Việc giải quyết các vấn đề dân sự trong vụ
án hình sự
Bộ luật Tố tụng hình sự qui định về giải
quyết các vấn đề dân sự trong vụ án hình sự.
Theo đó, việc giải quyết vấn đề dân sự trong vụ
án hình sự được tiến hành cùng với việc giải
quyết vụ án hình sự. Trong trường hợp vụ án
hình sự phải giải quyết vấn đề bồi thường, bồi
hoàn mà chưa có điều kiện chứng minh và
không ảnh hưởng đến giải quyết vụ án hình sự
thì có thể tách ra để giải quyết theo thủ tục tố
tụng dân sự. Đây là nguyên tắc chung giải
quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự. Thực
tiễn cho thấy, các cơ quan tiến hành tố tụng
thường giải quyết các vấn đề dân sự gắn liền
với việc chứng minh tội phạm, nhưng việc giải
quyết này còn nhiều bất cập, chưa thống nhất.
Qui định này nhằm tạo cơ sở pháp lý cho việc
giải quyết bồi thường, bồi hoàn trong hoạt động
tố tụng hình sự nhằm đảm bảo việc giải quyết
vụ án hình sự được nhanh chóng, kịp thời
nhưng vẫn đảm bảo quyền lợi của những người
tham gia tố tụng.
6 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 18/01/2022 | Lượt xem: 232 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Quan niệm về nạn nhân, bảo vệ nạn nhân của tội phạm trong qui định của pháp luật Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Đỗ Cảnh Thìn, Nguyễn Thị Thiên Trinh / Tạp chí Khoa học và Công nghệ Đại học Duy Tân 03(40) (2020) 74-79 74
Quan niệm về nạn nhân, bảo vệ nạn nhân của tội phạm trong qui định
của pháp luật Việt Nam
Concepts of victim and protection of crime victim
under Vietnamese law
Đỗ Cảnh Thìna,b*, Nguyễn Thị Thiên Trinha,b
Canh Thin Doa,b*, Thien Trinh Nguyen Thia,b
aKhoa Luật, Trường Đại học Duy Tân, Đà Nẵng, Việt Nam
bViện Nghiên cứu và Phát triển Công nghệ Cao, Trường Ðại học Duy Tân, Ðà Nẵng, Việt Nam
aFaculty of Law, Duy Tan University, Da Nang, 550000 Vietnam
bInstitute of Research and Development, Duy Tan University, Da Nang, 550000, Vietnam
(Ngày nhận bài: 13/01/2020, ngày phản biện xong: 19/6/2020, ngày chấp nhận đăng: 27/6/2020)
Tóm tắt
Nghiên cứu yếu tố nạn nhân của tội phạm có ý nghĩa quan trọng trong việc xây dựng pháp luật cũng như trực tiếp áp
dụng pháp luật. Tuy nhiên, việc nghiên cứu về vấn đề này còn chưa được quan tâm nhiều ở nước ta. Bài viết dưới đây
xin đề cập những nhận thức chung về nạn nhân và bảo vệ nạn nhân của tội phạm trong qui định của pháp luật Việt Nam,
qua đó góp phần làm sáng tỏ thêm về nhận thức và nâng cao hiệu quả công tác xây dựng và thực thi pháp luật ở nước ta
theo tinh thần cải cách tư pháp.
Từ khóa: Nạn nhân; bảo vệ nạn nhân của tội phạm.
Abstract
Victimology research plays a very important role in both law making and law enforcement. However, victimology
research in Vietnam is till poor. This paper will introduce the basic concepts of victim and protection of crime victim
under Vietnamese law, at the same time make it clearer on victim theories and help improve the law making and law
enforcement under the justice reform in Vietnam.
Keywords: Victim, protection of crime victim.
1. Một số nhận thức chung về nạn nhân của
tội phạm
Nạn nhân của tội phạm đã được đặt ra trong
pháp luật hình sự từ rất sớm. Thời Trung cổ,
pháp luật của nhà cầm quyền đặt ra để trừng
phạt người phạm tội như là một sự trả thù đối
với người phạm tội vì đã gây ra thiệt hại về tính
mạng, sự đau đớn về thể xác, tinh thần hay thiệt
hại về tài sản cho nạn nhân. Các nhà nghiên cứu
về nạn nhân học đã coi thời kỳ Trung cổ là
“thời vàng son của nạn nhân”. Đó là thời kỳ xã
hội áp dụng “hệ thống tư pháp của nạn nhân”
(victim justice system) [1]. Khi thời Trung cổ
kết thúc, do có sự thay đổi nhiều mặt về kinh tế,
xã hội nên hệ thống tư pháp của nạn nhân thu
hẹp dần và thay vào đó là hệ thống tư pháp hình
03(40) (2020) 74-79
*Corresponding Author: Do Canh Thin; Faculty of Law, Duy Tan University, Da Nang, 550000 Vietnam; Institute of
Research and Development, Duy Tan University, Da Nang, 550000, Vietnam.
Email: docanhthin.tccs@gmail.com
Đỗ Cảnh Thìn, Nguyễn Thị Thiên Trinh / Tạp chí Khoa học và Công nghệ Đại học Duy Tân 03(40) (2020) 74-79 75
sự. Tuy nhiên, trong thực tế giữa tội phạm và
nạn nhân của tội phạm luôn song hành và trong
không ít trường hợp nạn nhân lại đóng vai trò
quan trọng trong cơ chế làm phát sinh tội phạm.
Và, câu hỏi luôn được đặt ra là: Vì sao một
người lại trở thành nạn nhân của tội phạm?
Cũng vì vậy, nạn nhân học (khoa học nghiên
cứu về nạn nhân) trở thành một nội dung
nghiên cứu của Tội phạm học trên thế giới.
Để hiểu sâu hơn về nạn nhân của tội phạm,
chúng ta cần nghiên cứu về khái niệm của nó.
Theo Từ điển tiếng Việt: Nạn nhân (d). Người bị
nạn hoặc người phải chịu hậu quả của một tai
họa xã hội hay một chế độ bất công[2] Theo
Đại Từ điển tiếng Việt, nạn nhân là một danh từ,
được định nghĩa: “1. Người bị tai nạn; 2. Người,
tổ chức gánh chịu hậu quả từ bên ngoài đưa đến”
[3]. Như vậy, có thể hiểu nạn nhân là những cá
nhân, tổ chức, nhóm người bị thiệt hại về thể
chất, tinh thần hoặc tài sản. Nạn nhân của tội
phạm là những cá nhân, tổ chức, nhóm người bị
thiệt hại do hành vi của tội phạm gây ra.
Nạn nhân của tội phạm trong luật hình sự
được quy định trong các trường hợp: nạn nhân
là yếu tố định tội, nạn nhân là yếu tố định
khung, nạn nhân là yếu tố tăng nặng, giảm nhẹ
hình phạt đối với tội phạm. Trong vụ án hình
sự, cùng với người phạm tội, nạn nhân là người
liên quan trực tiếp nên có điều kiện biết rất rõ,
nhiều tình tiết xảy ra của vụ án nên có vai trò
quan trọng trong quá trình giải quyết vụ án từ
giai đoạn khởi tố vụ án đến giai đoạn điều tra,
truy tố, xét xử vụ án hình sự.
2. Bảo vệ nạn nhân của tội phạm trong qui
định của pháp luật Việt Nam
Nhà nước đặt ra pháp luật để quản lý xã hội
và bảo vệ con người, trong đó có nạn nhân của
tội phạm. Nạn nhân của tội phạm rất rộng, trong
đó có thể hiểu bao trùm gồm tất cả những
khách thể được pháp luật hình sự nhà nước bảo
vệ. Trong phạm vi bài viết này, chúng tôi chỉ
xin đề cập một nội dung: nạn nhân của tội phạm
dưới góc độ là bị hại. Bị hại là người bị thiệt hại
về thể chất và tinh thần, tài sản do tội phạm gây
ra. Theo đó, bị hại – nạn nhân của tội phạm là
một con người cụ thể, bị hành vi phạm tội gây
thiệt hại về thể chất (tính mạng, sức khỏe), tinh
thần (danh dự, nhân phẩm) hoặc tài sản. Pháp
luật bảo vệ nạn nhân của tội phạm được:
(a) Qui định trong Hiến pháp
Hiến pháp - một đạo luật quan trọng nhất,
đạo luật gốc của một quốc gia, bảo vệ con
người, bảo vệ quyền con người là một trong các
điều mà hiến pháp của bất cứ một quốc gia nào
cũng hướng đến. Tại Việt Nam, Hiến pháp đầu
tiên (1946) đã quy định rõ những quyền cơ bản
của công dân, trong đó có các quyền bình đẳng
trước pháp luật (Điều 5); quyền bất khả xâm
phạm về thân thể; quyền được bảo hộ tính
mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm Đặc
biệt, Hiến pháp năm 2013 đã có riêng một
chương (Chương 2) qui định về Quyền con
người [4]. Đây là một bước tiến rất quan trọng
trong quá trình lập pháp và hoàn thiện pháp luật
của nhà nước Việt Nam trong bảo vệ con người,
trong đó có nạn nhân của tội phạm.
(b) Quy định trong các luật và bộ luật
Trên cơ sở Hiến pháp, các luật, bộ luật (đặc
biệt là Bộ luật Hình sự và Bộ luật Tố tụng hình
sự) được ban hành nhằm cụ thể hóa Hiến pháp
với những nhiệm vụ cụ thể được thể hiện thông
qua các điều luật nhằm bảo vệ các quyền và lợi
ích hợp pháp của công dân, chống mọi hành vi
phạm tội; đồng thời giáo dục mọi người ý thức
tuân theo pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và
chống tội phạm.
- Bộ luật Hình sự: Luật hình sự được xem là
một ngành luật độc lập trong hệ thống pháp luật
Việt Nam và là một ngành luật giữ vị trí quan
trọng, là công cụ sắc bén, hữu hiệu để đấu
tranh, phòng ngừa và chống tội phạm, góp phần
đắc lực vào việc bảo vệ an ninh quốc gia, giữ
gìn trật tự xã hội, trong đó có nhiệm vụ rất quan
trọng là bảo vệ công dân không trở thành nạn
nhân của tội phạm.
Đỗ Cảnh Thìn, Nguyễn Thị Thiên Trinh / Tạp chí Khoa học và Công nghệ Đại học Duy Tân 03(40) (2020) 74-79 76
Bộ luật Hình sự (1985, 1999, 2009, 2015)
của Việt Nam đã từng bước xây dựng và hoàn
thiện các qui định liên quan đến yếu tố nạn
nhân của tội phạm cả về nội dung lẫn kỹ thuật
lập pháp (yếu tố định tội, yếu tố định khung và
các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ - như đã đề
cập ở trên). Những yếu tố này được thể hiện
trong luật Hình sự ở việc xác định các tiêu chí
chỉ ra những căn cứ mà từ đó yếu tố nạn nhân
làm cho hành vi phạm tội có ý nghĩa về chất,
cần phải qui định thành một tội danh cụ thể,
riêng biệt hoặc có ý nghĩa về lượng, được qui
định bởi các tình tiết định khung hay tình tiết
tăng nặng, giảm nhẹ. Về nguyên tắc, mọi người
đều bình đẳng trước pháp luật, có nghĩa là mọi
sự vi phạm pháp luật dù xâm phạm đến quyền
và lợi ích của ai cũng phải xử lý như nhau. Tuy
nhiên, trong một số trường hợp, tùy thuộc vào
từng thời điểm, yếu tố nạn nhân của tội phạm
chỉ ra mức độ nguy hiểm khác nhau của hành vi
phạm tội. Điều này, giúp cho việc xác định đầy
đủ các trường hợp nạn nhân của tội phạm có ý
nghĩa làm cho tội phạm có sự thay đổi về chất
(định tội) hoặc về lượng (định khung, tăng
nặng, giảm nhẹ) kể cả việc bỏ hoặc bổ sung
thêm nạn nhân nào đó trong Bộ luật Hình sự.
Yếu tố nạn nhân được chú ý trong việc qui định
hình phạt trong những trường hợp có liên quan
đến nạn nhân ở các tội danh khác nhau được
công bằng, thống nhất, hợp lý trong Bộ luật
Hình sự.
Mặc dù Bộ luật Hình sự qui định tội phạm
và hình phạt đối với người phạm tội nhưng
những qui định đó cũng chính là để bảo vệ công
dân không trở thành nạn nhân của tội phạm và
khi một người thực hiện tội phạm thì hình phạt
dành cho họ cũng chính là vì họ đã xâm hại đến
tính mạng, sức khỏe, tài sản, danh dự, nhân
phẩm của nạn nhân và họ phải chịu những hình
phạt tương xứng về hành vi đó.
Để thực hiện được điều này, Bộ luật Hình sự
đã có điều luật qui định các hành vi xâm phạm
đến quyền, lợi ích chính đáng của nạn nhân là
tội phạm và phải chịu hình phạt. Những quy
định này được qui định ở hầu hết các chương
nhưng tập trung ở các chương: Các tội xâm
phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm
của con người (chương XII); Các quyền xâm
phạm quyền tự do dân chủ của công dân
(chương XIII); Các tội xâm phạm chế độ sở
hữu (chương XIV); Các tội xâm phạm chế độ
hôn nhân và gia đình (chương XV) Trong
một số điều luật cụ thể ở các chương khác của
Bộ luật Hình sự đã qui định hành vi của người
gây thiệt hại đến tính mạng, sức khỏe, tài sản
của nạn nhân đến một mức độ nào đó là tội
phạm hoặc tình tiết định khung, tăng nặng hoặc
giảm nhẹ hình phạt.
Cùng với việc qui định tội danh và hình
phạt, Bộ luật Hình sự còn qui định các biện
pháp tư pháp liên quan đến bảo vệ nạn nhân của
tội phạm. Điều 48 Bộ luật Hình sự năm 2015
(bổ sung, sửa đổi năm 2017) qui định trả lại tài
sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại, buộc
công khai xin lỗi người bị hại [5]. Đây là biện
pháp tư pháp, mặc dù không phải là hình phạt
nhưng nó có vai trò quan trọng trong việc hỗ trợ
cho hình phạt hiệu quả và bảo vệ các quyền, lợi
ích hợp pháp của nạn nhân. Ngoài việc phải bồi
thường những thiệt hại về vật chất, người phạm
tội còn phải bồi thường thiệt hại về những tổn
thất về tinh thần mà nạn nhân phải gánh chịu.
Gây thiệt hại về tinh thần là xâm phạm danh dự,
nhân phẩm của công dân, làm mất uy tín của họ
như vu khống, làm nhục nạn nhân nhưng chưa
ở mức độ nghiêm trọng. Trong trường hợp cụ
thể hành vi gây thiệt hại về tinh thần có thể họ
vẫn phải bồi thường vật chất cho người bị hại
theo qui định của Bộ luật Dân sự năm 2015
(trách nhiệm dân sự trong vụ án hình sự). Tòa
án có thể buộc người bị áp dụng biện pháp tư
pháp này công khai xin lỗi người bị hại nếu có
sự đồng ý của người bị hại trên cơ sở tự
nguyện.
- Bộ luật Tố tụng hình sự: Để đấu tranh,
phòng ngừa và chống tội phạm có hiệu quả,
Nhà nước không chỉ qui định hành vi nguy
hiểm cho xã hội là tội phạm và phải chịu hình
Đỗ Cảnh Thìn, Nguyễn Thị Thiên Trinh / Tạp chí Khoa học và Công nghệ Đại học Duy Tân 03(40) (2020) 74-79 77
phạt mà còn phải có các biện pháp đảm bảo các
qui định đó được thi hành nghiêm chỉnh trong
thực tế. Bộ luật Tố tụng hình sự được ban hành
là nhằm bảo đảm cho các qui định đó được thực
thi đúng đắn - đó cũng là nhằm bảo vệ các
quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, trong đó
có các nạn nhân của tội phạm. Bộ luật Tố tụng
hình sự năm 2015 đã có nhiều điều luật cụ thể
ghi nhận và bảo vệ các quyền và lợi ích hợp
pháp của người bị hại - với vị trí là nạn nhân
của tội phạm.
Chúng ta có thể nghiên cứu pháp luật bảo vệ
người bị hại dưới một số góc độ sau đây:
+ Qui định quyền của người bị hại
Điều 62 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015
qui định người bị hại (hoặc người đại diện hợp
pháp của họ) có quyền [6]: Được thông báo,
giải thích quyền và nghĩa vụ quy định tại Điều
này; Đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu;
Trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật
liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tiến
hành tố tụng kiểm tra, đánh giá; Đề nghị giám
định, định giá tài sản theo quy định của pháp
luật; Được thông báo kết quả điều tra, giải
quyết vụ án; Đề nghị thay đổi người có thẩm
quyền tiến hành tố tụng, người giám định,
người định giá tài sản, người phiên dịch, người
dịch thuật; Đề nghị hình phạt, mức bồi thường
thiệt hại, biện pháp bảo đảm bồi thường; Tham
gia phiên tòa; trình bày ý kiến, đề nghị chủ tọa
phiên tòa hỏi bị cáo và người khác tham gia
phiên tòa; tranh luận tại phiên tòa để bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của mình; Xem biên
bản phiên tòa; Tự bảo vệ, nhờ người bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp cho mình; Tham gia
các hoạt động tố tụng theo quy định của Bộ luật
này; Yêu cầu cơ quan có thẩm quyền tiến hành
tố tụng bảo vệ tính mạng, sức khỏe, danh dự,
nhân phẩm, tài sản, quyền và lợi ích hợp pháp
khác của mình, người thân thích của mình khi
bị đe dọa; Kháng cáo bản án, quyết định của
Tòa án; Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng
của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố
tụng... ngoài ra, Bộ luật Tố tụng hình sự còn qui
định nhiều quyền khác của người bị hại theo
qui định của pháp luật khi tham gia tố tụng.
+ Trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố
tụng
Một trong những nguyên tắc cơ bản của Bộ
luật Tố tụng hình sự là tôn trọng và bảo vệ các
quyền cơ bản của công dân. Theo đó, cơ quan
tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng
phải tôn trọng và bảo vệ các quyền và lợi ích
hợp pháp của công dân; thường xuyên kiểm tra
tính hợp pháp và sự cần thiết của những biện
pháp đã áp dụng; kịp thời hủy bỏ hoặc thay đổi
các biện pháp đó nếu xét thấy có vi phạm pháp
luật hoặc không còn cần thiết nữa. Quy định
này không chỉ nhằm tôn trọng bảo vệ các quyền
cơ bản của công dân đối với tội phạm, những
người tham gia tố tụng mà còn cả với nạn nhân
của tội phạm. Bộ luật Tố tụng hình sự qui định
về bảo hộ tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân
phẩm, tài sản của công dân: “Người bị hại,
người làm chứng và người tham gia tố tụng
khác cũng như người thân thích của họ mà bị đe
dọa đến tính mạng, sức khỏe, danh dự nhân
phẩm, tài sản thì cơ quan có thẩm quyền phải
áp dụng những biện pháp cần thiết để bảo vệ
theo qui định của pháp luật”; qui định bảo đảm
quyền bình đẳng trước tòa án: “Kiểm sát viên,
bị cáo, người bào chữa, người bị hại, nguyên
đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người đại diện
hợp pháp của họ, người bảo vệ quyền lợi của
đương sự đều có quyền bình đẳng trong việc
đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, đưa ra yêu cầu
và tranh luận dân chủ trước tòa án. Tòa án có
trách nhiệm tạo điều kiện cho họ thực hiện các
quyền đó”.
Những vụ án về các tội phạm được qui định
tại một số điều của Bộ luật Hình sự chỉ được
khởi tố khi có yêu cầu của người bị hại hoặc
của đại diện hợp pháp của người bị hại là người
chưa thành niên, người có nhược điểm về tâm
thần hoặc thể chất. Trong trường hợp người đã
Đỗ Cảnh Thìn, Nguyễn Thị Thiên Trinh / Tạp chí Khoa học và Công nghệ Đại học Duy Tân 03(40) (2020) 74-79 78
yêu cầu khởi tố rút yêu cầu trước ngày mở
phiên tòa sơ thẩm thì vụ án phải được đình chỉ.
Trong trường hợp có căn cứ để xác định người
đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu khởi tố trái với ý
muốn của họ do bị ép buộc, cưỡng bức thì tuy
người đã rút yêu cầu, cơ quan điều tra, viện
kiểm sát, tòa án vẫn có thể tiếp tục tiến hành tố
tụng đối với vụ án. Người bị hại đã rút yêu cầu
khởi tố thì không có quyền yêu cầu lại, trừ
trường hợp rút yêu cầu do bị ép buộc, cưỡng
bức.
Khi người tham gia tố tụng có yêu cầu về
những vấn đề liên quan đến vụ án thì cơ quan
điều tra, viện kiểm sát trong phạm vi trách
nhiệm của mình giải quyết yêu cầu của họ và
báo cho họ biết kết quả. Trong trường hợp
không chấp nhận yêu cầu thì cơ quan điều tra
hoặc viện kiểm sát phải trả lại và nêu rõ lý do.
Nếu không đồng ý với kết quả giải quyết của cơ
quan điều tra hoặc viện kiểm sát thì người tham
gia tố tụng có quyền khiếu nại theo qui định.
Việc triệu tập, lấy lời khai của người bị hại,
nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án được
tiến hành theo qui định tại Bộ luật TTHS.
Nếu người làm chứng hay người bị hại là
người nhận dạng thì trước khi tiến hành, điều
tra viên phải giải thích cho họ biết trách nhiệm
của việc từ chối, trốn tránh khai báo hoặc cố ý
khai báo gian dối. Việc giải thích phải được ghi
vào trong biên bản. Việc nhận dạng phải có
người chứng kiến và phải được lập biên bản
theo qui định.
Điều tra viên tiến hành xem xét thân thể
người bị hại để phát hiện trên người họ dấu vết
của tội phạm hoặc các dấu vết khác có ý nghĩa
đối với vụ án. Việc xem xét thân thể phải do
người cùng giới tiến hành, có người cùng giới
chứng kiến. Không được xúc phạm danh dự,
nhân phẩm hoặc sức khỏe của người bị xem xét
thân thể
+ Việc giải quyết các vấn đề dân sự trong vụ
án hình sự
Bộ luật Tố tụng hình sự qui định về giải
quyết các vấn đề dân sự trong vụ án hình sự.
Theo đó, việc giải quyết vấn đề dân sự trong vụ
án hình sự được tiến hành cùng với việc giải
quyết vụ án hình sự. Trong trường hợp vụ án
hình sự phải giải quyết vấn đề bồi thường, bồi
hoàn mà chưa có điều kiện chứng minh và
không ảnh hưởng đến giải quyết vụ án hình sự
thì có thể tách ra để giải quyết theo thủ tục tố
tụng dân sự. Đây là nguyên tắc chung giải
quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự. Thực
tiễn cho thấy, các cơ quan tiến hành tố tụng
thường giải quyết các vấn đề dân sự gắn liền
với việc chứng minh tội phạm, nhưng việc giải
quyết này còn nhiều bất cập, chưa thống nhất.
Qui định này nhằm tạo cơ sở pháp lý cho việc
giải quyết bồi thường, bồi hoàn trong hoạt động
tố tụng hình sự nhằm đảm bảo việc giải quyết
vụ án hình sự được nhanh chóng, kịp thời
nhưng vẫn đảm bảo quyền lợi của những người
tham gia tố tụng.
+ Bồi thường cho người bị oan
Cơ quan có thẩm quyền trong hoạt động tố
tụng phải bồi thường cho người bị thiệt hại;
người đã gây ra thiệt hại có trách nhiệm bồi
hoàn cho cơ quan có thẩm quyền theo qui định
của pháp luật. Bộ luật Tố tụng hình sự qui định
bảo đảm quyền được bồi thường thiệt hại và
phục hồi danh dự, quyền lợi của người bị oan.
Theo đó, người bị oan do người có thẩm quyền
trong hoạt động tố tụng hình sự gây ra có quyền
được bồi thường thiệt hại và phục hồi danh dự,
quyền lợi. Cơ quan có thẩm quyền trong hoạt
động tố tụng hình sự đã làm oan phải bồi
thường thiệt hại và phục hồi danh dự, quyền lợi
cho người bị oan; người đã gây thiệt hại có
trách nhiệm bồi hoàn cho cơ quan có thẩm
quyền theo qui định của pháp luật. Theo qui
định của Bộ luật Tố tụng hình sự thì người bị
oan có quyền được phục hồi danh dự; được bồi
thường tổn thất về tinh thần, bồi thường thiệt
hại vật chất, trong trường hợp người bị oan
chết; được bồi thường thiệt hại vật chất trong
trường hợp bị tổn thất về sức khỏe; được trả lại
Đỗ Cảnh Thìn, Nguyễn Thị Thiên Trinh / Tạp chí Khoa học và Công nghệ Đại học Duy Tân 03(40) (2020) 74-79 79
tài sản và bồi thường trong trường hợp tài sản
bị xâm hại; được bồi thường thiệt hại do thu
nhập thực tế bị mất.
Như vậy, có thể thấy trong quá trình xây
dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật của nước
ta, yếu tố nạn nhân và bảo vệ nạn nhân của tội
phạm ngày càng được quan tâm, được Hiến
pháp, pháp luật và các bộ luật điều chỉnh bảo
đảm tinh thần cải cách tư pháp, sự mở rộng khái
niệm về an ninh con người và văn minh pháp lý
quốc tế. Vì vậy, cần phải nâng cao nhận thức
cũng như quán triệt trong thực thi pháp luật về
yếu tố nạn nhân, bảo vệ nạn nhân của tội phạm
để các quy định về vấn đề này qua các văn bản
pháp luật trên thực sự được phát huy hiệu quả.
Tài liệu tham khảo
[1] Nguyễn Minh Đức, Nạn nhân học - những vấn đề lý
luận và thực tiễn. Học viện Cảnh sát nhân dân, 2014.
[2] Từ điển tiếng Việt, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội,
1988.
[3] Đại Từ điển tiếng Việt, Nxb Văn hóa, Thông tin, Hà
Nội, 1999.
[4] Hiến pháp năm 2013, Nxb Công an nhân dân, 2015.
[5] Bộ luật Hình sự năm 2009, Nxb Công an nhân dân,
Hà Nội 2010.
[6] Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, Nxb Công an
nhân dân, 2017.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- quan_niem_ve_nan_nhan_bao_ve_nan_nhan_cua_toi_pham_trong_qui.pdf