Kết luận
Qua phân tích và so sánh khung khổ pháp
luật và cấu trúc quan trị của CTCP Hàn Quốc với
pháp luật quản trị công ty và các cấu trúc tương
ứng của Việt Nam có thể thấy pháp luật về quản
trị CTCP ở Việt Nam hiện nay đang bộc lộ một
số hạn chế cơ bản cần nhanh chóng cải cách. Thứ
nhất, đó là hệ thống pháp luật thương mại mang
tính nền tảng còn cồng kềnh và tản mạn, thậm
chí còn có những quy định mâu thuẫn. Thứ hai,
khung khổ pháp luật về quản trị công ty mặc dù
đã cố gằng tiếp thu tương đối nhanh các quy tắc
quản trị công ty hiện đại của OECD và các thông
lệ quản trị tốt của các quốc gia khác, nhưng còn
bộc lộ những quy định chưa thấu đáo, chưa phù
hợp về cách thức cấu trúc mô hình quản trị công
ty một tầng, thiếu sự thống nhất và hài hòa nên
hạn chế hiệu quả thi hành luật trên thực tiễn.
Để khắc phục kịp thời các hạn chế nói trên,
giải pháp trước mắt là khắc phục ngay những quy
định còn thiếu hụt và bất hợp lý về quản trị công
ty trong luật bổ sung sửa đổi LDN 2014 hiện
đang trong quá trình dự thảo. Về lâu dài, cần có
một khung khổ quản trị công ty hoàn chỉnh, nằm
trong một tổng thể hệ thống pháp luật thương
mại tập trung thống nhất, có hiệu lực pháp luật
cao và ổn định. Chính vì vậy, xu hướng xây dựng
một bộ luật thương mại chung tương tự như KCC
ở Việt Nam là một định hướng đúng đắn trong
tương lai gần. Như vậy, Bộ luật Thương mại Hàn
Quốc có thể là một trong những hình mẫu hữu
ích mà các nhà làm luật Việt Nam cần tham
khảo
10 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 21/01/2022 | Lượt xem: 206 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Quản trị công ty Cổ phần theo pháp luật Hàn Quốc: Một vài gợi ý cho Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
VNU Journal of VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 36, No. 2 (2020) 35-44
35
Review Article
Corporate governance in South Korean laws:
Some suggestions for Vietnam
Phan Thi Thanh Thuy
VNU School of Law, Vietnam National University, Hanoi,
144 Xuan Thuy, Cau Giay, Hanoi, Vietnam
Received 22 January 2020
Revised 17 March 2020; Accepted 26 July 2020
Abstract: Having an advanced legal framework for corporate governance is always one of the most
prerequisites for effective business operation of joint stock companies. Being aware of this issue,
since the first enactment in 1990, enterprise law in Vietnam has been consecutively improved and
newly promulgated to absorb the OECD modern principles of corporate governance and good
international practices, particularly from the developed countries which have successful economic
cooperation with Vietnam in Asia. This article will focus on exploring and analyzing and making
comments on the legal framework and corporate structures of joint stock company regulated in
Korean Commercial Code. In term of comparison with those similar elements in Vietnamese
Enterprise Law 2014, the article will also make recommendations as suggestions for the
improvement of corporate governance law in the country.
Keywords: joint stock company, corporate governance, corporate structures, general meeting of
shareholders, board of directors, independent directors.
________
Corresponding author.
Email address: thuyptt@vnu.edu.vn
https://doi.org/10.25073/2588-1167/vnuls.4302
P. Thuy / VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 36, No. 2 (2020) 35-44 36
Quản trị công ty cổ phần theo pháp luật Hàn Quốc:
một vài gợi ý cho Việt Nam
Phan Thị Thanh Thủy
Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, 144 Xuân Thủy, Cầu Giấy, Hà Nội
Nhận ngày 22 tháng 01 năm 2019
Chỉnh sửa ngày 17 tháng 3 năm 2019; Chấp nhận đăng ngày 26 tháng 6 năm 2019
Tóm tắt: Có một khung khổ pháp luật quản trị công ty cổ phần tiên tiến luôn là một trong những
tiền đề quan trọng nhất cho hoạt động kinh doanh hiệu quả của công ty. Ý thức được điều này, kể
từ khi ban hành lần đầu tiên năm 1990 đến nay, Luật doanh nghiệp Việt Nam liên tục được sửa đổi
và ban hành mới để tiếp thu những nguyên tắc quản trị công ty tiến bộ của OECD cũng như những
thông lệ quản trị tốt của các quốc gia trên thế giới, đặc biệt là những đất nước phát triển mà Việt
Nam có quan hệ hợp tác kinh tế thành công. Bài viết này sẽ tập trung vào tìm hiểu và phân tích, đưa
ra những bình luận về khung khổ pháp luật và cấu trúc quản trị công ty của Hàn Quốc trong sự so
sánh với những cấu trúc tương đồng ở Việt Nam. Từ đó, bài viết cũng đưa ra nhưng nhận xét mang
tính gợi ý để đóng góp cho công cuộc hoàn thiện pháp luật về quản trị công ty Việt Nam.
Từ khóa: công ty cổ phần, quản trị công ty, cấu trúc quản trị, đại hội đồng cổ đông, hội đồng quản
trị, giám đốc độc lập.
1. Mở đầu
Từ những năm 1960 của thế kỷ XX, nền kinh
tế Hàn Quốc đã phát triển mạnh mẽ và được thế
giới vinh danh là một trong bốn nền kinh tế mới
và phát triển nhanh nhất châu Á cùng với Nhật
Bản, Hồng Kông và Đài Loan. Mặc dù trải qua
khá nhiều biến động chính trị cũng như khủng
hoảng kinh tế, Hàn Quốc vẫn được đánh giá là
một trong những nền kinh tế đầu tầu và có những
doanh nghiệp có nền quản trị doanh nghiệp thuộc
hàng tốt nhất của khu vưc Đông Á [1]. Một trong
trong những yếu tố cơ bản góp phần làm nên
thành công này là Hàn Quốc có khung khổ pháp
luật thương mại nói chung và pháp luật quản trị
công ty nói riêng hiện đại, linh hoạt và liên tục
được cải cách thông qua nhiều lần sửa đổi bổ
sung để cập nhật các nguyên tắc quản trị hiện đại
và đáp ứng nhu cầu phát triển của kinh tế xã hội.
________
Tác giả liên hệ.
Địa chỉ email: thuyptt@vnu.edu.vn
https://doi.org/10.25073/2588-1167/vnuls.4302
Đặc biệt sau khủng hoảng tài chính châu Á 1997,
nhận thức được những lỗ hổng trong quản trị
công ty cổ phần (CTCP), Hàn Quốc đã có những
cải cách mạnh mẽ về khung khổ pháp luật quản
trị công ty để gia tăng hiệu quả hoạt động của
nền kinh tế. Để làm được điều này, các nhà lập
pháp đặc biệt chú trọng đến thiết lập cơ chế quản
trị minh bạch, có trách nhiệm giải trình cao,
nhưng vẫn linh hoạt thông qua phân cấp quản lý,
phân công chức năng, nhiệm vụ rõ ràng giữa các
cấu trúc quản trị công ty, tăng cường giám sát nội
bộ và mở rộng quyền cho cổ đông thiểu số.
Bài viết này sẽ cung cấp một cái nhìn khái
quát về pháp luật điều chỉnh và cấu trúc quản trị
CTCP Hàn Quốc. Từ đó sẽ tiến hành so sánh với
các cấu trúc tương đồng trong quản trị công ty
theo pháp luật Việt Nam và đưa ra một số đề xuất
có tính gợi mở để hoàn thiện khung khổ pháp luật
P. Thuy / VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 36, No. 2 (2020) 35-44 37
quản trị công ty Việt Nam trong bối cảnh Luật
Doanh nghiệp (LDN) 2014 đang được sửa đổi.
2. Khái quát về khung khổ pháp luật quản
trị công ty Hàn Quốc
Hệ thống pháp luật Hàn Quốc về cơ bản
thuộc về dòng họ Civil law, tuy nhiên, sau Chiến
tranh Thế giới thứ hai, do ảnh hưởng của mối
quan hệ đồng minh đặc biệt với Hoa Kỳ, pháp
luật thương mại Hàn Quốc thể hiện sự du nhập
và pha trộn hài hòa giữa các yếu tố của Civil law
và Common law, đặc biệt là mang dấu ấn của
luật công ty Mỹ [2]. Tại quốc gia này, Bộ luật
Dân sự (Civil Code) điều chỉnh tất cả các vấn đề
cơ bản của quan hệ hợp đồng tư nói chung, các
vấn đề thuộc về thương nhân và hành vi thương
mại được điều chỉnh bởi Luật Thương mại
(Commercial Act). Mặc dù được cơ quan lập
pháp gọi một cách khiêm tốn là “Luật” (Act),
nhưng do tính chất pháp điển hóa cao, có phạm
vi điều chỉnh rộng bao quát nhiều lĩnh vực
thương mại và khối lượng đồ sộ các điều luật
chứa đựng các quy định chi tiết, có tính áp dụng
trực tiếp, Luật Thương mại Hàn Quốc thực sự là
xứng đáng là một “Bộ luật” theo quan niệm hiện
đaị, đó là: “không chỉ là một tập hợp của các
đạo luật thành văn đang tồn tại, mà còn chứa
đựng vô số những quy định bất thành văn về một
chủ đề, được ban hành mới như một hệ thống
pháp luật hoàn chỉnh” [3]. Vì vậy nó có tên gọi
quốc tế phổ biến là Bộ luật Thương mại Hàn
Quốc (Commercial Code of Korea - KCC).
Kể từ lần đầu tiên được ban hành năm 1963
đến nay, KCC đã liên tiếp được sửa đổivà bổ
sung để đáp ứng những thay đổi của môi trường
kinh doanh. Sau khủng hoảng kinh tế châu Á
năm 1997, Hàn Quốc rất chú trọng vào cải cách
hoạt động quản trị CTCP đại chúng để tăng
cường tính minh bạch, trách nhiệm giải trình và
hiệu quả hoạt động. Đặc biệt từ khi Hàn Quốc
chính thức trở thành một thành viên của Tổ chức
Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD) năm 2009
đến nay, Bộ luật thương mại hiện hành đã được
bổ sung sửa đổi 8 lần, tập trung vào các mục tiêu
chủ yếu là đáp ứng sự thay đổi nhanh chóng của
môi trường kinh doanh, cập nhật những hành vi
thương mại hiện đại, khuyến khích thương mại
công bằng và rất chú trọng cải thiện các quy định
về quản trị công ty [4].
Về tổng thể, Bộ luật hiện hành (lần sửa đổi
gần nhất năm 2015) gồm có 935 điều, chưa kể
các phụ lục giải thích kèm theo, được chia làm 5
phần bao gồm: Những quy định chung, Hành vi
thương mại, Công ty, Bảo hiểm, Thương mại
hàng hải và Vận chuyển hàng không [5]. Phần III
của KCC tập trung vào các quy định về công ty,
trong đó có chế định về công ty cổ phần (CTCP)
được xem là nền tảng pháp lý chính của quản trị
công ty. Ngoài ra, các khía cạnh về giao dịch
vốn, thực thi giám sát nội bộ, thực hiện quyền
của cổ đông và kiểm toán trong quản trị CTCP
đại chúng còn bị điều chỉnh bởi các luật khác
Luật về Dịch vụ đầu tư và Thị trường vốn, Luật
Chứng khoán và Giao dịch chứng khoán, Luật
Kiểm toán độc lập.
Những quy định cơ bản của chế định CTCP
nằm toàn bộ trong Chương 4, Phần 3 của KCC
gồm có 255 điều luật (từ Điều 288 đến Điều
542). Chương này điều chỉnh tất cả các vấn đề
liên quan, bao gồm các vấn đề về thành lập và
hoạt động của các cấu trúc quản trị công ty, về
chuyển nhượng, giao dịch cổ phần và tái cấu trúc
của CTCP. Để đảm bảo tính khoa học và tính
hữu dụng, Chương 4 được chia được chia thành
nhiều mục (Section) điều chỉnh những nhóm vấn
đề nhất định. Ví dụ. Mục 2 Chương 4, quy định
về Cổ phần, Mục 3 quy định về các cấu trúc quản
trị CTCP.
Thoạt nhìn, toàn bộ KCC và cả Chương 4 về
CTCP đều có cấu trúc khá đồ sộ, các điều luật
hầu hết đều dài và có vẻ phức tạp, khó hiểu so
với cấu trúc rất đơn giản của LDN Việt Nam,
nhưng thực tế khi tìm hiểu kỹ lại thấy cách cấu
trúc này thể hiện tính khoa học, tính logic, thuận
tiện cho tra cứu và sử dụng. Đặc biệt, các điều
luật được soạn thảo rất công phu, chứa đựng các
quy định có tính hướng dẫn, giải thích rất rõ
ràng, chi tiết và có tính áp dụng trực tiếp. Trong
mỗi điều luật, đều có ghi chú rõ ràng về nội dung,
số lần và hiệu lực của những lần bổ sung sửa đổi
(nếu có). Ví dụ, bên cạnh Điều 393 về “Hoãn và
Tiếp tục cuộc họp HĐQT”, còn có Điều 393-2
P. Thuy / VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 36, No. 2 (2020) 35-44 38
về “Các ủy ban trong HĐQT”, được chú thích là
điều luật được bổ sung vào Bộ luật hiện hành bởi
Đạo luật sửa đổi số 6086, ngày 31/12/ 1999.
Cách thức làm luật khoa học và cặn kẽ này làm
cho người đọc hiểu rõ về ý nghĩa và tầm quan
trọng của các điều luật khi tìm hiểu và áp dụng.
KCC không cần chờ hàng loạt các văn bản
pháp quy được ban hành sau đó hướng dẫn việc
thực thi pháp luật như luật doanh nghiệp và các
đạo luật khác ở Việt Nam. Tuy nhiên, trong
những trường hợp nhất định, Bộ luật cũng trao
quyền cho Tổng thống được ban hành các Nghị
định hướng dẫn thi hành luật (Nghị định Tổng
thống) để giải thích, hướng dẫn một số điều
khoản nhất định để làm tăng tính linh hoạt và phù
hợp với sự thay đổi của hoàn cảnh trong nước và
thị trường thương mại quốc tế mà không làm mất
đi tính ổn định của KCC. Chẳng hạn, Điều 542-
4 (Công bố thông tin về triệu tập ĐHĐCĐ) quy
định: công ty đại chúng khi triệu tập họp
ĐHĐCĐ, phải công bố mục đích cuộc họp, thành
phần tổ chức và các thông tin có liên quan khác
nếu Nghị định có yêu cầu. Nhìn chung khung
khổ pháp luật cho quản trị CTCP ở Hàn Quốc có
tính ổn định và hiệu lực pháp lý thống nhất
nhưng vẫn đảm bảo sự linh hoạt.
3. Khái niệm đặc điểm và phân loại công ty
cổ phần Hàn Quốc
1. Khái niệm và đặc điểm công ty cổ phần
KCC không có định nghĩa riêng về CTCP mà
chỉ đưa ra định nghĩa chung về công ty như sau:
“Công ty là một tổ chức kinh doanh được thành
lập với mục đích tham gia vào các hoạt động
thương mại và bất kỳ hoạt động tạo ra lợi nhuận
nào khác.” (Điều 169). Bộ luật cũng chỉ rõ “Các
công ty được phân thành năm loại, cụ thể là các
công ty hợp danh, công ty hợp danh hữu hạn,
công ty trách nhiệm hữu hạn, CTCP và công ty
hữu hạn.” (Điều 170). Có thể tổng hợp khái niệm
về CTCP từ các quy định của KCC như sau:
- Vốn được chia làm nhiều phần bằng nhau
gọi là cổ phần. Công ty có quyền xác định mệnh
giá cổ phần nhưng phải có giá trị ít nhất 100 won
(Điều 329);
- Cổ đông có thể là cá nhân hay tổ chức, KCC
không có quy định về số lượng tối thiểu và tối đa
cổ đông, do đó có thể suy ra CTCP có ít nhất một
cổ đông và không hạn chế số lượng tối đa [6].
- Cổ đông chỉ trách nhiệm hữu hạn trong
phạm vi số vốn mà họ góp vào công ty (Điều
331).
- Cổ phần có thể được tự do chuyển nhượng
tuy phải được sự đồng ý của Hội đồng quản trị
và việc chuyển nhượng này không chống lại lợi
ích của công ty (Điều 335).
- CTCP có thể phát hành cổ phần (Điều 416)
và trái phiếu trên thị trường (Điều 469).
2. Phân loại công ty cổ phần
- Dựa vào quy mô và khả năng huy động vốn
CTCP được chia làm 2 loại là CTCP đại chúng
(Listed company) và CTCP thông thường.
CTCP đại chúng được KCC giải thích là
công ty có phiếu phát hành đã được niêm yết trên
thị trường chứng khoán ((Điều 542-2). Giải thích
này cũng hoàn toàn phù hợp với định nghĩa về
công ty đại chúng tại Điều 2(13).1 Luật Chứng
khoán và Giao dịch chứng khoán (Luật Chứng
khoán - Securities and Exchange Act). Tương tự
như ở Việt Nam, Luật Chứng khoán sẽ quy định
các tiêu chí, điều kiện để công ty đại chúng giao
dịch vốn trên thị trường chứng khoán. Tuy nhiên,
trong KCC cũng có một mục riêng Mục 13- Các
trường hợp đặc biệt đối với CTCP đại chúng để
quy định về các hoạt động quản trị công ty đặc
thù mà CTCP đại chúng phải tuân thủ như quy
trình kiểm soát nội bộ và theo dõi biến động cổ
phần sở hữu bởi các cổ đông trong công ty.
Như vậy, các CTCP không hội đủ các tiêu
chuẩn để xác định là công ty đại chúng là công
ty cổ phần thông thường, hoạt động theo các quy
định của KCC và các luật có liên quan.
4. Về cấu trúc quản trị của công ty cổ phần Hàn Quốc
Do ảnh hưởng sâu của luật công ty Mỹ, KCC
chỉ quy định về mô hình CTCP có cấu trúc quản
P. Thuy / VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 36, No. 2 (2020) 35-44 39
trị một tầng cho cả CTCP đại chúng và CTCP
thông thường. Theo đó, trong bộ máy quản trị
không tồn tại một cơ quan giám sát nội bộ do
ĐHĐCĐ bổ nhiệm và độc lập với Hội đồng quản
trị. Cũng không có sự tách biệt giữa HĐQT- cơ
quan đại điện cho các chủ sở hữu công ty và ban
giám đốc điều hành như trong mô hình quản trị
hai tầng truyền thống của Đức hay mô hình quản
trị CTCP hỗn hợp trong Luật Doanh nghiệp 2014
của Việt Nam [7].
Mặc dù vẫn có một số khác biệt nhất định so
với mô hình quản trị công ty Mỹ, nhìn chung cấu
trúc quản trị CTCP Hàn Quốc đều có những cơ
quan quản trị quan trọng và cơ bản nhất gồm: Đại
hội đồng cổ đông (ĐHĐCĐ), Hội đồng quản trị
(HĐQT), Giám đốc điều hành và giám đốc độc
lập, Kiểm toán. Các chức danh khác thường thấy
trong mô hình CTCP Mỹ như Chủ tịch công ty,
Thư ký công ty, Người quản lý vốn không có
trong các quy định về thành lập công ty của
KCC, tuy nhiên luật cũng không cấm các công
ty bổ nhiệm các chức danh này, miễn là được ghi
nhận trong Điều lệ thành lập công ty và được
ĐHĐCĐ chấp nhận trong nghị quyết cuộc họp.
*Đại hội đồng cổ đông (General meeting of
shareholders): Theo thông lệ quốc tế, ĐHĐCĐ
là cơ quan quản trị cao nhất trong công ty, bao
gồm toàn thể các cổ đông sở hữu ít nhất một cổ
phần hoặc bao gồm một số lượng cổ đông nhất
định đủ để đại diện cho các cổ đông. Cơ quan
này có đảm nhiệm vai trò bàn bạc và ra nghị
quyết để quyết định những vấn đề thuộc thẩm
quyền của ĐHĐCĐ do KCC hoặc do Điều lệ quy
định. Thông thường đó là những vấn đề quan
trọng nhất trong công ty như như chiến lược phát
triển và kinh doanh, bổ nhiệm bộ máy quản trị
công ty, định hướng quan hệ tài chính và kinh
doanh của công ty, quyết định các vấn đề về
chuyển nhượng, đầu tư tài sản, tái cấu trúc công
ty, thông qua báo cáo tài chính của công ty vv
Mặc dù ĐHĐCĐ được tổ chức theo những
quy trình rất chặt chẽ từ khâu triệu tập đến cách
thức tổ chức, biểu quyết, KCC cũng rất linh hoạt
khi cho phép các thủ tục tổ chức đơn giản đối với
những công ty có quy mô hoạt động nhỏ có vốn
dưới 1 tỷ won; nếu giữa các cổ đông đã đạt được
đồng thuận về cách thức tổ chức hội nghị, có thể
gửi thư điện tử để triệu tập họp thay vì gửi văn
bản qua đường bưu điện như đối với công ty lớn
(Điều 363).
ii) Về phương thức ra nghị quyết ĐHĐCĐ:
Tùy thuộc quy định của luật và của Điều lệ và
tính chất, tầm quan trọng của các vấn đề đưa ra
quyết định tại ĐHĐCĐ mà tỉ lệ phiếu thuận để
thông qua Nghị quyết phải là đa số, siêu đa hoặc
thậm chí phải đạt đồng thuận của tất cả các cổ
đông (Điều 361, 371). Tuy nhiên các quy định
trong Điều lệ chỉ được phép “chặt” hơn chứ
không được phép nới lỏng hơn luật [8]. Chẳng
hạn, công ty không thể mở rộng diện đối tượng
được lựa chọn để bổ nhiệm làm Giám đốc độc
lập của công ty bằng cách bỏ bớt đi một trong 7
tiêu chuẩn bổ nhiệm chức danh này quy định tại
Điều 542.
*Hội đồng quản trị (Board of Directors) và
các giám đốc thành viên: Về bản chất HĐQT là
cơ quan thường trực do ĐHĐCĐ bầu ra, để quyết
định các vấn đề về quản lý điều hành công ty
giữa các kỳ họp ĐHĐCĐ (Điều 382 - 389).
Thông thường, HĐQT số lượng thành viên
tối thiểu là 3. Tuy nhiên để tạo sự năng động cho
các CTCP nội bộ, Bộ luật Thương mại (KCC)
quy định công ty có vốn dưới 1 tỷ won có thể chỉ
bổ nhiệm 1-2 giám đốc mà không cần có HĐQT
(Điều 383).
HĐQT có cấu trúc đa tầng, các giám đốc
thành viên được chia làm nhiều loại chức danh
để thực hiện các chức năng nhiệm vụ khác nhau
bao gồm Giám đốc đại đại diện theo pháp luật và
Giám đốc điều hành, đều được bổ nhiệm và bãi
miễn tại cuộc họp của ĐHĐCĐ và ghi nhận trong
nghị quyết. Là những chức danh quản lý cấp cao
do ĐHĐCĐ bổ nhiệm, tất cả các giám đốc thành
viên đều phải tuân thủ các nghĩa vụ chung của
người quản lý được các cổ đông và công ty ủy
quyền (Fiduciary duty) [9]. Trong đó, các nghĩa
vụ hàng đầu là nghĩa vụ cẩn trọng khi ra các
quyết định trong công ty (Điều 340), nghĩa vụ
trung thành và hành động vì lợi ích cao nhất của
công ty (Điều 382). Đặc biệt, nghĩa vụ bảo mật
còn yêu cầu các giám đốc giữ bí mật đối với các
P. Thuy / VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 36, No. 2 (2020) 35-44 40
hoạt động của công ty ngay cả khi đã về hưu
(Điều 382).
KCC cho phép HĐQT có thể bổ nhiệm hai
hay nhiều giám đốc đại diện theo pháp luật cho
công ty, trừ phi số lượng chức danh này đã được
đã được ấn định trong Điều lệ (Điều 389).
Giám đốc điều hành: là những người quản lý
cao cấp nhất có chức năng điều hành trực tiếp,
hàng ngày các hoạt động kinh doanh và hoạt
động quản lý công ty. Trường hợp có từ hai giám
đốc điều hành trở lên, HĐQT phải bổ nhiệm một
người trong số đó là giám đốc đại diện. Nếu chỉ
có một giám đốc điều hành, người này sẽ kiêm
luôn vai trò giám đốc đại diện (Điều 408). HĐQT
cũng sẽ một người đảm nhiệm vai trò chủ tịch
công ty để chủ trì các cuộc họp HĐQT (Điều
408).
*Giám đốc bên ngoài (Outside Directors)
trong CTCP Hàn Quốc có những vị trí tương tự
và tên gọi thay thế khác như Giám đốc độc lập
(Independentdirectors) tại Ấn Độ, Singapre,
Việt Nam hay Giám đốc không điều hành (Non-
executive directors) tại Mỹ. Theo thông lệ quốc
tế, các chức danh này là những vị trí quản trị đặc
biệt. Về bản chất, họ không phải là thành viên
điều hành các hoạt động hàng ngày của công ty.
Họ phải đảm bảo tính độc lập, không bị khuynh
loát bởi cổ đông lớn và những người quản lý
khác về quan hệ việc làm, quan hệ tài chính và
cá nhân khi đưa ra quyết định. Giám đốc độc lập
(Giám đốc bên ngoài) cũng không được sở hữu
một lượng cổ phần đủ lớn đến mức có thể bị các
lợi ích cá nhân chi phối. Chính vì vậy, họ không
được hưởng lương mà chỉ nhận một khoản thù
lao khi tham gia các cuộc họp của HĐQT.
Về mặt luật pháp, tất cả các giám đốc độc lập
cũng như giám đốc điều hành đều phải thực hiện
các nghĩa vụ chung được cổ đông ủy quyền ủy
quyền đã đề cập đến ở trên, đó là ra các quyết
định cẩn trọng, trung thức, hành động thiện chí
và vì lợi ích tốt nhất của công ty. Tuy nhiên do
đóng vai trò khác với giám đốc điều hành, các
giám đốc bên ngoài tham gia vào HĐQT với tư
các là các chuyên gia độc lập, đóng góp những ý
kiến có tính đa đạng, khách quan để giúp các
thành viên điều hành của HĐQT điều hòa các
xung đột lợi ích với giữa công ty với các cổ đông
và giữa các giám đốc điều hành với nhau. Chẳng
hạn, các Giám đốc độc lập đưa ra góp ý về mức
lương của thành viên điều hành, về việc lựa chọn
nhân sự để bổ nhiệm chức danh kiểm toán, về
cách thức công bố thông tin về tình hình hoạt
động kinh doanh,...và những vấn đề liên quan
khác nhằm đảm bảo cho các giám đốc điều hành
thực hiện nhiệm vụ một cách đúng đắn, sáng suốt
[10].
Sau khủng hoảng tài chính châu Á 1997, vai
trò của Giám đốc bên ngoài trong việc làm tăng
tính minh bạch trong hoạt động của công ty được
đề cao tại Hàn Quốc. Trước yêu cầu cải cách ngặt
nghèo của Quỹ tiền tệ Quốc tế (IMF) đối với
cung cách hoạt động của công ty và yêu cầu nâng
cao tính minh bạch, trách nhiệm giải trình, KCC
đã nhanh chóng tiếp thu các thông lệ quốc tế về
quản trị tốt và quy định giám đốc bên ngoài phải
là thành phần bắt buộc trong HĐQT của CTCP
đại chúng và được khuyến khích sự có mặt của
thành phần này trong CTCP thông thường [11].
Về cơ cấu: Đối với CTCP nói chung, trong
thành phần của HĐQT phải có ít nhất là 25%
thành viên là giám đốc bên ngoài, không trực tiếp
làm các công việc liên quan đến cổ đông và điều
hành công ty. Đối với CTCP đại chúng, số lượng
giám đốc bên ngoài phải có ít nhất là 3 người và
chiếm trên 50% số lượng thành viên hội đồng
(Điều 542). Phối hợp chặt chẽ với KCC, Luật
Chứng khoán và Giao dịch chứng khoán cũng
quy định rằng CTCP đại chúng phải có ít nhất
25% thành viên HĐQT là Giám đốc bên ngoài.
Đối với công ty có số vốn từ 2 tỷ won trở lên cần
có Ủy ban đề xuất Giám đốc độc lập để giới thiệu
ứng viên cho HĐQT và phải chịu trách nhiệm về
việc đề xuất này (Điều 542).
Để đảm bảo tính độc lập, khách quan của
Giám đốc bên ngoài trong việc đưa ra các ý kiến
nhận xét và bỏ phiếu thông qua các quyết định
của HĐQT, KCC quy định các tiêu chuẩn bổ
nhiệm rất chặt chẽ, loại trừ các diện sau: vị thành
niên, mất toàn bộ hoặc mất một phần năng lưc
hành vi dân sự, bị tuyên bố phá sản chưa được
phục hồi kinh doanh, vi phạm pháp luật hay thi
hành án hình sự xong chưa được 2 năm, vẫn đang
P. Thuy / VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 36, No. 2 (2020) 35-44 41
trong thời gian 2 năm kể từ ngày bị sa thải ở công
ty, sở hữu quá 10% số lượng cổ phần phát hành
hoặc cổ phần hiện hữu, người có quan hệ huyết
thống, hôn nhân với các chức danh quản lý cao
cấp của công ty, có khả năng tư lợi cao theo quy
định của Nghị định của Tổng thống (Điều 542).
Tóm lại, HĐQT trong CTCP Hàn Quốc có
tính đa dạng về thành phần, chức danh và nhiệm
vụ nên đã tạo ra cơ chế linh hoạt, hỗ trợ lẫn nhau
trong hoạt động để cùng hướng về mục tiêu
chung là tăng tính minh bạch và trách nhiệm giải
trình. Đặc biệt ở một góc độ kiểm tra lẫn nhau và
cân bằng quyền lực trong nội bộ HĐQT, các
giám đốc bên ngoài còn đóng vai trò của người
giám sát, cân chỉnh các quyết định và hoạt động
quản lý của các giám đốc điều hành.
*Kiểm toán nội bộ, giống như ở mô hình
quản trị công ty của Mỹ, KCC trao quyền giám
sát các hoạt động tài chính của công ty cho bộ
phận kiểm toán nội bộ được ĐHĐCĐ bổ nhiệm
theo quy định bắt buộc của pháp luật để thực hiện
chức năng giám sát hoạt động của HĐQT. Mục
tiêu của hoạt động kiểm toán là bảo đảm tính
minh bạch và đảm bảo tuân thủ Điều lệ trong các
hoạt động tài chính của công ty [12].
Kiểm toán viên theo pháp luật (Statutory
auditor) được bổ nhiệm tại cuộc họp ĐHĐCĐ.
Để bảo đảm các kiểm toán viên này độc lập trong
chuyên môn, không bị các cổ đông lớn chi phối,
KCC quy định cổ đông nắm giữ trên 3% cổ phần
sẽ không được giới thiệu để bổ nhiệm làm kiểm
toán viên; ngược lại các cổ đông nắm giữ trên
3% cổ phần không có quyền bỏ phiếu lựa chọn
kiểm toán viên (Article 409(2). CTCP quy mô
nhỏ có vốn dưới 1 tỷ won không bắt buộc phải
bổ nhiệm kiểm toán (Điều 409).
Kiểm toán viên có quyền giám sát các hoạt
động tài chính của do các giám đốc tiến hành
dưới danh nghĩa công ty, yêu cầu các chuyên gia
hỗ trợ khi cần xác định thông tin về các khoản
chi của công ty. Kiểm toán viên cũng có quyền
yêu cầu triệu tập cuộc họp HĐQT và ĐHĐCĐ để
lấy thông tin giám sát và báo cáo kết quả giám
sát của mình (Điều 412, 412).
Để buộc các kiểm toán viên thực hiện
nghiêm túc trách nhiệm giám sát và báo cáo của
mình, KCC quy định nếu kiểm toán viên thiếu
cẩn trọng, lơ là trong thực hiện nhiệm vụ giám
sát sẽ phải chịu trách nhiệm liên đới về các thiệt
hại cùng với các giám đốc có hành vi sai trái
trước công ty và người thứ ba (Điều 414).
Đối với CTCP đại chúng, luật khuyến khích
thành lập Ban kiểm toán nội bộ có số lượng
thành viên ít nhất là 03 kiểm toán viên trở lên,
trong đó có ít nhất 2/3 kiểm toán viên là giám
đốc độc lập (Điều 409 và Điều 415). Nhằm ngăn
ngừa việc sa thải không chính đáng, KCC quy
định rằng cần phải có số phiếu thuận ít nhất bằng
2/3 tổng số thành viên, HĐQT mới được bãi
miễn một thành viên Ban kiểm toán. (Điều 415).
Kiểm toán độc lập: Theo quy định của đạo
luật về Kiểm toán độc lập đối với CTCP sửa đổi
năm 2017, các CTCP đại chúng và có quy mô
lớn theo tiêu chí do luật này đặt ra thuộc diện
phải áp dụng thêm chế độ kiểm toán độc lập do
công ty kiểm toán bên ngoài tiến hành [13].
*Vai trò của cổ đông thiểu số
Mặc dù nhóm các cổ đông thiểu số không tạo
nên một cấu trúc quản trị riêng, nhưng sẽ là thiếu
sót khi nghiên cứu về quản trị CTCP mà không
đề cập đến vai trò của nhóm cổ đông đặc biệt này
bởi lẽ bảo vệ cổ đông thiểu số là một yếu tố cốt
lõi để thực thi nguyên tắc bình đẳng giữa các cổ
đông của OECD [14]. Là quốc gia thành viên
OECD từ năm 1999, Hàn Quốc đã tuân thủ rất
nghiêm túc và chuyển hóa thành công nguyên tắc
về đối xử bình đẳng giữa các cổ đông và bảo vệ
cổ đông thiểu số khỏi sự lấn át của các cổ đông
lớn trong bộ luật thương mại của mình. KCC
không đưa ra khái niệm cổ đông thiểu số mà có
những quy định cụ thể về quyền của nhóm cổ
đông này trong các tình huống cụ thể. Theo quy
định của KCC, cổ đông nắm giữ ít hơn 3% tổng
số cổ phần phát hành và cổ phần lưu hành, được
pháp luật trao cho một số quyền đặc biệt để tự
bảo vệ lợi ích của mình và lợi ích của công ty
trước các hành vi thao túng, khuynh loát của cổ
đông lớn bao gồm: Quyền triệu tập và đề xuất
nội dung cuộc họp ĐHĐCĐ (Điều 363-2(1),
Quyền yêu cầu tòa án triệu tập họp ĐHĐCĐ bất
thường trong trường hợp HĐQT không chấp
nhận (Điều 366; Quyền yêu cầu công ty, hoặc
P. Thuy / VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 36, No. 2 (2020) 35-44 42
nhân danh công ty khởi kiện các giám đốc điều
hành và yêu cầu miễn nhiệm vì các hành vi được
cho là sai trái (Điều 381), cổ đông sở hữu tổng
số cổ phần ít hơn 1% cũng có quyền này (Điều
403)
Đặc biệt, đối với CTCP đại chúng được xếp
hạng theo quy định của Luật Chứng khoán, cổ
đông thiểu số chỉ cần sở hữu 15/1.000 trong thời
hạn liên tục 6 tháng đã có quyền thực thi các
quyền của cổ đông thiểu nói trên. Đối với các
CTCP đại chúng được xếp hạng bởi Nghị định
chỉ cần sở hữu một số lượng cổ phần rất nhỏ từ
25/10.000 tổng số cổ phần đã có thể thực hiện
các quyền của cổ đông nhỏ và cả cổ đông thông
thường (Điều 542).
5. Nhận xét và một số gợi ý cho Việt Nam
Qua tìm hiểu về pháp luật quản trị CTCP
Hàn Quốc và các cấu trúc quản trị công ty có thể
thấy nổi lên một số vấn đề có tính chất gợi ý để
học tập kinh nghiệm cải cách khung khổ pháp
luật về quản trị CTCP ở Việt Nam như sau:
*Về cách thức cấu trúc của pháp luật thương
mại nói chung và pháp luật về quản trị công ty
nói riêng: Có thể thấy KCC chính là một tổng thể
pháp luật thương mại thống nhất, có sự kết hợp
logic và hài hòa giữa các quy định chung, chế
định thương nhân, thương mại hàng hóa và dịch
vụ, chế định luật công ty và một số các chế định
về thương mại dịch vụ trong các lĩnh vực đặc thù,
có tính chuyên ngành như bảo hiểm, đường biển,
hàng không.
Về kỹ thuật lập pháp, KCC là một bộ luật,
tuy đồ sộ nhưng có cấu trúc khoa học và thuận
tiện cho việc tìm hiểu và áp dụng luật. Cấu trúc
này giúp tránh được các quy định chồng chéo,
xung đột, thậm chí có cách hiểu và giải thích trái
ngược đối với cùng một khái niệm trong trường
hợp nhiều đạo luật riêng lẻ cùng điều chỉnh một
quan hệ pháp luật thương mại như đang tồn tại ở
Việt Nam hiện nay [15].
Đặc biệt, KCC có những quy định cụ thể về
những trường hợp có thể được giải thích, mở
rộng quy định bằng Nghị định của Tổng thống.
Điều này giúp củng cố tính thống nhất và hiệu
lực ổn định, tính áp dụng trực tiếp của Bộ luật,
đồng thời không làm phát sinh thêm một khối
lượng đồ sộ các văn bản pháp quy bao gồm luật
và nghị định để hướng dẫn thi hành luật như tình
trạng lập pháp và lập quy hiện tại ở Việt Nam.
*Về phạm vi và đối tượng điều chỉnh của
pháp luật quản trị công ty cổ phần
Khác với KCC, trong suốt các quy định của
LDN 2014 và các phiên bản trước đó của Việt
Nam, không có bất cứ một quy định nào đề cập
đến cấu trúc quản trị CTCP đại chúng, mà trao
toàn bộ quyền cho Luật Chứng khoán 2006. Điều
này có thể đã đưa ra một thông điệp sai, có tính
mặc định rằng LDN 2014 không có giá trị áp
dụng đối với công ty đại chúng. Trong khi đó sự
thực là các quy định về cấu trúc quản trị CTCP phải
được áp dụng chung, chỉ một số trường hợp đặc
biệt có liên quan đến các điều kiện chặt chẽ của
giao dịch chứng khoán mới do Luật Chứng khoán
điều chỉnh. Do đó vấn đề phạm vi và đối tượng điều
chỉnh của LDN 2014 bao gồm cả CTCP đại chúng
phải được chỉ rõ trong luật sửa đổi.
*Về mô hình quản trị một tầng và các
cấu trúc quản trị tương ứng
Do có sự tiếp nhận mô hình quản trị công ty
một tầng của Mỹ ngay từ những năm 1960 và đã
trải qua rất nhiều lần bổ sung sửa đổi, cho đến
nay cấu trúc quản trị đa tầng, đa chức năng, có
tác dụng giám sát cân bằng quyền lực giữa các
chức danh quản trị trong CTCP Hàn Quốc của
KCC đã tương đối hoàn thiện.
Khác với Hàn Quốc, mô hình quản trị một tầng
mới được công nhận trong LDN 2014 của Việt
Nam. Do tính mới và có phần chưa hiểu rõ ý nghĩa
triết lý và tính chất pháp lý của mô hình này nên
các quy định của LDN 2014 còn nhiều thiếu hụt,
rất khó cho việc triển khai áp dụng trong thực tế.
Cụ thể, hai cấu trúc quản trị nổi bật nhất của mô
hình một tầng là “thành viên độc lập HĐQT” và
“Ban kiểm toán” chưa được quy định rõ và chú
trọng trong luật doanh nghiệp Việt Nam.
Thứ nhất, cách thức tổ chức ĐHĐCĐ của
CTCP của KCC rất linh hoạt tùy theo quy mô
của công ty mà có những thủ tục rút gọn miễn là
có sự đồng thuận. Trong khi đó LDN 2014 chỉ quy
định cùng một thủ tục ĐHĐCĐ cho tất cả các
P. Thuy / VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 36, No. 2 (2020) 35-44 43
CTCP có quy mô khác nhau. Điều này có thể làm
cho các cuộc họp ĐHĐCĐ trở nên chậm chạp, khó
khăn hơn đối với công ty có quy mô nhỏ.
Thứ hai, So với KCC, LDN 2014 của Việt
Nam chưa có những quy định rõ ràng để tạo ra
tính đa tầng, đa chức năng của thành viên
HĐQT. Luật doanh nghiệp hiện hành không đề
cập đến khái niệm thành viên (giám đốc) điều
hành trong HĐQT và không phân định chức
năng, cách thức thực hiện nhiệm vụ của của các
loại thành viên điều hành và không điều hành
trong công ty, do đó khái niệm “Thành viên độc
lập HĐQT” mới đưa vào luật, thậm chí còn xa
lạ, đang đặt ra nhiều câu hỏi chưa được trả lời về
bản chất, vai trò, chức năng nhiệm vụ của chức
danh này. Thêm vào đó, Luật có những quy định
về tiêu chuẩn thành viên độc lập HĐQT tại
Khoản 2 Điều 151 nhưng lại không có bất kỳ một
quy định nào về phạm vi và giới hạn trách nhiệm
của họ trong HĐQT nên khó có thể áp dụng mô
hình này trên thực tiễn.
Thứ ba, Mặc dù khuyến khích mô hình quản
trị một tầng như KCC, LDN 2014 lại hoàn toàn
thiếu hụt các quy định về chức năng giám sát tài
chính công ty của kiểm toán. Cụ thể, không có
quy định về vai trò và trách nhiệm của kiểm toán
viên nội bộ trong tại CTCP thông thường; thêm
vào đó, “Ban kiểm toán nội bộ” thuộc HĐQT
trong mô hình có thành viên độc lập HĐQT chỉ
được đề cập một lần duy nhất trong Điểm b,
Khoản 2 Điều 134 LDN 2014. Trong suốt đạo
luật cũng không hề có thêm một quy định nào về
các thức tuyển chọn, và vận hành cơ quan giám
sát nội bộ đặc biệt này. Các mâu thuẫn này đang
gây ra những bối rối cho các nhà đầu tư và người
quản lý về cách thức tổ chức và vận hành CTCP
có mô hình quản trị một tầng ở Việt Nam.
Tóm lại, do không có đầy đủ các hướng dẫn
về cách thức thành lập và vận hành của các cấu
trúc quản trị nên mô hình quản trị một tầng mặc
dù hấp dẫn về tính linh hoạt, độ phản ứng nhanh
của HĐQT trước các cơ hội kinh doanh, nhưng
lại thiếu tính khả thi ở Việt Nam. Có lẽ nguyên
nhân chính của sự hạn chế này là do các nhà làm
luật mới du nhập được phần hình thức cấu trúc
mà chưa nắm được triết lý về ý nghĩa, vai trò và
cách thức hoạt động của các cấu trúc quản trị đặc
biệt như thành viên độc lập hội đồng quản trị,
kiểm toán viên và Ban kiểm toán. Hiện tại, trong
Dự thảo luật sửa đổi Luật Doanh nghiệp mới
nhất đăng tải trên website của Quốc Hội [16] đã
chú trọng hơn đến thẩm quyền thành lập, vai trò
và cách thức hoạt động của Ủy ban kiểm toán
trực thuộc HĐQT (Điều 156a), nhưng lại không
đề cập đến trách nhiệm khi xảy ra sai phạm. Đặc
biệt, Dự thảo cũng không đề cập đến vai trò của
kiểm toán viên theo luật định của công ty. Vai
trò, chức năng, nhiệm vụ của thành viên độc lập
HĐQT cũng được trao toàn bộ cho Điều lệ công
ty quyết định (Khoản 5, Điều 150 của Dự thảo)
mà không có hướng dẫn từ luật.
*Về mức độ bảo vệ cổ đông thiểu số
So với KCC, diện xác định cổ đông thiểu số
trong công ty của LDN 2014 là rất hẹp. Trong
khi KCC xác định những cổ đông sở hữu dưới
3% cổ phần được sử dụng những quyền đặc biệt
để bảo vệ lợi ích chính đáng của mình và lợi ích
của công ty, LDN 2014 lại quy định cổ đông phải
sở hữu tổng số cổ phần từ 10% trở lên, thậm chí
sở hữu liên tục trong 6 tháng mới có quyền đề cử
người vào HĐQT và ban kiểm soát, yêu cầu
được thông tin sâu về hoạt động của công ty, yêu
cầu triệu tập họp ĐHĐCĐ (Khoản 2 Điều 114).
Rõ ràng là Luật đang làm giảm khả năng kiểm
soát và cân bằng quyền lực giữa các nhóm cổ
đông trong công ty. Thêm vào đó, ngoài quyền
khởi kiện, Luật cũng không có quy định về các
quyền đặc biệt trong quản trị công ty của cổ
đông thiểu số có tỷ lệ sở hữu vốn dưới 1%
trong CTCP đại chúng. Các quy định bất hợp
lý này cần được nhanh chóng cải cách để mở
rộng diện các cổ đông thiểu số và các quyền
chính đáng của họ, bảo đảm nguyên tắc quyền
bình đẳng của các cổ đông.
6. Kết luận
Qua phân tích và so sánh khung khổ pháp
luật và cấu trúc quan trị của CTCP Hàn Quốc với
pháp luật quản trị công ty và các cấu trúc tương
ứng của Việt Nam có thể thấy pháp luật về quản
trị CTCP ở Việt Nam hiện nay đang bộc lộ một
P. Thuy / VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 36, No. 2 (2020) 35-44 44
số hạn chế cơ bản cần nhanh chóng cải cách. Thứ
nhất, đó là hệ thống pháp luật thương mại mang
tính nền tảng còn cồng kềnh và tản mạn, thậm
chí còn có những quy định mâu thuẫn. Thứ hai,
khung khổ pháp luật về quản trị công ty mặc dù
đã cố gằng tiếp thu tương đối nhanh các quy tắc
quản trị công ty hiện đại của OECD và các thông
lệ quản trị tốt của các quốc gia khác, nhưng còn
bộc lộ những quy định chưa thấu đáo, chưa phù
hợp về cách thức cấu trúc mô hình quản trị công
ty một tầng, thiếu sự thống nhất và hài hòa nên
hạn chế hiệu quả thi hành luật trên thực tiễn.
Để khắc phục kịp thời các hạn chế nói trên,
giải pháp trước mắt là khắc phục ngay những quy
định còn thiếu hụt và bất hợp lý về quản trị công
ty trong luật bổ sung sửa đổi LDN 2014 hiện
đang trong quá trình dự thảo. Về lâu dài, cần có
một khung khổ quản trị công ty hoàn chỉnh, nằm
trong một tổng thể hệ thống pháp luật thương
mại tập trung thống nhất, có hiệu lực pháp luật
cao và ổn định. Chính vì vậy, xu hướng xây dựng
một bộ luật thương mại chung tương tự như KCC
ở Việt Nam là một định hướng đúng đắn trong
tương lai gần. Như vậy, Bộ luật Thương mại Hàn
Quốc có thể là một trong những hình mẫu hữu
ích mà các nhà làm luật Việt Nam cần tham
khảo.
Tài liệu tham khảo
[1] Park JD, Korea’s Path of Development in
Retrospect, trong sách Re-Inventing Africa's
Development. Palgrave Macmillan, Cham 2019,
(tr.180-201).
[2] Jin Oh Seung, Overview of Legal Systems in the
Asia-Pacific Region: South Korea, trong
Overview of Legal Systems in the Asia- Pacific
Region (2004). Paper 6 tại:
(truy cập 22/2/2019)
[3] Black's Law Dictionary (10th Edition), in Co,
Bryan A. Garner (Chief Editor), Editor. 2014,,
Thomson Reuters, tr. 312.
[4] Commercial Act of Korea tại:
ode=engLsInfoR&viewCls=engLsInfoR#0000
(truy cập 5/12/2019).
[5] Commercial Act of Korea, tlđd.
[6] Stock Company tại
empt=1 ( truy cập 23/2/2020).
[7] Phan Thị Thanh Thủy, Bàn về tính minh bạch trong
quản trị công ty cổ phần ở Việt Nam, Nghiên cứu
Lập pháp, kỳ 1 tháng 1/2018, 53-55.
[8] Corporate Governance in Korea, International
Financial Law Review, tại:
https://www.iflr.com/Article/2027067/Corporate-
governance-in-Korea.html (truy cập 22/12/2019).
[9] LDN 2014 gọi là trách nhiệm của người quản lý
công ty cổ phần quy định tại Khoản 1 Điều 160.
[10] Lucian a. Bebchuk & Assaf Hamdan, Independent
directors and controlling shareholders, University
of Pennsylvania Law Review, 2016. Vol. 165,(6):
p.1271-1280.
[11] Chun, K.H., Korea's Mandatory Independent
Directors: Expected and Unexpected Roles, tại
https://ssrn.com/abstract=2824303 P9-10 (truy cập
22/1/2020). August 2016,.
[12] Block, D.a.G., Anne-Marie, One-Tier vs. Two-Tier
Board Structure: A Comparison Between the
United States and Germany, Comparative
Corporate Governance and Financial Regulation.
https://scholarship.law.upenn.edu/fisch_2016/1
2016, p.6 (truy cập 22/2/2020).
[13] https://www.tmf-group.com/en/news-
insights/articles/2019/february/external-audit-act/.
[14] OECD, Nguyên tắc Đối xử bình đẳng giữa các cổ
đông trong sách Các nguyên tắc quản trị công ty
của OECD tại:
https://www.oecd.org/daf/ca/corporategovernance
principles/45034702.pdf, tr. 41-47;. 2004.
[15] Phan Thị Thanh Thủy, Chương 6, Pháp luật điều
chỉnh hành vi kinh doanh ở Việt Nam , tr 251 – 257,
trong sách Thể chế pháp luật kinh doanh Việt Nam
trong bối cảnh hội nhập cộng đồng kinh tế ASEAN,
Phan Thị Thanh Thủy, Chủ biên, NXB Đại học
Quốc gia, 2019.
[16] Dự thảo Luật Doanh nghiệp (sửa đổi) tháng 3/2020 tại
DUTHAO_LUAT/View_Detail.aspx?ItemID=177
3&LanID=1811&TabIndex=1 (24/3/2020).
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- quan_tri_cong_ty_co_phan_theo_phap_luat_han_quoc_mot_vai_goi.pdf