Thứ nhất, nguyên tắc Rechtsstaat ở
Đức là sự tổng hợp của nhiều tiêu chí cả
về hình thức và nội dung. Những tiêu chí
này đã được thể hiện đầy đủ trong Luật Cơ
bản (Hiến pháp) Đức và phần nào đã được
hiện thực hóa trên thực tế. Hiểu những yêu
cầu mang tính nền tảng của nguyên tắc
Rechtsstaat này có một ý nghĩa tham khảo
rất quan trọng giúp cho việc hoạch định các
chính sách phát triển của quốc gia, hướng
cho quốc gia tới sự thịnh vượng, ổn định và
phát triển một cách bền vững.
Thứ hai, nguyên tắc Rechtsstaat có thể
hiểu là một nguyên tắc, nhưng cũng có thể
hiểu là một nguyên tắc chung bao gồm nhiều
nguyên tắc khác. Những yếu tố hình thức
giống như những điều kiện cần và những
yếu tố nội dung là những điều kiện đủ.
Những nguyên tắc này không giản đơn đặt
ra những yêu cầu về nội dung, hình thức của
pháp luật mà phần nhiều nói đến cả phương
diện thực tiễn thực hiện, nói đến những định
hướng trong việc quản trị nhà nước hiện đại.
Có thể hiểu những nguyên tắc này là những
công cụ để truyền tải giá trị chung sống, sao
cho công quyền không thể độc đoán, chuyên
quyền hay tùy tiện mà phải tuân theo những
ràng buộc chặt chẽ để đảm bảo quyền của cá
nhân, lợi ích của cộng đồng.
7 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 20/01/2022 | Lượt xem: 338 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Quản trị nhà nước theo nguyên tắc pháp quyền ở cộng hòa Liên Bang Đức, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tóm tắt:
Phân tích những đặc trưng cơ bản, yêu cầu về hình thức và nội dung
của nguyên tắc pháp quyền (Rechtsstaat) ở Cộng hòa Liên bang Đức,
bài viết chỉ ra sự khác biệt căn bản của nguyên tắc pháp quyền ở Cộng
hòa Liên bang Đức với nguyên tắc “Rule of law” ở Anh. Rechtsstaat
không chỉ đặt ra những yêu cầu hình thức về pháp luật, mà quan trọng
hơn, đặt ra những chỉ dẫn thực hiện đối với quản trị nhà nước hiện đại.
Từ đó, bài viết đưa ra một số nhận định và nêu giá trị tham khảo của
nguyên tắc này.
Nguyễn Minh Tuấn*
Abstract:
This article, with analysis of the foundamental characteristics, the
format and content requirements of the Rechtsstaat principle in
Germany, provides substantial differences between the Rechtsstaat in
Germeny and Rule of law in England. The Rechtsstaat not only sets
out the legal requirements, but more importantly, sets the guidelines
for modern governance. The article then consequently provides some
insights and gives a reference to this principle.
Thông tin bài viết:
Từ khóa: pháp quyền, an toàn pháp
lý, nguyên tắc tương xứng, nhân
phẩm.
Lịch sử bài viết:
Nhận bài: 02/08/2017
Biên tập: 24/08/2017
Duyệt bài: 05/09/2017
Article Infomation:
Keywords: Rechtsstaat, legal safety,
proportionality, human dignity.
Article History:
Received: 02 Aug. 2017
Edited: 24 Aug. 2017
Appproved: 05 Sep. 2017
* TS., Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội.
QUẢN TRỊ NHÀ NƯỚC THEO NGUYÊN TẮC PHÁP QUYỀN
Ở CỘNG HÒA LIÊN BANG ĐỨC
1. Nguyên tắc “Rechtsstaat” không đồng
nhất với “Rule of law”
1.1 Rechtsstaat và Rule of law có xuất
phát điểm hình thành không giống nhau
“Rechtsstaat” và “Rule of law”1 là hai
thuật ngữ có lịch sử hình thành và những đặc
1 Cũng có nhiều ấn phẩm chuyển ngữ Rule of law thành “nhà nước pháp quyền” hay “pháp quyền” hoặc “nguyên tắc
pháp quyền”.
điểm không hoàn toàn giống nhau. “Rule of
law” có nền tảng từ truyền thống pháp luật
Anh, mà những viên gạch đầu tiên có từ
Magna Carta năm 1215, còn “Rechtsstaat”
thì được nêu lần đầu tiên - theo nghĩa chính
thức hóa ở một văn bản pháp lý cao nhất - tại
KINH NGHIÏåM QUÖËC TÏË
58 Số 19(347) T10/2017
khoản 1 Điều 28 Luật Cơ bản (Hiến pháp)
Cộng hòa Liên bang (CHLB) Đức năm 1949
và được thể hiện ở các điều 20, 23 I 1, 28
I, 79 III2. Rule of law và Rechtsstaat giống
nhau về bản chất, đều có nghĩa không có ai
đứng trên hay đứng ngoài pháp luật3, cấm
phân biệt đối xử, thượng tôn Hiến pháp và
bảo vệ các quyền con người4.
1.2 Thuật ngữ “Rule of law” trong
tiếng Anh không xuất hiện từ “state” (nhà
nước)
Trong các ngôn ngữ châu Âu đều
xuất hiện chữ nhà nước (the state), ví dụ
Rechtsstaat (tiếng Đức), état de droit (tiếng
Pháp), statto diritoo (tiếng Italia), estado de
derecho (tiếng Tây Ban nha), pánstwo prawa
(tiếng Ba Lan) hoặc pravovoe gosudarstvo
(tiếng Nga) v.v Tuy nhiên trong tiếng
Anh, cụm từ “Rule of law” không có “state”.
Điều này cho thấy, về mặt ngôn ngữ sử dụng
đã có sự khác biệt.
1.3 Về nội dung và lịch sử của vấn
đề, từ “law” trong “rule of law” và “Recht”
trong “Rechtsstaat” cũng khác nhau
Law trong Rule of law nguyên nghĩa
thường được hiểu là những tập quán pháp
truyền thống, không do nhà nước ban hành
(non legislative source) mà được nhà nước
thừa nhận. Trong khi đó, theo dòng lịch sử,
“Recht” thông thường với truyền thống coi
trọng luật thành văn lại được hiểu là những
gì nhà nước ban hành5.
2 Các Hiến pháp của Pháp và Italia chỉ chứa đựng một vài yếu tố của Rechtsstaat, nhưng không đầy đủ như Luật Cơ bản
của Đức. Xem lời nói đầu, Điều 1 I, 5 I, 34, 64 I của Hiến pháp Pháp và Điều 1 II Hiến pháp Italia. Xem thêm: Pietro
Costa and Danilo Zelo eds (2007), The Rule of law, history, theory and Criticism, Springer, Dordrecht; Grzeszick, in
Maunz-Duerig, Grundgesetzkommentar (2013), Điều 20, VII. C.H.Beck, Muenchen và Katharina Sobota, Das Prinzip
Rechtsstaat: verfassungs- und verwaltungsrechtliche Aspekte (1997), Mohr Siebeck, Tuebingen).
3 Từ năm 1215 trong Đại Hiến chương Magna Charta tinh thần này của Rule of law đã được thể hiện ở Điều 39 và Điều 40.
4 A.V.Dicey, Introduction to the Study of the Law of the Constitution, Macmillan, London, 1959, p. 193; Christoph
Degenhart, Staatsrecht I, Staatsorganisation, 29 Aufl., 2013, S. 60; BVerfGE 33, 367 (383).
5 James R. Silkenat, James E. Hickey Jr., Peter D. Barenboim (eds.), The Legal Doctrines of the Rule of Law and the
Legal State (Rechtsstaat), Springer, 2014, p. 23.
1.4 Ở Anh, về mặt lịch sử phát triển,
Rule of law không nhấn mạnh yêu cầu
“phân quyền”
Ở Anh, theo truyền thống sau cách
mạng tư sản thời cận đại luôn tồn tại một
nguyên tắc có tên là nguyên tắc nghị viện tối
cao (parliament supremacy). Đây là nguyên
tắc chi phối cách thức tổ chức quyền lực ở
Anh trong lịch sử. Trong khi đó Rechtsstaat
lại nhấn mạnh yếu tố phân quyền như là một
yêu cầu hình thức bắt buộc phải có ở Điều
20 Hiến pháp CHLB Đức.
1.5 Rule of law có đặc trưng về nguồn
luật khác với Rechtsstaat
Như đã đề cập, Rule of law ở Anh coi
trọng án lệ, tập quán, trong khi đó Rechtsstaat
theo truyền thống phát triển của Civil law lại
coi trọng luật thành văn. Đặt trong ngữ cảnh
mà Rule of law và Rechtsstaat hình thành,
phát triển thì ta thấy điều này rất rõ. Đặc
trưng về nguồn luật này có ảnh hưởng rất
quan trọng đến thực tiễn thực hiện pháp luật,
áp dụng pháp luật ở hai nơi này.
1.6 Bảo vệ nhân phẩm
(Menschenwürde) là yêu cầu của
Rechtsstaat, không có trong Rule of law
Truyền thống pháp luật Anglo Saxon
không đặt ra yêu cầu cụ thể về bảo vệ nhân
phẩm (tiếng Đức: Menschenwürde/tiếng
Anh: Human dignity) mà chỉ đưa ra một vài
quyền như cấm tra tấn, cấm chế độ nô lệ v.v..
Thuật ngữ nhân phẩm không được tìm thấy
một cách nguyên gốc trong Common law
KINH NGHIÏåM QUÖËC TÏË
59Số 19(347) T10/2017
cũng như trong Tuyên ngôn Độc lập, Hiến
pháp của Hoa Kỳ6.
2. Quản trị nhà nước theo nguyên tắc
Rechtsstaat ở Cộng hòa Liên bang Đức
Dưới thời cai trị của Hít-le, người ta
thấy ở Đức, pháp luật được tuân thủ nhưng
lại không có pháp quyền. Có lẽ chính từ thực
tiễn đau thương đó, nên trong Luật Cơ bản
Đức đã thiết lập nên nguyên tắc Rechtsstaat
bao hàm trong nó nhiều yếu tố rất cụ thể - cả
những yếu tố về hình thức và những yếu tố
về nội dung để ngăn chặn tình trạng không
có pháp quyền.
2.1 Những yếu tố hình thức của
nguyên tắc Rechtsstaat ở Đức
2.1.1 Phân quyền (Gewaltenteilung)
Đoạn 2 khoản 2 Điều 20 Luật Cơ bản
Đức quy định rằng: “Quyền lực nhà nước
được thực hiện thông qua các cơ quan đặc
biệt của quyền lập pháp (besondere Organe
der Gesetzgebung), của quyền hành pháp
(der vollziehenden Gewalt) và của quyền tư
pháp (der Rechtsprechung)”. Với quy định
này, Luật Cơ bản Đức đã chính thức gọi
tên cụ thể, và phân công nhiệm vụ của từng
nhánh quyền lực nhà nước.
Chức năng của lập pháp
(Gesetzgebung) là xây dựng một trật tự pháp
luật, đưa ra các quy định ổn định, giải quyết
các vấn đề của cuộc sống liên quan đến các
vấn đề của tương lai. Chức năng của hành
pháp (Vollziehung) là lập chính sách (hành
pháp chính trị) và thi hành luật ở thời hiện
tại (hành pháp hành chính). Chức năng của
tư pháp (Judikative) là quyết định về tính
6 Ngay sau khi Tuyên ngôn toàn thế giới về Quyền con người 1948 đề cập đến Human Dignity có hiệu lực thì nhiều quốc
gia châu Âu đã đưa nội dung này vào Hiến pháp của nước mình, ví dụ Điều 1 Hiến pháp CHLB Đức 1949 và nhiều
Hiến pháp châu Âu khác. Sau đó Hiến chương Quyền con người của Liên minh châu Âu cũng đã tiếp nhận và quy định
về việc bảo vệ nhân phẩm ở lời nói đầu và Điều 1. Xem: Klaus Stern, Das Staatsrecht der Bundesrepublik Deutschland,
Bd. 1, Grundbegriffe und Grundlagen des Staatsrechts, Strukturprinzipien der Verfassung, C.H.Beck, München, 1984,
Art. 20 III 1, S. 781; Paul Tiedemann, Menschenwürde als Rechtsbegriff. Eine philosophische Klärung, Berliner
Wissenschafts-Verlag, Berlin, 3. Aufl., 2012, S. 51.
hợp pháp của các vấn đề đã diễn ra ở thời
quá khứ. Qua bầu cử, người dân uỷ quyền
cho Hạ viện bầu ra một Chính phủ để điều
hành đất nước, và Chính phủ này phải chịu
trách nhiệm trước Hạ viện. Chính sự chịu
trách nhiệm này của Chính phủ trước Hạ
viện là sự chịu trách nhiệm của Chính phủ
trước nhân dân.
2.1.2 Đảm bảo tính hợp hiến và
tính hợp pháp của hành chính nhà nước
(Legality of administration)
Luật chính là cốt tủy của nhà nước
pháp quyền. Khoản 3 Điều 20 Luật Cơ
bản Đức quy định: “[...] nhánh quyền hành
pháp và tư pháp chịu sự ràng buộc bởi luật
(Gesetz)[...]”.
Các quyết định hành chính không
được phép trái luật (Vorrang des Gesetzes/
Priority of statue), vì luật đã được thông qua
bởi một cơ quan được bầu cử một cách hợp
pháp, dân chủ. Chính vì thế mà hành vi hành
chính bị ràng buộc bởi luật và chịu sự giám
sát bởi Tòa án. Hơn nữa, các cơ quan hành
chính nhà nước phải ưu tiên áp dụng trước
tiên là các luật, chịu sự ràng buộc bởi các
luật, hoàn toàn không được phép hành động
nếu như không có một luật tương ứng cho
phép làm như vậy (Vorbehalt des Gesetzes/
Statutory reservation).
2.2 Những yếu tố nội dung của
nguyên tắc Rechtsstaat
2.2.1 Các quyền cơ bản có hiệu lực
trực tiếp, bảo vệ nhân phẩm là mục tiêu
quan trọng nhất của Luật Cơ bản Đức
Các quyền cơ bản ở CHLB Đức có
KINH NGHIÏåM QUÖËC TÏË
60 Số 19(347) T10/2017
hiệu lực bắt buộc, trực tiếp. Ở góc độ khách
quan, các quyền cơ bản là những hòn đá
tảng của một trật tự pháp luật, có chức năng
giới hạn quyền lực của nhà nước. Những
quyền này ràng buộc không chỉ đối với cơ
quan hành chính hay tòa án, mà cả Nghị
viện trong nhiệm vụ ban hành luật. Ở góc độ
chủ quan, các quyền cơ bản có hiệu lực trực
tiếp, công dân có thể viện dẫn để khởi kiện
trước Tòa án khi bị xâm phạm.
Vấn đề bảo vệ phẩm giá con người
(một trong những vấn đề đã được Lorenz
von Stein đề cập trong học thuyết của mình)
đã được thể hiện trang trọng nhất tại khoản
1 Điều 1 Luật Cơ bản Đức và khoản 3 Điều
79 Luật Cơ bản Đức đã khẳng định vấn đề
này thành một trong những giá trị cao nhất
của Luật Cơ bản Đức. Theo đó, trong mọi
trường hợp, quy định của khoản 1 Điều 1 là
không thể sửa đổi.
Nhân phẩm quy định ở khoản 1 Điều
1 Luật Cơ bản Đức không phải là một quyền
cơ bản đơn thuần, mà là giá trị khách quan,
cao nhất của Hiến pháp, là quy tắc ràng
buộc toàn bộ mục đích, nhiệm vụ và hành vi
của công quyền. Nhân phẩm bị xâm phạm,
khi cơ quan nhà nước hoặc người có thẩm
quyền hành xử với con người như một vật
thể đơn thuần (bloßes Objekt). Những hành
vi của công quyền như bắt người làm nô lệ,
tra tấn, phân biệt đối xử, làm nhục, từ chối
cung cấp những điều kiện sống tối thiểu của
một con người đều là những hành vi xâm
phạm nhân phẩm và vi hiến.
2.2.2 Đảm bảo về quyền khởi kiện đối
với hành vi vi phạm Hiến pháp
Những nhà lập hiến Đức cho rằng,
phần quan trọng nhất của nhà nước pháp
7 Đây là quy định kế thừa Luật Bảo thân ở Anh (Habeas corpus Garantie) - đây vốn là một chỉ dụ của nhà vua Anh đến
những cận thần của mình: “Hábeas corpus tècum ad sub[j]icendum”; (Nhiệm vụ của ngài là đưa người bị bắt một
cách lành lặn đến một người thẩm phán độc lập (trung lập), người đó sẽ làm công việc phán xử tiếp theo).
quyền chính là những bảo đảm các quyền cơ
bản trong lĩnh vực tư pháp. Luật Cơ bản Đức
đảm bảo cho công dân con đường khởi kiện
(Rechtsweggarantie) khi nhà nước vi phạm
những quyền cơ bản của công dân (khoản 4
Điều 19); đảm bảo về điều kiện thẩm phán
độc lập khi xét xử (Garantie des gesetzlichen
Richters) (đoạn 2 khoản 1 Điều 101); đảm
bảo trách nhiệm lắng nghe một cách công
tâm của hội đồng xét xử trong quá trình tranh
tụng (Anspruch auf rechtliches Gehoer)
(khoản 1 Điều 103); đảm bảo không bị bắt
giữ trái pháp luật, không bị tra tấn, ép cung,
giam cầm bất hợp pháp (khoản 2 và 3 Điều
104 )7...
2.2.3 Đảm bảo sự an toàn pháp lý
(Rechtssicherheit)
Luật Cơ bản Đức ràng buộc bất cứ
hành động nào của nhà nước gây ảnh hưởng
đến cá nhân phải được tiên liệu trước. Công
dân phải được biết một cách rõ ràng, hành vi
nào được phép và những hành vi nào bị cấm.
Tiêu chí minh bạch của pháp luật được thể
hiện trước tiên ở các quy phạm pháp luật.
Các quy phạm phải dễ hiểu, dễ tiên liệu, dễ
thi hành. Đối với những hành vi của công
quyền như phán quyết của Tòa án và hành
vi hành chính thì tiêu chí minh bạch, cụ thể
này càng cần thiết.
Pháp luật phải rõ ràng, cụ thể
(Bestimmtheitsgrundsatz). Để đảm bảo rằng
hành vi của một người nào đó là trong vòng
pháp luật. Chẳng hạn, nếu luật quy định:
"Những hành động mà ảnh hưởng xấu đến
môi trường thì bị xử phạt [...]" mà không có
quy định cụ thể xa hơn thì rõ ràng rằng quy
định này thật khó cho công dân quyết định
hành động, khi nào thì rơi vào trường hợp
KINH NGHIÏåM QUÖËC TÏË
61Số 19(347) T10/2017
này. Một quy định không chính xác như vậy
sẽ xâm phạm nguyên tắc cụ thể hóa và cũng
xâm phạm cả nguyên tắc nhà nước pháp
quyền.
Luật Cơ bản Đức cũng đặt ra yêu
cầu cụ thể về sự an toàn pháp lý qua việc
phải bảo vệ được niềm tin của người dân
vào công lý (Vertrauensschutz). Niềm tin
đó phải được hiện hữu hàng ngày hàng giờ
và có thể kiểm chứng được. Thông qua các
cuộc trưng cầu ý dân, phát phiếu hỏi, thông
qua những phương tiện thông tin đại chúng,
những vấn đề liên quan đến nhà nước, hiệu
quả công việc của nhà nước phải được công
khai cho nhân dân biết. Uy tín của từng vị
trí lãnh đạo cũng phải được lượng hóa theo
từng thời điểm cụ thể.
Sự an toàn về mặt pháp lý còn bao
gồm cả việc nghiêm cấm hiệu lực hồi tố
(Rückwirkungsverbot - ban of retroactive
effect). Luật Cơ bản Đức thể hiện nguyên
tắc này ở khoản 2 Điều 103, theo đó, một
hành vi chỉ bị trừng phạt nếu trong luật đã
quy định về hành vi đó có hiệu lực, trước khi
hành vi đó diễn ra.
2.2.4 Trách nhiệm bồi thường nhà
nước (Staatshaftung)
Có thể khẳng định rằng, nhà nước pháp
quyền sẽ không có ý nghĩa thực tế, nếu thiếu
vắng vấn đề trách nhiệm bồi thường của nhà
nước. Nếu quan hệ giữa nhà nước và công
dân là bình đẳng, thì nhà nước cũng như mọi
công dân khác phải chịu trách nhiệm bồi
thường nếu vi phạm pháp luật. Hay nói cách
khác, nhà nước phải bồi thường cho cá nhân,
8 Nguyên bản Tiếng Đức: “Verletzt jemand in Ausübung eines ihm anvertrauten öffentlichen Amtes die ihm einem Dritten
gegenüber obliegende Amtspflicht, so trifft die Verantwortlichkeit grundsätzlich den Staat oder die Körperschaft, in
deren Dienst er steht”.
9 BGH, Urteil des Dritten Zivilsenats, v. 6.7.1989, III ZR 79/88, BGHZ 108, 230 (232); BGH, Urteil des Dritten
Zivilsenats, v. 12.2.1970, III ZR 231/68, BGHZ 53, 217 (218 f.); Sodan/Ziekow, 2012, Grundkurs Öffentliches Recht,
5. Aufl., § 86, Rn. 21.
tổ chức bị thiệt hại bởi hành vi do người thi
hành công vụ gây ra.
Theo quan điểm nhà nước pháp quyền
hiện đại, nhà nước phải chịu trách nhiệm
trong các quan hệ bên ngoài đối với những
thiệt hại do người thi hành công vụ gây ra
cho người bị thiệt hại là các cá nhân, tổ chức.
Cơ sở hiến định cho quyền được bồi
thường thiệt hại được quy định tại khoản 1
Điều 34 Luật Cơ bản. Theo đó, "bất cứ ai
trong quá trình thi hành công vụ được giao
phụ trách mà vi phạm nghĩa vụ gây thiệt hại
cho người thứ ba, thì trách nhiệm bồi thường
thiệt hại về cơ bản là thuộc về Nhà nước
hoặc cơ quan quản lý người vi phạm”8.
Theo pháp luật Đức, chủ thể bồi
thường là nhà nước (der Staat) hoặc là pháp
nhân của luật công (eine juristische Person
des öffentlichen Rechts)9. Nhà nước chỉ có
quyền yêu cầu người vi phạm bồi hoàn khi
người này thực hiện hành vi một cách cố ý
hoặc vô ý nghiêm trọng (vorsätzlich oder
grob fahrlässig) (khoản 2 Điều 34 Luật Cơ
bản). Tòa án thường có quyền phán quyết
về các vụ việc liên quan đến trách nhiệm bồi
thường công vụ (khoản 3 Điều 34).
2.2.5 Nguyên tắc bình đẳng (ius
respicit aequitatem)
Trong hoạt động áp dụng pháp
luật, nguyên tắc bình đẳng (ius respicit
aequitatem) là nội dung trung tâm. Nguyên
tắc này xuất phát từ đặc trưng cơ bản của
nhà nước pháp quyền. Trong một nhà nước
pháp quyền, mọi chủ thể của pháp luật đều
bình đẳng trước pháp luật. Nếu mọi người
KINH NGHIÏåM QUÖËC TÏË
62 Số 19(347) T10/2017
đều bình đẳng trước pháp luật thì việc áp
dụng pháp luật đối với cùng một vấn đề
cũng phải bình đẳng như nhau. Công dân,
cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền hay
thẩm phán áp dụng pháp luật đều chịu sự
ràng buộc bởi pháp luật10. Bình đẳng trong
hoạt động áp dụng pháp luật được thực thi
khi: “Mỗi một tình huống pháp luật nếu
đáp ứng đủ các điều kiện quy phạm pháp
luật đã đặt ra, thì quy phạm đó phải được
áp dụng và khi không đáp ứng đủ các điều
kiện quy phạm pháp luật đã đặt ra, thì nhất
định quy phạm đó không được áp dụng”11.
Hay nói cách khác, bình đẳng trong áp dụng
pháp luật đặt ra yêu cầu với những điều kiện
mà pháp luật đã quy định, thì bất kỳ ai cũng
không thể hành xử khác hơn12. Bình đẳng
trước pháp luật được hiểu: thứ nhất, trước
những điều kiện bắt buộc chung mà pháp
luật đã đặt ra, tất cả mọi người đều có quyền
đòi hỏi được áp dụng pháp luật như nhau;
thứ hai, mọi người đều thuộc đối tượng điều
chỉnh của quy phạm pháp luật như nhau,
không ai đứng trên hay ngoài pháp luật; thứ
ba, không ai bị phân biệt đối xử. Khi một
nhóm nào đó được ưu tiên hơn, thì nhóm
khác sẽ bị loại ra và khi đó nguyên tắc bình
đẳng trước pháp luật cũng sẽ không còn13.
3. Ý nghĩa của Rechtsstaat ở CHLB Đức
3.1 Hạn chế sự chuyên quyền của
nhà nước nhằm bảo vệ quyền con người
Nguyên tắc pháp quyền giới hạn
phạm vi ra quyết định của công quyền
(Ermessensspielräume) và hạn chế việc thực
thi quyền lực vượt quá thẩm quyền trái pháp
10 Röhl/Röhl, Allgemeine Rechtslehre, 3. Aufl., Carl Heymanns, 2008, S. 603ff.
11 Alexy, Theorie der Grundrechte, Frankfurt, 1986, S. 358. Nguyên văn: „Rechtsanwendungsgleichheit ist gegeben,
wenn „jede Rechtsnorm auf jeden Fall, der unter ihren Tatbestand fällt, und auf keinen Fall, der nicht unter ihren
Tatbestand fällt, angewendet wird“.
12 Koller, Theorie des Rechts. Eine Einführung, Wien, Köln, Weimar, 1992, S. 282.
13 Röhl/Röhl, Allgemeine Rechtslehre, 3. Aufl., Carl Heymanns, 2008, S. 604.
luật. Trong một xã hội mà không ai sợ cường
quyền, mọi thứ đều minh bạch, được bảo
đảm thì kinh tế cũng ổn định và phát triển,
hạn chế được tham nhũng.
Từ những đau thương và những trải
nghiệm từ lịch sử, người Đức đã nhận thức
được sâu sắc lý do vì sao cần phải bảo vệ
con người. Không hạn chế quyền lực nhà
nước không thể bảo vệ được nhân phẩm và
các quyền con người. Nhà nước pháp quyền
suy cho cùng là nhằm mục đích bảo vệ con
người. Tất cả các quy định khác trong Hiến
pháp liên quan đến nhà nước pháp quyền từ
vấn đề các quyền cơ bản cụ thể, đến cơ chế
phân công quyền lực, bảo vệ niềm tin, an
toàn pháp lý, trách nhiệm nhà nước suy
đến cùng cũng vì con người và bảo vệ phẩm
giá của con người.
3.2 Tạo ra sự an toàn pháp lý
Một giá trị nữa mà nguyên tắc pháp
quyền đem lại đó là sự an toàn pháp lý. An
toàn pháp lý là một giá trị nền tảng để trong
xã hội có sự tin tưởng lẫn nhau.
Ở đâu nguyên tắc pháp quyền được
thượng tôn thì ở đó con người đều nhận thức
được rằng mọi người đều phải luôn hành
động phù hợp với pháp luật. Khi có tranh
chấp xảy ra, họ cũng nhận thức được rằng
có một cơ quan tư pháp độc lập và không
thiên vị sẽ bảo vệ họ nếu quyền lợi của họ
thực sự bị xâm phạm. Sự an toàn pháp lý cổ
vũ mọi người tiếp cận mọi nguồn lực, phát
huy mọi khả năng, năng lực của mình, thúc
đẩy các quan hệ trong đó có quan hệ kinh tế
phát triển.
KINH NGHIÏåM QUÖËC TÏË
63Số 19(347) T10/2017
Nhà nước pháp quyền khác với những
nhà nước khác ở chỗ, pháp luật bảo vệ con
người chống lại sự độc tài, chuyên chế. Pháp
luật trong nhà nước pháp quyền phải là hiện
thân của lẽ phải, sự công bằng, sự đúng đắn
nhằm đem đến những giá trị tốt đẹp chung
cho cộng đồng, khi đó chúng ta có pháp
quyền, chúng ta có tự do (bởi vì luật ngăn
chặn sự áp bức) và xã hội vì thế cũng có dân
chủ.
Pháp luật trong nhà nước pháp quyền
được nhìn nhận như là một yếu tố trung lập
(an element of impartiality) giới hạn phạm
vi của quyền lực công. Công dân có thể theo
đuổi và hành động theo lợi ích riêng, nhưng
không được xâm phạm quyền lợi của người
khác và của cộng đồng.
3.3 Thiết lập nền tảng cho việc đối
xử một cách bình đẳng giữa các cá nhân
trong xã hội
Một giá trị thứ ba của nguyên tắc pháp
quyền là việc đối xử một cách bình đẳng.
Nếu cán bộ, công chức áp dụng đúng pháp
luật thì không cho phép họ thiên vị bất kỳ ai,
vì những lý do như định kiến, tham nhũng
hoặc tâm lý bất ổn định. Đối với những vụ
việc như nhau thì phải được đối xử như
nhau. Phụ nữ, những người dân tộc thiểu
số, những người tàn tật và trẻ nhỏ và những
người trong nhóm yếu thế khác đang càng
ngày càng được quan tâm và có được những
biện pháp để đối xử bình đẳng với những
người bình thường khác.
Tóm lại, qua việc nguyên cứu việc
quản trị nhà nước Đức theo nguyên tắc pháp
quyền, có thể rút ra những nhận định sau:
Thứ nhất, nguyên tắc Rechtsstaat ở
Đức là sự tổng hợp của nhiều tiêu chí cả
về hình thức và nội dung. Những tiêu chí
này đã được thể hiện đầy đủ trong Luật Cơ
bản (Hiến pháp) Đức và phần nào đã được
hiện thực hóa trên thực tế. Hiểu những yêu
cầu mang tính nền tảng của nguyên tắc
Rechtsstaat này có một ý nghĩa tham khảo
rất quan trọng giúp cho việc hoạch định các
chính sách phát triển của quốc gia, hướng
cho quốc gia tới sự thịnh vượng, ổn định và
phát triển một cách bền vững.
Thứ hai, nguyên tắc Rechtsstaat có thể
hiểu là một nguyên tắc, nhưng cũng có thể
hiểu là một nguyên tắc chung bao gồm nhiều
nguyên tắc khác. Những yếu tố hình thức
giống như những điều kiện cần và những
yếu tố nội dung là những điều kiện đủ.
Những nguyên tắc này không giản đơn đặt
ra những yêu cầu về nội dung, hình thức của
pháp luật mà phần nhiều nói đến cả phương
diện thực tiễn thực hiện, nói đến những định
hướng trong việc quản trị nhà nước hiện đại.
Có thể hiểu những nguyên tắc này là những
công cụ để truyền tải giá trị chung sống, sao
cho công quyền không thể độc đoán, chuyên
quyền hay tùy tiện mà phải tuân theo những
ràng buộc chặt chẽ để đảm bảo quyền của cá
nhân, lợi ích của cộng đồng.
Thứ ba, điều quan trọng là pháp quyền - theo
nghĩa là một giá trị nhân văn, công bằng, sự
đúng đắn phải được đề cao, thượng tôn, chứ
không giản đơn chỉ là sự thượng tôn pháp
luật đơn thuần, bởi lẽ có pháp luật, nhưng
nếu pháp luật đó sai, không công bằng mà
vẫn tuân thủ, áp dụng pháp luật thì trong
trường hợp đó cũng không thể có pháp
quyền. Có lẽ với khía cạnh này, Rechtsstaat
ở Đức thực sự được hiểu là một nguyên tắc
quản trị quốc gia hiện đại mà những yêu cầu
của nó được phân tích ở trên được ví như
là "thành trì" để chống lại mầm mống của
những bất ổn và những gì "phi pháp quyền"
vẫn tiềm ẩn trong xã hội
KINH NGHIÏåM QUÖËC TÏË
64 Số 19(347) T10/2017
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- quan_tri_nha_nuoc_theo_nguyen_tac_phap_quyen_o_cong_hoa_lien.pdf