kẻ thống trị hầu như không dung
hợp được với những giá trị văn hóa đặc biệt của châu Phi. Trong khi đó,
các dân tộc bị trị ở châu Phi lại mở rộng cánh cửa văn hóa để tiếp nhận
những giá trị, những sáng tạo của châu Âu, và rất nhiều dân tộc ở châu lục
này đã tiếp nhận một phần nhất định những giá trị văn hóa châu Âu để làm
giàu văn hóa truyền thống của mình. Điều này không hẳn do bị đồng hóa,
mà còn bởi những giá trị họ được tiếp nhận đầu tiên từ văn hóa châu Âu
hấp dẫn hơn, có giá trị hơn những gì họ có.
Nhưng bản thân các dân tộc châu Âu lại là những người bài xích văn hóa.
Họ không tiếp nhận bất kỳ giá trị truyền thống nào của châu Phi cho dù nó
có tốt đẹp đến đâu chăng nữa. Thực ra, họ muốn hủy diệt truyền thống của
châu Phi hơn là tiếp nhận nó, và những giá trị mà họ coi là dung hợp chỉ
trong chừng mực chúng không “xung khắc” với hệ thống giá trị của châu
Âu mà thôi. Thực tế gần đây cho thấy, trong khi xây dựng hệ thống luật
pháp ở Kenya, một hệ thống do thực dân Anh khởi xướng, những điều
khoản thông thường của người châu Phi đã được phép đưa vào nhưng chỉ
trong chừng mực chúng không bị coi là chống lại “sự khai hóa” văn minh
của người Anh.
Sự phát triển hiểu theo khía cạnh văn hóa tạo ra rất nhiều vấn đề trong việc
xem xét liệu sự phát triển đó có phải là yêu cầu cấp bách hàng đầu hay
không. Việc hiểu sự phát triển chỉ trong phạm vi phát triển công nghiệp sẽ
hướng con người ta đi từ chỗ thờ phụng Chúa Trời với các thế lực siêu nhiên
khác đến việc tôn sùng tiền bạc và các loại máy móc công nghiệp, thậm chí
sẽ cơ giới hóa niềm vui và thẩm mỹ của con người. Lý tính sẽ bị thay đổi và
chân lý sẽ trở thành kỳ quái trước sức mạnh của máy móc.
Về đạo đức và nội lực (quyền năng) - vấn đề đặt ra với các nền văn hóa
Việc giới hạn quan niệm phát triển của cá nhân vào khía cạnh thứ nhất của
sự phát triển sẽ làm nảy sinh một cặp vấn đề khi chúng ta nghiên cứu
những khác biệt văn hóa đang diễn ra trên thế giới.
Vấn đề đầu tiên nảy sinh do con người chú trọng đến sự phát triển ở khía
cạnh công nghệ và xem xét những khác biệt văn hóa như là một yếu tố cản
trở sự phát triển. Con người lựa chọn một nền văn hóa nào đó và tuyên bố
rằng nó thích hợp với tinh thần phát triển của họ. Họ tranh luận hoặc mong
muốn rằng các giá đỡ văn hóa cần được mang ra khỏi đời sống hiện thực
nếu như sự phát triển được đề cao hơn. Nền văn hóa được lựa chọn đó xem
như có một hệ thống đạo đức lý tưởng nhất cho việc khai hóa văn minh cho
toàn thể nhân loại. Vì thế, hiện thực văn hóa này là một hiện thực hoàn hảo
trong khi sự biến mất của các nền văn hóa khác cũng được người ta chấp
nhận một cách hiển nhiên như vậy. Tôi sẽ xét vấn đề này như một vấn đề
đạo đức đặt ra đối với các nền văn hóa.
Vấn đề thứ hai xuất hiện từ một thực tế là sức mạnh công nghệ đã có xu
hướng chuyển thành sức mạnh chính trị và quân sự; việc sử dụng chính trị
và quân sự tạo điều kiện cho các quốc gia truyền bá văn hóa của mình,
đồng thời triệt tiêu các nền văn hóa khác cho dù chúng có giá trị như thế
nào đi nữa.
Mọi việc sẽ kết thúc khi chúng ta giải quyết những vấn đề cội nguồn của
những khác biệt văn hóa và đây cũng chính là câu trả lời thật sự cho những
vấn đề đạo đức, nội lực văn hóa. Liệu có hay không một nền văn hóa hoặc
một nhóm các nền văn hóa có thể có những ảnh hưởng tinh thần to lớn đối
với các nền văn hóa khác? Và câu hỏi thứ hai sẽ là, liệu sự vượt trội văn
hóa có biến thành một chức năng của sức mạnh chính trị - quân sự? Liệu có
phải người La Mã đã hành động đúng khi tiêu diệt nền văn hóa cổ Hy Lạp,
nền văn hóa đã sản sinh ra các nhà triết học lừng danh như Platôn và
Arixtốt? Chúng ta đã đánh giá đúng hay sai về việc đế chế La Mã áp đặt sự
cai trị của mình đối với Hy Lạp cũng như việc chúng ta đánh giá về những
tư tưởng của Xôcrát? Liệu chính quyền thực dân ở Kenya hay Nigeria đã
sáng suốt trong việc triệt tiêu hệ tư tưởng cũng như đời sống của những nhà
hiền triết châu Phi truyền thống?
Câu trả lời chắc chắn là KHÔNG!
Cho đến nay, sự phát triển đã bị tước mất khía cạnh văn hóa của nó, bị
khuôn theo khái niệm phát triển với nghĩa là phát triển kinh tế - công nghệ
và dùng để giải quyết các vấn đề đạo đức cũng như nội lực văn hóa như
một khuôn mẫu đơn giản nhất định. Cụ thể là, một vài nền văn hóa trở
thành chuẩn mực cho những nền văn hóa khác do sự quy định của Chúa
Trời hay lịch sử, hoặc nó có thể tự luận chứng cho vai trò được chọn lựa
của mình nhằm chống lại bất kỳ nền văn hóa nào trong hiện thực?
Những vấn đề phổ quát và những vấn đề riêng biệt trong văn hóa
Trên Tạp chí Quest (một tạp chí triết học châu Phi xuất bản ở Lusakka,
Zambia) số tháng 12 - 1990 có đăng bài Cuộc tranh luận Wiredu – Oruka bàn
về vấn đề tính phổ quát và tính riêng biệt của các nền văn hóa.
Trong bài viết đó, Giáo sư Wiredu đã đặt ra câu hỏi liệu có hay không sự
phổ quát văn hóa và ông trả lời câu hỏi này một cách khẳng định. Cụ thể,
ông cho rằng, văn hóa có sự phổ quát và nhờ đó, sự trao đổi thông tin của
con người không chỉ diễn ra bằng một thứ ngôn ngữ nhất định, mà còn
thông qua nhiều loại ngôn ngữ và văn hóa khác. Theo ông, điều này ít nhất
cũng tạo ra những yêu cầu đạo đức tối thiểu không chỉ trong phạm vi một
quốc gia, mà cả trên toàn thế giới. Thứ nữa, nó giúp loài người đề ra những
nguyên tắc để có thể đối thoại với nhau một cách phù hợp thông qua việc
sử dụng kinh nghiệm của mình và tránh những mâu thuẫn không đáng có.
Do vậy, theo Wiredu, ngôn ngữ hay sự giao tiếp, đạo đức, sự nhạy cảm đối
với các mâu thuẫn và việc học từ kinh nghiệm cấu thành nên những yếu tố
nền tảng nhằm khẳng định rằng đó chính là sự phổ quát văn hóa.
Vấn đề về cơ bản là như vậy và về nguyên tắc, có thể nhiều dân tộc cùng
tạo nên một nền văn hóa có tính phổ quát. Điều này cũng không loại trừ sự
hiện diện của những nét văn hóa đặc trưng riêng và có ý nghĩa đặc biệt đối
với một vài nền văn hóa được chọn lựa chứ không phải là với tất cả các nền
văn hóa. Đây là quan điểm thừa nhận cả sự phổ quát lẫn sự riêng biệt trong
tất cả các nền văn hóa.
Sự phản bác của tôi (Oruka) đối với quan điểm của Wiredu là ở chỗ, tôi chỉ
ra cái mà tôi gọi là những nguyên tắc văn hóa cơ bản trong triết học và
những khía cạnh học thuật khác, những cái được tôi coi như những khái
niệm, quan điểm, đặc trưng và những ước vọng cụ thể để hướng tới của một
trường phái tư tưởng nhất định nào đó và chúng được hình thành từ những
cuộc tranh luận, đối thoại trí tuệ uyển chuyển. Mặc dù có những sự phổ quát
văn hóa nhưng sự phổ biến của chúng trong tranh luận của con người thường
bị cản trở bởi sự chi phối của những nguyên tắc văn hóa cơ bản.
Vấn đề là ở chỗ, liệu chúng ta có thể gộp những nguyên tắc văn hóa cơ bản
đó và đưa vào cuộc đối thoại triết học hấp dẫn và tự do hay không? Đó là
về nguyên tắc, nhưng trên thực tế, việc thực hiện nó hoàn toàn không dễ
dàng.
Cách đặt vấn đề của Wiredu và những phản bác của tôi liệu có liên quan tới
chủ đề chính của bài viết này hay không? Những vấn đề trên có liên quan
đến các khía cạnh sau:
Có những sự phổ quát văn hóa nhưng chúng ta không võ đoán hay quá chắc
chắn về điều này, vì chúng ta dường như đang cố gắng tổng hòa những đặc
điểm văn hóa của mình và coi đó là sự phổ quát văn hóa. Điều này đã từng
diễn ra trong quá trình thực dân hóa với tư cách một trường hợp điển hình
của những đặc điểm văn hóa nhất định được tổng hợp trong cái gọi là sự phổ
quát. Ví dụ, ở Nam Phi, những nhận thức tôn giáo sai lệch và ý tưởng của
Giáo hội Cải tổ Hà Lan đã được tổng hợp như những lời răn của Chúa Trời
đối với muôn loài.
Chính vì vậy, về nguyên tắc, chúng ta nhận thấy có thể có những sự phổ
quát văn hóa. Tuy nhiên, trên thực tế, chúng ta phải tìm kiếm và nhận dạng
những nguyên tắc văn hóa, những cái cản trở nhận thức văn hóa tự do và sự
tranh luận giữa các dân tộc, các quốc gia và chủng tộc.
Hướng cơ bản trong cách tiếp cận này là phải nhận thức được rằng, chỉ với
tư cách những cuộc đối thoại mang tính trí tuệ dựa trên niềm tin đối với
những nguyên tắc văn hoá thì trong thực tế đời sống hàng ngày, những
tranh luận văn hoá ấy mới được thoả thuận một cách công bằng dựa trên
những hiện thực mang tính văn hoá đóng vai trò nền tảng của nó.
Chúng ta cần cố gắng nhận thức và vận dụng những đặc điểm đó nhằm đề
cao sự phát triển theo nghĩa đầy đủ nhất của thuật ngữ này.
Yếu tố đảm bảo cho sự phát triển văn hóa là con người thuộc các nền văn
hóa khác nhau phải hiểu biết những đặc trưng văn hóa của chính mình cũng
như những đặc trưng của các nền văn hóa khác. Do đó, bước tiếp theo là
việc chủ động tiếp biến, hấp thụ những giá trị văn hóa từ các nền văn hóa
khác và quảng bá những giá trị văn hóa của mình ra bên ngoài dựa trên cơ
sở hiểu biết lẫn nhau và sự trao đổi văn hóa tự do.r
Người dịch: ThS. NGUYỄN NGỌC TOÀN
(Viện Triết học, Viện Khoa học xã hội Việt Nam)
(***) Nguyên bản: “more culturally developed than” chúng tôi lược dịch là
“văn hóa” hơn (N.N.T.).
(*) Giáo sư, Đại học Nairôbi, Kenya.
(**) Nguyên văn: Decade of Cultural Development = Thập kỷ của sự phát
triển mang tính văn hóa. Chúng tôi lược dịch: thập kỷ của sự phát triển văn
hóa (N.N.T).
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- triet_hoc_69__019.pdf