Quyết định phương án đầu tư và dự án đầu tư trong thẩm quyền và giới hạn theo quy định của Luật Doanh nghiệp hoặc Điều lệ công ty;
c) Quyết định giải pháp phát triển thị trường, tiếp thị và công nghệ; thông qua hợp đồng mua, bán, vay, cho vay và hợp đồng khác có giá trị bằng hoặc lớn hơn 50% tổng giá trị tài sản được ghi trong báo cáo tài chính gần nhất của công ty hoặc một tỷ lệ khác nhỏ hơn quy định tại Điều lệ công ty, trừ hợp đồng và giao dịch quy định tại khoản 1 và khoản 3 Điều 120 của Luật Doanh nghiệp;
d) Bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức, ký hợp đồng, chấm dứt hợp đồng đối với Giám đốc hoặc Tổng giám đốc và người quản lý quan trọng khác do Điều lệ công ty quy định; quyết định mức lương và lợi ích khác của những người quản lý đó; cử người đại diện theo uỷ quyền thực hiện quyền sở hữu cổ phần hoặc phần vốn góp ở công ty khác, quyết định mức thù lao và lợi ích khác của những người đó;
82 trang |
Chia sẻ: banmai | Lượt xem: 1701 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Quản trị nội bộ tại Công ty cổ phần chứng khoán Châu Á Thái Bình Dương, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ái quát về Ban kiểm soát
Điều 121 Luật Doanh nghiệp 2005 và điều 36 Điều lệ công ty APEC quy định:
Ban kiểm soát do ĐHĐCĐ bầu ra, số lượng từ ba đến năm thành viên. Nhiệm kỳ của Ban kiểm soát không quá năm năm và thành viên Ban kiểm soát có thể được bầu lại với số nhiệm kỳ không hạn chế.
Các thành viên Ban kiểm soát bầu một người trong số họ làm Trưởng ban kiểm soát. Ban kiểm soát phải có hơn một nửa số thành viên thường trú ở Việt Nam và phải có ít nhất một thành viên là kế toán viên hoặc kiểm toán viên.
4.2 Thành viên của Ban kiểm soát
Luật Doanh nghiệp 2005 quy định cụ thể tiêu chuẩn và điều kiện làm thành viên Ban kiểm soát. Một cá nhân sẽ được bổ nhiệm thành thành viên Ban kiểm soát khi đáp ứng đủ các điều kiện sau đây:
a) Từ 21 tuổi trở lên, có đủ năng lực hành vi dân sự và không thuộc đối tượng bị cấm thành lập và quản lý doanh nghiệp theo quy định của Luật này;
b) Không phải là vợ hoặc chồng, cha, cha nuôi, mẹ, mẹ nuôi, con, con nuôi, anh, chị, em ruột của thành viên Hội đồng quản trị, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc và người quản lý khác.
c) Thành viên Ban kiểm soát không được giữ các chức vụ quản lý công ty.
Ban kiểm soát công ty APEC hiện nay có 03 thành viên đáp ứng đủ yêu cầu trên, gồm có:
01 Trưởng ban: ông Nguyễn Nhật Quang
02 Phó trưởng ban: Bà Nguyễn Thị Mai Hương và
Bà Đào Thanh Hương ( kế toán viên)
4.3. Quyền và nghĩa vụ của ban kiểm soát
Với vai trò giám sát và kiểm soát hoạt động của công ty, ban kiểm soát nhìn chung có các quyền và nghĩa vụ như sau:
a) Ban kiểm soát thực hiện giám sát Hội đồng quản trị, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc trong việc quản lý và điều hành công ty; chịu trách nhiệm trước Đại hội đồng cổ đông trong thực hiện các nhiệm vụ được giao.
b) Kiểm tra tính hợp lý, hợp pháp, tính trung thực và mức độ cẩn trọng trong quản lý, điều hành hoạt động kinh doanh, trong tổ chức công tác kế toán, thống kê và lập báo cáo tài chính.
c) Thẩm định báo cáo tình hình kinh doanh, báo cáo tài chính hàng năm và sáu tháng của công ty, báo cáo đánh giá công tác quản lý của Hội đồng quản trị.
Trình báo cáo thẩm định báo cáo tài chính, báo cáo tình hình kinh doanh hàng năm của công ty và báo cáo đánh giá công tác quản lý của Hội đồng quản trị lên Đại hội đồng cổ đông tại cuộc họp thường niên.
d) Xem xét sổ kế toán và các tài liệu khác của công ty, các công việc quản lý, điều hành hoạt động của công ty bất cứ khi nào nếu xét thấy cần thiết hoặc theo quyết định của Đại hội đồng cổ đông hoặc theo yêu cầu của cổ đông hoặc nhóm cổ đông quy định tại khoản 2 Điều 79 của Luật này.
e) Khi có yêu cầu của cổ đông hoặc nhóm cổ đông quy định tại khoản 2 Điều 79 của Luật này, Ban kiểm soát thực hiện kiểm tra trong thời hạn bảy ngày làm việc, kể từ ngày nhận được yêu cầu. Trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày kết thúc kiểm tra, Ban kiểm soát phải báo cáo giải trình về những vấn đề được yêu cầu kiểm tra đến Hội đồng quản trị và cổ đông hoặc nhóm cổ đông có yêu cầu.
Việc kiểm tra của Ban kiểm soát quy định tại khoản này không được cản trở hoạt động bình thường của Hội đồng quản trị, không gây gián đoạn điều hành hoạt động kinh doanh của công ty.
f) Kiến nghị Hội đồng quản trị hoặc Đại hội đồng cổ đông các biện pháp sửa đổi, bổ sung, cải tiến cơ cấu tổ chức quản lý, điều hành hoạt động kinh doanh của công ty.
g) Khi phát hiện có thành viên Hội đồng quản trị, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc vi phạm nghĩa vụ của người quản lý công ty quy định tại Điều 119 của Luật này thì phải thông báo ngay bằng văn bản với Hội đồng quản trị, yêu cầu người có hành vi vi phạm chấm dứt hành vi vi phạm và có giải pháp khắc phục hậu quả.
h) Ban kiểm soát có quyền sử dụng tư vấn độc lập để thực hiện các nhiệm vụ được giao.
Ban kiểm soát có thể tham khảo ý kiến của Hội đồng quản trị trước khi trình báo cáo, kết luận và kiến nghị lên Đại hội đồng cổ đông.
Thực tế tại Công ty APEC em thấy Ban kiểm soát đã hoàn thành được những nhiệm vụ mà pháp luật quy định, có thể khái quát là:
Ban Kiểm Soát đã tiến hành hoạt động kiểm tra, giám sát việc tuân thủ các quy định của Luật Doanh Nghiệp, Điều lệ công ty và hoạt động của Công ty trong việc quản lý, điều hành toàn bộ hoạt động kinh doanh của Công ty;
- Xem xét tính phù hợp của các Quyết định của Hội đồng Quản Trị, Tổng Giám đốc trong công tác quản lý; Kiểm soát trình tự, thủ tục ban hành các văn bản của Công ty phù hợp với quy định của Pháp luật và Điều lệ công ty;
- Kiểm tra, đánh giá các quy trình trọng yếu của Công ty nhằm phát hiện những rủi ro tiềm tàng hoặc những thiếu sót, từ đó đề xuất những kiến nghị và giải pháp phù hợp;
- Tham gia các buổi họp của HĐQT, kiểm tra giám sát việc triển khai các quyết định của Đại hội đồng cổ đông đối với HĐQT, Ban Giám đốc;
- Xem xét các báo cáo định kỳ do Tổng Giám đốc lập, kiểm tra, giám sát các báo cáo tài chính hàng quý nhằm đánh giá tính hợp lý của các số liệu tài chính. Đồng thời, phối hợp với Kiểm toán độc lập xem xét ảnh hưởng của các sai xót kế toán và kiểm toán trọng yếu đến báo cáo tài chính; giám sát ban lãnh đạo trong việc thực thi những kiến nghị do Kiểm toán đưa ra.
Giám sát việc thực thi pháp luật của Công ty, đặc biệt là các quy định của Pháp luật về chứng khoán và TTCK, là lĩnh vực mới và được điều chỉnh bởi nhiều loại văn bản khác nhau do nhiều cơ quan ban hành.
Như vậy, với một cơ cấu tổ chức bộ máy thống nhất và việc chấp hành những quy định về quyền hạn và nhiệm vụ trong quản trị nội bộ, có thể nói Công ty chứng khoán APEC về cơ bản đã chấp hành tốt các quy định của Pháp luật. Tuy nhiên công ty kinh doanh trong lĩnh vực chứng khoán không chỉ chịu sự điều chỉnh của Luật Doanh nghiệp mà còn phải chấp hành những quy định nhiều văn bản khác, do đó việc bỡ ngỡ trong việc áp dụng luật cũng như chưa hiểu rõ về luật là không thể tránh khỏi. Nhưng với đội ngũ lãnh đạo và cán bộ nhân viên giàu kinh nghiệm, có trình độ, nhiệt tình thì chắc chắn công ty APEC sẽ thực hiện tốt quy định của Pháp luật, phát triển không ngừng và trở thành một trong ba công ty chứng khoán hàng đầu Việt Nam như mục tiêu đã đề ra.
Chương III: Một số nhận xét về tình hình thực hiện quy định của Pháp luật về quản trị công ty chứng khoán và kiến nghị để hoàn thiện hệ thống Pháp luật
1. Nhận xét về tình hình thực hiện các quy định về quản trị nội bộ tại công ty chứng khoán Châu Á Thái Bình Dương nói riêng và các công ty chứng khoán nói chung
Quản trị nội bộ là một yếu tố vô cùng quan trọng, quyết định sự thành bại của doanh nghiệp. Trong một doanh nghiệp, thông thường quản trị nội bộ được điều chỉnh bởi 4 vấn đề cơ bản sau: Cơ cấu tổ chức, quản lý tài chính, quản lý hoạt động và quản lý nhân sự. Những vấn đề này lại được điều chỉnh trong những văn bản quy phạm pháp luật do Nhà nước ban hành, cụ thể ở Việt Nam là Luật Doanh nghiệp. Riêng đối với CTCK áp dụng thêm các điều khoản có trong Luật Chứng khoán, nghị định 14/ NĐ- CP, quyết định 27/ QĐ- BTC và các văn bản có liên quan khác. Mặc dù đã có văn bản điều chỉnh nhưng không phải CTCK nào cũng làm tốt những điều mà pháp luật quy định.
1.1 Về cơ cấu tổ chức:
Khoản 1 điều 59 luật CK quy định : "Công ty chứng khoán,công ty quản lý quỹ đầu tư chứng khoán( sau đây gọi là công ty quản lý quỹ) được tổ chức dưới hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc công ty cổ phần theo quy định của Luật Doanh nghiệp".
Như vậy ở Việt Nam chỉ có 2 loại hình mà CTCK có thể đăng ký thành lập là công ty cổ phần hoặc công ty TNHH. Các công ty cổ phần được hình thành nhờ phần vốn góp của các cổ đông, trong khi đó các công ty TNHH thường là công ty con hoạt động trong lĩnh vực chứng khoán trực thuộc các Ngân hàng thương mại( NHTM ). Có thể kể tên vài công ty cổ phần chứng khoán tiêu biểu như : CTCK Sài Gòn( SSI ), CTCK Bảo Việt( BVSC), CTCK Châu Á Thái Bình Dương( APEC )… còn loại hình TNHH thì có thể kể đến : CTCK Vietcombank( VCBS ), CTCK Ngân hàng đầu tư phát triển( BSC ), CTCK Sacombank( SBSC )… Mỗi loại hình công ty đều có mặt mạnh và mặt yếu riêng, ta có thể so sánh trong 2 mô hình sau :
DỊCH VỤ CHỨNG KHOÁN
CÔNG NGHỆ THÔNG TIN
TƯ VẤN TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP
PHÂN TÍCH & NGHIÊN CỨU
ĐẦU TƯ & BẢO LÃNH PHÁT HÀNH
HÀNH CHÍNH
TÀI CHÍNH KẾ TOÁN
TƯ VẤN ĐẦU TƯ VÀ QUẢN LÝ VỐN
PHÁT TRIỂN KINH DOANH
HỘI SỞ
CHI NH¸NH
HỘI ĐỒNG QUẢN TRỊ
BAN KIỂM SOÁT
BAN GIÁM ĐỐC
ĐẠI HỘI ĐỒNG CỔ ĐÔNG
VP TRỢ LÝ HĐQT
Mô hình CTCK cổ phần
Mô hình CTCK là công ty TNHH
Ưu điểm của loại hình công ty cổ phần là với cơ cấu đa sở hữu, HĐQT chịu trách nhiệm trước các cổ đông về hoạt động của công ty nên yếu tố kiểm soát chặt chẽ hơn. Đa số các CTCK hoạt động tại Việt Nam hiện nay đều theo cơ cấu sở hữu này. Tuy vậy, cơ cấu tổ chức của các công ty không phải nơi nào cũng giống nhau, có nơi trao phần lớn quyền lực cho HĐQT, có nơi lại để mọi quyền quyết định cho Ban giám đốc khiến cho sự ràng buộc giữa HĐQT và Ban giám đốc còn chồng chéo và lỏng lẻo, có công ty còn không có sự phân cấp rõ ràng giữa 2 cơ quan trên, hoặc có sự thay đổi về cơ cấu mà không thông báo theo quy định của Pháp luật. Vụ việc CTCK Thiên Việt đầu năm 2007 là một ví dụ. Công ty này bị UBCKNN phạt 50 triệu đồng vì thay đổi Tổng giám đốc nhưng không thông báo, vi phạm Luật Doanh nghiệp và Luật Chứng khoán.
Đối với loại hình công ty TNHH ở Việt Nam, chủ yếu do các NHTM thành lập nhằm mở rộng hoạt động sang lĩnh vực chứng khoán. Do vậy mà hoạt động của các CTCK con này bị ràng buộc và phụ thuộc rất nhiều vào các NHTM mẹ. Cơ cấu tổ chức cao nhất là chủ tịch của công ty, nhưng đôi khi kiêm nhiệm luôn chức vụ Tổng giám đốc. Mọi quyết định thay đổi ban lãnh đạo, tổ chức lại CTCK đều phụ thuộc vào quyết định của NHTM mẹ. Bị phụ thuộc như vậy nên hoạt động của các CTCK tổ chức dưới hình thức công ty TNHH không được chủ động trong việc vạch chiến lược, quan hệ đối tác, mở rộng hoạt động hay tăng vốn… Nhưng loại hình này lại có ưu điểm là do phụ thuộc vào NH mẹ nên có thể tận dụng quy mô, uy tín, thương hiệu của NH mẹ để dành được những hợp đồng lớn, tận dụng hệ thống chi nhánh rộng khắp làm đại lý phân phối, đại lý nhận lệnh. Tuy vậy, Pháp luật lại chưa có nhiều quy định điều chỉnh cho mối quan hệ giữa 2 tổ chức này, đôi khi còn gây khó khăn cho các CTCK trong việc thực hiện những quy định pháp luật.
Công ty cổ phần chứng khoán Châu Á Thái Bình Dương được tổ chức theo mô hình công ty cổ phần, do đó những ưu điểm của loại hình công ty này đã được HĐQT công ty tận dụng triệt để. Các công ty TNHH chứng khoán có lợi thế là có thể tận dụng quy mô, thương hiệu, uy tín của NH mẹ. Tuy nhiên công ty chứng khoán Châu Á Thái Bình Dương rất chú trọng việc xây dựng quy mô và thương hiệu cho công ty, do đó đã giành được nhiều vốn đầu tư từ các đối tác cũng như sự tin cậy của khách hàng.
Đối với loại hình Công ty cổ phần thì ĐHĐCĐ là cơ quan có quyền quyết định cao nhất. Nhưng trong quá trình nghiên cứu về CTCK cũng như thời gian thực tập tại Công ty APEC, em thấy rằng các kỳ họp ĐHĐCĐ là rất ít và không được chú trọng. Thông thường, đối với những vấn đề của công ty như tăng vốn điều lệ, sửa đổi đăng ký kinh doanh… HĐQT đều gửi thông báo bằng văn bản đến các cổ đông và thể thức thông qua là bằng văn bản. Như vậy làm giảm vai trò của ĐHĐCĐ, đồng thời cổ đông không nắm rõ được tình hình hoạt động của công ty, nếu thắc mắc sẽ không được giải đáp kịp thời.
1.2 Quản lý tài chính :
Việc quản lý tài chính trong CTCK là điều vô cùng cần thiết trong hệ thống quản trị nội bộ. Các chế độ báo cáo kết quả kinh doanh, báo cáo lưu chuyển tiền tệ, bảng cân đối kế toán cần phải được lập theo mẫu, có quy chuẩn, phải chính xác, công khai, minh bạch và theo chuẩn mực kế toán. Đây là nguồn thông tin hữu ích cho cả đối tượng là ban quản trị công ty, nhà đầu tư và cả cơ quan giám sát hoạt động là UBCKNN.
Quản lý tài chính là một trong những nhiệm vụ hàng đầu của Tổng giám đốc. Việc quản lý hiệu quả hay không ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động kinh doanh của Công ty. Do đó Luật yêu cầu Tổng giám đốc của các công ty chứng khoán phải tốt nghiệp chuyên ngành tài chính, có trên 3 năm kinh nghiệm làm quản lý và phải có chứng chỉ hành nghề kinh doanh chứng khoán. Đối với những yêu cầu này, tất cả Tổng giám đốc của CTCK đều đã đáp ứng. Tuy nhiên, vì chứng khoán là một lĩnh vực vô cùng mới mẻ ở Việt Nam nên việc quản trị công ty cũng như quản lý tài chính đều mang lại khó khăn nhất định cho các Tổng giám đốc.
Hiện tại, các CTCK đều đã thực hiện việc tăng vốn để đảm bảo đủ số vốn pháp định thực hiện các nghiệp vụ. Trước đây để thực hiện đầy đủ các nghiệp vụ quy định theo nghị định 144, thì các CTCK chỉ cần số vốn là 43 tỷ đồng. Nhưng khi Luật Chứng khoán 2006 ra đời kèm theo Nghị định 14, số vốn tối thiểu để các CTCK thực hiện đầy đủ 4 nghiệp vụ tư vấn, bảo lãnh, môi giới, tự doanh là 300 tỷ. Chính điều này gây khó khăn cho các CTCK vì phải nhanh chóng thực hiện việc tăng vốn, để đảm bảo đúng yêu cầu của pháp luật. Trong suốt năm 2007, thực tế có khá nhiều CTCK vi phạm nghị định 14 về tỷ lệ vốn pháp định, trong đó chủ yếu là các CTCK mới thành lập, đăng ký kinh doanh khi còn áp dụng nghị định 144, nhưng lại hoạt động và bị điều chỉnh bởi Luật Chứng khoán 2006. Việc tăng vốn còn gián tiếp gây áp lực lên ban quản trị CTCK, khi giờ đây họ phải quản lý một lượng vốn lớn hơn nhiều lần so với trước kia. Vì vậy tuân thủ các quy tắc chuẩn mực kế toán là yêu cầu sống còn với hoạt động của công ty. Quản lý tài chính còn gắn liền với việc giảm thiểu những chi phí không cần thiết, tiết kiệm tiền cho công ty, một điều tối quan trọng trong điều kiện kinh doanh khó khăn hiện nay. Tuy vậy vẫn có vài công ty không thực hiện tốt điều trên, dẫn tới kinh doanh thua lỗ.
Các CTCK kinh doanh thua lỗ trong 6 tháng đầu năm 2007
Công ty Chứng khoán
Lợi nhuận sau thuế
(đơn vị: tr.đồng)
Hà Nội
- 1.900
Việt
-468
Việt Tín
-1.588
Tầm Nhìn
-2.127
Biển Việt
-1.159
( Nguồn : Báo cáo hoạt động các CTCK 6 tháng đầu năm-UBCKNN )
Các hạn chế đầu tư của CTCK quy định trong quyết định 27 được các CTCK thực hiện khá tốt. Tuy vậy quy định về tỷ lệ vốn khả dụng/nợ ở mức 6% gây khó khăn cho không ít CTCK, đặc biệt là các CTCK mới thành lập, có số vốn nhỏ, phải tài trợ hoạt động chủ yếu bằng cách đi vay. Việc kiểm toán nội bộ không được thực hiện nghiêm túc, mặc dù việc này có quy định trong quyết định 27. Lý do là các công ty còn xem nhẹ lợi ích của hoạt động kiểm toán nội bộ, việc kiểm toán không được thực hiện bởi bộ phận chuyên trách, mà chủ yếu vẫn do phòng kế toán kiêm nhiệm, sau đó thuê kiểm toán bên ngoài đóng dấu xác nhận nộp lên cho UBCKNN.
1.3. Quản lý hoạt động
Hệ thống quản lý hoạt động cung cấp các chức năng phục vụ cho công tác nghiệp vụ. Trong CTCK nó có thể bao gồm các qui trình quản lý mua sắm, kiểm kê, bảo trì, và kiểm soát chất lượng. Quản lý hoạt động còn là việc thiết lập những chuẩn mực, nguyên tắc kinh doanh và ứng xử trong và ngoài doanh nghiệp, phù hợp với giá trị văn hoá mà doanh nghiệp theo đuổi N hững điều này được quy định trong điều lệ của từng công ty. Mỗi CTCK thì đeo đuổi một chiến lược kinh doanh riêng, vì vậy muốn hoạt động của CTCK được vận hành một cách trơn tru, có hiệu quả, ban quản trị phải thiết lập một bộ quy chuẩn các nguyên tắc ứng xử, các chuẩn mực hoạt động nhằm điều chỉnh và theo dõi việc thực thi các chính sách, quản lý trang thiết bị, quản lý chất lượng hoạt động của công ty mình. Việc tách biệt các phòng chức năng, phân cấp phân quyền cho từng bộ phận cũng là nội dung quan trọng. Hiện tại, việc thiết lập các phòng chức năng là do từng công ty quy định, tuy nhiên có công ty hoạt động hiệu quả, có công ty lại gặp rắc rối do sự chồng chéo giữa các bộ phận. Sự phân cấp không rõ ràng giữa các bộ phận, đôi khi khiến cho CTCK vi phạm pháp luật một cách không đáng có. Ví dụ như: hoạt động tư vấn đầu tư có thể bị coi là quản lý quỹ; bộ phận tự doanh và môi giới khó tách biệt được tài sản của khách hàng, với tài sản của công ty.
Thực tế tại Công ty chứng khoán Châu Á Thái Bình Dương cho thấy, đội ngũ quản lý hoạt động của công ty là HĐQT và Ban Giám đốc, trong đó hoạt động của Chủ tịch HĐQT gắn bó mật thiết với hoạt động của Tổng giám đốc, hoạt động của Tổng giám đốc lại có mối quan hệ chặt chẽ với hoạt động của Giám đốc khối chuyên môn. Do đó cơ cấu quản lý của Công ty rất bền vững vì có sự trao đổi và giám sát hoạt động lẫn nhau.
1.4. Quản trị nhân sự
Đây là nội dung khá quan trọng trong quản trị nội bộ của CTCK.Theo quy định của pháp luật, mỗi hoạt động, nghiệp vụ của CTCK phải có số nhân viên được cấp chứng chỉ hành nghề theo quy định. Tổng giám đốc hoặc Giám đốc, phó Tổng giám đốc hoặc phó giám đốc, Giám đốc chi nhánh, phó giám đốc chi nhánh cũng cần phải có chứng chỉ hành nghề và 3 năm kinh nghiệm quản lý cũng như kinh nghiệm trong lĩnh vực tài chính ngân hàng.Tuy vậy trên thực tế, do có quá nhiều CTCK đi vào hoạt động chỉ trong vòng 2 năm 2006, 2007 đã khiến cho nguồn nhân lực trên TTCK bị thiếu hụt, dẫn tới tình trạng nhiều công ty buộc phải vi phạm pháp luật về điều kiện nguồn nhân lực.
Công ty chứng khoán Châu Á Thái Bình Dương đặt ra mục tiêu chiến lược là trở thành một trong ba CTCK hàng đầu Việt Nam. Do đó, ngay từ khi thành lập, ban lãnh đạo công ty luôn cố gắng đáp ứng đầy đủ các quy định của Pháp luật. Việc tuân thủ pháp luật này hết sức có ý nghĩa đối với một CTCK mới thành lập. Một mặt, CTCK có đầy đủ tiềm năng phát triển, mặt khác tạo niềm tin cho các nhân viên khi làm việc, như vậy mới có thể đưa công ty phát triển.
Các công ty CK còn vi phạm quy định về số người có chứng chỉ hành nghề
Công ty Chứng khoán
Số nghiệp vụ kinh doanh
Số người hành nghề
Dầu Khí
4
9
Doanh nghiệp vừa và nhỏ
4
7
Mêkông
4
5
Chợ lớn
3
9
Việt
3
5
Biển Việt
3
8
Phương Đông
4
3
Vina
4
3
Việt Tín
4
3
Hà Thành
3
4
( Nguồn : Báo cáo tổng kết hoạt động các CTCK 6 tháng đầu năm 2007 )
Một số công ty còn tìm cách lách luật, bằng cách đi thuê bằng hành nghề cho đủ điều kiện nộp lên ủy ban CK. Các quy định về kiểm soát hoạt động nhân viên trong CTCK không được thực hiện chặt chẽ, các nhân viên trong CTCK có thể mở cùng lúc nhiều tài khoản tại nhiều CTCK khác nhau, hoạt động môi giới bên ngoài cho khách hàng để hưởng hoa hồng. Vi phạm nghiêm trọng nhất đã từng xảy ra là nhân viên CTCK tự ý sử dụng tài khoản của khách hàng để mua bán chứng khoán. Điều này cho thấy, hoạt động quản trị nội bộ của các CTCK thực hiện chưa nghiêm túc ,dẫn tới những vi phạm đáng tiếc.
Điều kiện nguồn nhân lực cũng là yếu tố gây đau đầu cho nhiều CTCK, đặc biệt là các CTCK nhỏ. Do điều kiện nhân sự luôn luôn biến động, các đối thủ cạnh tranh luôn tìm cách lôi kéo nhân viên từ các công ty khác, đặc biệt là từ các công ty có uy tín về làm cho mình. Điều này gây ra một tiền lệ xấu và có khả năng dẫn đến cạnh tranh không lành mạnh là thu hút nhân tài của nhau, đồng thời còn lôi kéo khách hàng thông qua những nhân viên đó. Cạnh tranh nguồn nhân lực chắc chắn vẫn còn gay gắt trong thời gian tới, đòi hỏi các CTCK phải có chính sách, chủ trương đối với những khó khăn này.
2. Một số kiến nghị đối với Công ty cổ phần chứng khoán Châu Á Thái Bình Dương
2.1 Cơ cấu lại tổ chức các phòng ban theo hướng tăng cường hỗ trợ hệ thống kiểm soát nội bộ
Muốn nâng cao năng lực quản trị của ĐHĐCĐ, HĐQT, Ban giám đốc thì trước hết hệ thống kiểm soát nội bộ của công ty phải hoạt động thực sự có hiệu quả. Việc làm cần thiết đầu tiên là cơ cấu lại tổ chức theo hướng mở rộng các phòng chuyên môn phục vụ trực tiếp cho hệ thống kiểm soát nội bộ. Dựa vào nhu cầu thực tế của công ty, có thể thành lập thêm 1 đến 2 phòng chức năng trên cơ sở cơ cấu lại hoặc tách từ bộ phận hành chính. Đó là các phòng chuyên môn cho vấn đề tuyển dụng, đào tạo, hệ thống kiểm toán nội bộ cũng như phát triển quan hệ với khách hàng. Khi các nghiệp vụ đã được chuyên môn hóa thì mới có thể dễ dàng thực hiện các chiến lược chính sách tiếp theo của công ty.
Cơ cấu lại các phòng ban cũng gắn liền với việc nâng cao vai trò của ban kiểm soát. Thực tế, mặc dù đã có khái niệm được đưa ra trong Luật Doanh nghiệp 2005 nhưng vai trò của ban kiểm soát trong các doanh nghiệp Việt Nam nói chung và Công ty APEC nói riêng còn rất mơ hồ. Hoạt động của ban kiểm soát nhìn chung vẫn là mang tính chất đột xuất, theo yêu cầu chứ không phải hoạt động thường xuyên. Hơn nữa, Ban kiểm soát được coi như là một bộ phận trực thuộc ban lãnh đạo, điều này làm giảm tính khách quan và độc lập của Ban kiểm soát trong công ty. Đã đến lúc cần đưa vị trí của ban kiểm soát về đúng vị trí và nhiệm vụ của nó, là bộ phận do ĐHĐCĐ bầu ra, có nhiệm vụ kiểm tra, thanh tra giám sát thường xuyên hoạt động của công ty từ đó phát hiện ra những sai xót, hạn chế để ban lãnh đạo có biện pháp khắc phục kịp thời.
2.2 Tăng cường quản lý nhân sự, có chính sách lương thưởng hợp lý và chính sách thu hút nhân tài
Đây là những vấn đề thực sự cần thiết vì nhân lực luôn là vấn đề đau đầu trong quản trị các CTCK. Sự cạnh tranh nhân tài giữa các công ty, vấn đề trình độ đào tạo cũng như những hạn chế về lương thưởng đã là những tồn tại bấy lâu nay. Khi có bộ phận chuyên môn phụ trách vấn đề nhân sự, công ty có điều kiện phát triển hơn nữa về quy mô nhưng vẫn đảm bảo chất lượng nguồn nhân lực. Thực tế một vài CTCK lớn trên TTCK Việt Nam đều có riêng bộ phận quản lý đào tạo nguồn nhân sự, do vậy mà mặc dù bị các công ty khác thu hút không ít chất xám, họ vẫn đáp ứng đủ nhu cầu và tiếp tục phát triển.
Đi kèm với việc thành lập phòng chuyên môn cho vấn đề đào tạo tuyển dụng, là việc đào tạo các chuyên viên HR( Human Resources) phụ trách lên chiến lược quản trị nhân sự cho công ty. Đây là vấn đề quản lý được áp dụng rộng rãi trên thế giới, tại Việt Nam tuy mới manh nha hình thành nhưng chắc chắn sẽ trở nên cần thiết trong thời gian tới. Khi công ty đã có chiến lược phát triển nguồn nhân lực thì từ đó mới đề ra đối sách để thu hút nhân tài, cũng như có chế độ lương thưởng hợp lý để giữ nhân viên của mình.
Theo kinh nghiệm của các CTCK hàng đầu thế giới, lương nhân viên nhận được ngoài phần lương cứng còn có chế độ thưởng theo khối lượng công việc mà nhân viên đó đã làm được một cách thường xuyên và hợp lý.Điều này khuyến khích nhân viên đóng góp tích cực hơn vào hoạt động của công ty. Nó khác với cách làm hiện nay của các CTCK Việt Nam là thực hiện thưởng theo quý, theo năm và theo đầu người. Một cách làm khác là có thể cho phép nhân viên hưởng hoa hồng theo số hợp đồng đã ký được. Công ty cũng cần có những chính sách phù hợp thu hút nhân tài về làm việc cho mình, đặc biệt là đội ngũ nhân sự cao cấp được đào tạo ở nước ngoài về. Mặc dù thị trường nhân sự cao cấp đang gặp phải những cạnh tranh lớn từ nhiều phía, nhưng nếu tạo được hình ảnh và môi trường làm việc thân thiện, chắc chắn CTCK APEC sẽ ngày càng trở thành nơi thu hút nguồn chất xám có trình độ cao đến làm việc cho mình.
2.3. Xây dựng văn hóa công ty
Văn hóa công ty bao gồm những quy tắc ứng xử, phong cách làm việc, những quy định trong quan hệ trong và ngoài công ty, đồng thời là những nguyên tắc kinh doanh mà công ty đang hướng tới. Xây dựng văn hóa công ty là vấn đề lâu dài, cần nhiều kinh nghiệm và phải phù hợp với thực trạng của doanh nghiệp. Nên chăng, công ty có thể thuê tư vấn của nước ngoài về vấn đề này, từ đó xây dựng nên một bộ quy chuẩn các quy tắc cơ bản nhất, hợp lý nhất, xây dựng nên thương hiệu và tạo nên sự khác biệt của CTCK APEC so với các công ty khác.
Văn hóa công ty sẽ kích thích động lực làm việc của các nhân viên trong công ty, khiến họ cùng đóng góp vào sự phát triển chung của APECmà không phải là đi làm cho xong việc. Xây dựng văn hóa công ty trong đó nêu bật vai trò làm gương đi đầu của ban lãnh đạo, chính họ là tấm gương cho nhân viên soi vào, là động lực cho nhân viên phấn đấu, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. Văn hóa công ty cũng phải gắn với việc giải quyết mối quan hệ giữa các nhân viên với nhau, làm sao để họ có thể giúp đỡ nhau cùng làm việc vì mục đích chung, chứ không phải kiềm chân nhau, hủy hoại lẫn nhau.
2.4. Nâng cao vai trò của kiểm toán nội bộ
Kiểm toán nội bộ cũng là vấn đề cần được coi trọng. Trước đây, mọi hoạt động tài chính của công ty đều thông qua phòng kế toán, sau đó bộ phận này báo cáo trực tiếp cho Ban giám đốc công ty. Nếu có thêm bộ phận kiểm toán nội bộ, thì mọi hoạt động báo cáo lên ban giám đốc sẽ không còn bị bó hẹp trong phạm vi các báo cáo tài chính nữa mà sẽ mở rộng không bị giới hạn trong bất cứ phạm vi nào, nghiệp vụ, phòng ban nào. Đây là yếu tố tối cần thiết, nhất là với một loại hình doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực nhạy cảm như CTCK.
Kiểm toán nội bộ sẽ không chỉ giúp việc cho ban giám đốc, mà có thẩm quyền báo cáo lên HĐQT, ĐHĐCĐ, tăng tính công khai minh bạch, tạo sự tin tưởng cho các cổ đông trong công ty. Kiểm toán nội bộ cũng giúp cho ban lãnh đạo nhìn nhận ra những yếu kém sai sót trong hệ thống của mình để từ đó kịp thời khắc phục, hạn chế sai sót. Muốn nâng cao hệ thống kiểm toán nội bộ thì phải có đội ngũ kiểm toán viên nội bộ có trình độ. Kiểm toán nội bộ khác với kiểm toán báo cáo tài chính nên cần thiết phải có nhân viên chuyên thực hiện việc làm này. Xây dựng được đội ngũ kiểm toán viên nội bộ chuyên nghiệp sẽ giúp ích rất nhiều cho ban giám đốc trong việc hỗ trợ ra quyết định, đảm bảo tính chính xác của thông tin tài chính, kịp thời phát hiện những rủi ro và tư vấn việc sử dụng các nguồn lực hiệu quả và hợp lý.
2.5. Nâng cấp hệ thống CNTT và ứng dụng vào việc kiểm soát nội bộ.
Hiện tại hệ thống core-broking mà APEC đang sử dụng được đánh giá là tiên tiến nhất trên thế giới hiện nay. Từ thuận lợi này mà công ty có thể ứng dụng nó vào trong hoạt động kiểm soát nội bộ của mình.Trước hết là có thể kiểm soát các giao dịch theo thời gian, xử lý thông tin tài chính một cách nhanh chóng và chính xác. Đây là điều thực sự cần thiết khi APEC đang là công ty có hệ thống chi nhánh lớn nhất trên TTCK hiện nay.
Việc quản lý tập trung thông tin sẽ giúp Ban quản trị công ty có thể nhanh chóng đưa ra quyết sách kịp thời và đúng đắn. Ứng dụng CNTT vào quản trị nội bộ, còn giúp giảm thiểu rủi ro cho công ty, ngăn chặn những hành vi xấu từ trong nội bộ công ty như: sử dụng tài khoản khách hàng để kinh doanh chứng khoán, đem bán thông tin nội bộ, tăng tính bảo mật và kiểm soát việc ra vào các luồng tiền.
Hệ thống CNTT còn có chức năng và vai trò hỗ trợ cho việc ra quyết định. CTCK APEC có thể xây dựng một hệ thống phân tích nhằm cung cấp các công cụ phân tích, đánh giá dựa trên dữ liệu thu thập từ các hệ thống khác. Kết quả phân tích được biểu thị sáng sủa, đa dạng( bảng, đồ thị, biểu đồ) giúp ban quản trị nắm được tình trạng hoạt động nhanh và hiệu quả. Ngoài ra, hệ thống phân tích còn cho phép thiết lập các mô hình giả định để dự đoán, ngoại suy những xu hướng thay đổi của thị trường, năng lực, chi phí v.v… Qua đó, nó giúp cho công ty luôn sẵn sàng đón nhận các cơ hội, khắc phục những rủi ro và ra quyết định nhanh, chính xác. Những ứng dụng tuyệt vời của CNTT sẽ là sự hỗ trợ hoàn hảo cho hệ thống quản trị nội bộ của công ty.
3. Một số kiến nghị đối với các chủ thể ban hành Luật Doanh nghiệp 2005 và Luật Chứng khoán 2006
3.1 Luật Doanh nghiệp 2005
3.1.1 Hạn chế của Luật Doanh nghiệp trong lĩnh vực quản trị nội bộ
Luật Doanh nghiệp 2005 ra đời với tư cách là Luật chung điều chỉnh hoạt động của tất cả loại hình doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế đã có nhiều thay đổi phù hợp với tình hình phát triển của đất nước. Tuy nhiên sau gần 03 năm thực thi Luật Doanh nghiệp, cộng đồng doanh nghiệp cũng như dư luận vẫn có nhiều ý kiến về đạo luật này. Dưới đây là một số ý kiến của cá nhân em về Luật Doanh nghiệp trong lĩnh vực quản trị nội bộ:
Trong các quy định của Luật Doanh nghiệp, ngoài chủ tịch hội đồng quản trị thì không nhắc đến các đối tượng khác được quyền triệu tập họp hội đồng mà Luật dùng cụm từ rất chung chung là Người triệu tập, như vậy có thể hiểu chủ tịch hội đồng quản trị là người duy nhất thực hiện chức năng này. Do đó trong thời gian qua, việc thiếu quy định dẫn đến thực tế ở nhiều công ty cổ phần là chủ tịch đã trì hoãn hoặc từ chối triệu tập họp ngay cả khi có yêu cầu từ các thành viên khác. Hậu quả tiềm ẩn của việc này là các thành viên không có cùng quan điểm với chủ tịch đã không thể hoàn thành nghĩa vụ, trách nhiệm của mình theo luật định, gây ảnh hưởng tiêu cực đến quản trị công ty.
Vấn đề quản trị trong các công ty cổ phần có vốn chi phối của chủ sở hữu nhà nước thường xuyên có những bất ổn, dẫn tới sự can thiệp của cơ quan hành chính nhà nước bên ngoài vào công ty. Tuy nhiên, Luật Doanh nghiệp hiện không có quy định nào về vấn đề này.
Điểm khiếm khuyết lớn của quản trị doanh nghiệp ở Việt Nam là các quy định luật pháp về kế toán, kiểm toán, công khai minh bạch thông tin ít có hiệu lực thực tế. Điều này dẫn đến những sai phạm chậm được phát hiện, các chế tài chưa đủ hiệu lực để răn đe. Điều này cho phép một số không ít các giám đốc điều hành lạm dụng quyền hạn, chức vụ để mưu lợi bất chính. Rất nhiều doanh nghiệp nhà nước hoạt động kém hiệu quả trong khi đó thì giám đốc lại giàu có sau khi thôi chức vụ là biểu hiện cụ thể của tình trạng này.
Theo Bộ Tài chính, trong quản trị doanh nghiệp nhà nước hiện nảy sinh nhiều vấn đề phức tạp: có quá nhiều cơ quan cùng thực hiện một số quyền tài sản trong doanh nghiệp; người quản trị doanh nghiệp lại không sở hữu tài sản của đơn vị đó nhưng lại tham gia vào quyết định và định đoạt tài sản... Thực tế trên đã làm cho quy trình quản lý và ra quyết định của doanh nghiệp nhà nước phải qua nhiều thang nấc, khâu phê duyệt và bản thân người quản trị doanh nghiệp có cơ hội để tư lợi cá nhân, cơ quan quản lý lại ôm đồm những công việc đáng ra thuộc về giới quản trị, chi phí quản lý doanh nghiệp cao.
Quản trị nội bộ, nhất là quản lý tài chính, còn thiếu minh bạch; lối quản trị phi chính thức, quản lý dựa trên kinh nghiệm bản thân, thiếu chiến lược và kế hoạch kinh doanh cụ thể... đang là hiện tượng phổ biến. Công tác ghi chép, cập nhật, lưu trữ sổ sách của công ty còn yếu, chưa đúng với yêu cầu theo quy định của pháp luật; việc lập sổ sách kế toán, thống kê vẫn chưa phải để công khai hóa giúp những ai có quan tâm đều có thể hiểu đúng và đủ về thực trạng tài chính công ty, về các điểm mạnh, yếu của công ty mà chỉ để đối phó với các cơ quan Thuế.
3.1.2 Kiến nghị các giải pháp tiếp tục phát huy hiệu lực của Luật Doanh nghiệp 2005
Chính Phủ: nhanh chóng trình Quốc hội dự thảo sửa đổi bổ sung Luật Doanh nghiệp 2005 để phù hợp với tình hình phát triển của đất nước và xu thế của thế giới.
Bộ Tư pháp: Chủ trì, phối hợp với các cơ quan có liên quan nghiên cứu soạn thảo nghị định quy định về phạm vi và điều kiện kinh doanh đối với dịch vụ điều tra dân sự, kinh tế.
Bộ Tài chính: Chủ trì nghiên cứu soạn thảo nghị định quy định điều kiện kinh doanh (không phân biệt thành phần kinh tế) đối với các dịch vụ đòi nợ, định giá tài sản, đánh giá tín nhiệm, v.v..
Chủ trì, phối hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư tập hợp, xem xét đánh giá các quy định có khả năng tác động tiêu cực đến việc nâng cao tính minh bạch trong quản lý nội bộ doanh nghiệp, nhất là các quy định về kế toán, hạch toán chi phí, căn cứ tính thuế và cách thức thu thuế, quản lý thuế; đồng thời kiến nghị cơ chế khuyến khích doanh nghiệp nâng cao tính trung thực, minh bạch trong hạch toán, kế toán và quản lý tài chính doanh nghiệp;
Bộ Kế hoạch và Đầu tư:
Chủ trì, phối hợp với Tổ Công tác thi hành Luật Doanh nghiệp rà soát, đánh giá lại hồ sơ, trình tự, thủ tục, điều kiện và thẩm quyền cấp một số giấy phép kinh doanh được dư luận xã hội cho là bất hợp lý; phát hiện các bất hợp lý, kiến nghị hợp lý hóa báo cáo Thủ tướng Chính phủ.
Chủ trì nghiên cứu bổ sung sửa đổi các nội dung còn thiếu, hoặc không còn phù hợp trong các văn bản hướng dẫn thi hành Luật Doanh nghiệp
Phối hợp với Tổ Công tác thi hành Luật Doanh nghiệp, Văn phòng Chính phủ tiếp tục tập hợp, rà soát, đánh giá lại hệ thống giấy phép hiện hành và kiến nghị Thủ tướng Chính phủ.
Bộ Kế hoạch và Đầu tư phối hợp với Bộ Tài chính cùng phối hợp rà soát, đánh giá lại các hồ sơ, trình tự, thủ tục, chi phí và điều kiện gia nhập thị trường đối với doanh nghiệp, bao gồm đăng ký kinh doanh, khắc dấu, mã số thuế, mua hóa đơn, v.v... xác định rõ các hồ sơ, thủ tục, điều kiện và chi phí bất hợp lý, kiến nghị giải pháp đơn giản hóa, hợp lý hóa báo cáo Thủ tướng Chính phủ.
Bộ Lao động Thương binh và Xã hội:
Chủ trì nghiên cứu soạn thảo nghị định về điều kiện kinh doanh và tổ chức quản lý kinh doanh dịch vụ giới thiệu việc làm.
Chủ trì rà soát và đánh giá lại các quy định pháp luật, chính sách về thành lập, tổ chức quản lý, khuyến khích đối với các trường, trung tâm dạy nghề; kiến nghị bổ sung sửa đổi theo hướng đơn giản hóa thủ tục thành lập, đa dạng hóa quy mô và hình thức đào tạo, chủ động, tự chủ và tự chịu trách nhiệm về nội dung đào tạo, v.v... thực sự khuyến khích các tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp tham gia đào tạo nghề cho người lao động theo nhu cầu của thị trường.
Bộ Xây dựng chủ trì, phối hợp với Bộ Tư pháp, Bộ Kế hoạch và Đầu tư nghiên cứu soạn thảo nghị định về điều kiện kinh doanh và tổ chức quản lý kinh doanh dịch vụ môi giới nhà đất.
Văn phòng Chính phủ chủ trì, phối hợp với Tổ Công tác thi hành Luật Doanh nghiệp tập hợp các văn bản trái với Luật Doanh nghiệp và Nghị định hướng dẫn thi hành luật do các bộ, ngành và các cấp chính quyền địa phương ban hành báo cáo Thủ tướng Chính phủ để quyết định hủy bỏ.
Bộ Tài nguyên và Môi trường chủ trì nghiên cứu soạn thảo nghị định sửa đổi về trình tự, thủ tục, điều kiện và thẩm quyền chuyển đổi quyền sử dụng đất theo hướng đơn giản hóa, tạo điều kiện thuận lợi thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng giá trị hàng hóa/diện tích đất, tăng số lao động và giá trị lao động/diện tích đất, công nghiệp hóa và hiện đại hóa.
Tòa án Nhân dân tối cao đăng tải công khai các bản án có hiệu lực của Tòa án về giải quyết các tranh chấp liên quan đến Luật Doanh nghiệp.
Các phương tiện thông tin đại chúng tiếp tục tuyên truyền, giáo dục giá trị, vai trò xã hội của doanh nhân trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước để thu hút được ngày càng nhiều người, nhất là giới trẻ, định hướng lập nghiệp bằng con đường kinh doanh.
Khuyến khích, hỗ trợ các trường đại học, cao đẳng, các viện nghiên cứu, nhà nghiên cứu khoa học, cán bộ giảng dạy lập doanh nghiệp để họ vừa nghiên cứu khoa học, vừa có điều kiện áp dụng nhanh chóng các kết quả nghiên cứu của họ vào thực tiễn kinh doanh.
Các Hiệp hội doanh nghiệp:
Thường xuyên tập hợp các kiến nghị của doanh nghiệp về luật pháp, cơ chế chính sách, về cách thức quản lý, điều hành của cơ quan nhà nước các cấp, về thái độ của đội ngũ công chức; phân tích, tổng hợp và đề đạt các kiến nghị đó đến các cơ quan nhà nước có thẩm quyền có liên quan, các cơ quan thông tin đại chúng và các hiệp hội khác;
Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam phối hợp với các cơ quan nhà nước có liên quan, các hiệp hội doanh nghiệp khác xây dựng và thực hiện chương trình đào tạo, bồi dưỡng chủ doanh nghiệp, người quản lý doanh nghiệp; xây dựng các quy tắc đạo đức và văn hóa kinh doanh; xây dựng mô hình liên doanh, liên kết giữa các doanh nghiệp, giữa doanh nghiệp và các nhà khoa học, các viện nghiên cứu, các trường đại học nhằm huy động tiềm năng phát triển và nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
Các chủ sở hữu và người quản lý doanh nghiệp:
Xây dựng ý thức thường xuyên cải thiện, nâng cao tính minh bạch trong quản trị nội bộ công ty; cần nhận thức rằng quản trị minh bạch cũng là yếu tố tăng thêm giá trị của công ty; là một trong những yếu tố của sự phát triển bền vững của công ty; nó cũng là công cụ hữu hiệu để đấu tranh loại bỏ lối can thiệp tuỳ tiện vị lợi cá nhân của một số công chức nhà nước có liên quan, qua đó, sẽ giảm được những khoản chi phí tiêu cực, góp phần làm lành mạnh môi trường kinh doanh chung của cả nước. Lợi ích nhiều mặt của quản lý minh bạch như trình bày trên đây có thể vượt xa "khoản thuế" trốn lậu được nhờ quản lý không minh bạch.
3.2 Luật chứng khoán 2006
3.2.1 Hạn chế của Luật Chứng khoán trong lĩnh vực quản trị công ty
Trên thực tế, Luật Chứng khoán không quy định về quản trị công ty chứng khoán mà chỉ quy định về các hoạt động của Công ty chứng khoán, do đó không có cơ sở để nhận xét về tính ứng dụng của Luật Chứng khoán. Tuy nhiên, trong quá trình nghiên cứu chuyên đề thực tập, em thấy Luật Chứng khoán còn nhiều bất cập ảnh hưởng lớn đến hoạt động kinh doanh của Công ty chứng khoán. Do đó, trong chuyên đề này em xin kiến nghị với các cơ quan soạn thảo Luật Chứng khoán mấy vấn đề sau
3.2.2 Kiến nghị các giải pháp tiếp tục phát huy hiệu lực của Luật Chứng khoán
Có thể khẳng định rằng, để thị trường chứng khoán phát triển bình thường theo đúng quy luật kinh tế thì hành lang pháp lý cho việc gia nhập thị trường của các nhà đầu tư, các tổ chức phát hành hay các tổ chức kinh doanh chứng khoán phải đảm bảo các yêu cầu về tính minh bạch, tính tự do, tính nhanh chóng, thuận lợi, tính an toàn và giảm thiểu các chi phí giao dịch. Nếu các quy định của Luật chứng khoán không rõ ràng, khó hiểu, quá phức tạp, kém độ an toàn và không thể dễ dàng tiếp cận được đối với các chủ thể tham gia thị trường chứng khoán, đặc biệt là đối với người dân thì chắc chắn các quy định đó sẽ bị xem là không hiệu quả về mặt kinh tế, nghĩa là có thể làm gia tăng các chi phí giao dịch cho các bên khi gia nhập thị trường.
Vậy, làm thế nào để cho Luật chứng khoán có khả năng giảm thiểu các chi phí gia nhập thị trường chứng khoán? Đây là bài toán tương đối khó giải quyết đối với các nhà làm luật về chứng khoán. Tuy nhiên, có thể hình dung các yêu cầu cơ bản khi thiết kế ban hành và hoàn thiện Luật chứng khoán mà người soạn luật cần đáp ứng, bao gồm:
Thứ nhất, làm cho các quy định của Luật chứng khoán trở nên rõ ràng, minh bạch, công khai, dễ tiếp cận đối với mỗi người dân, mỗi tổ chức hay mỗi công chức chính quyền. Khi người ta có thể tìm hiểu và nghiên cứu pháp luật về chứng khoán một cách dễ dàng, nhanh chóng và hiệu quả ở mọi nơi, bằng mọi phương tiện thì hiển nhiên là chi phí cho việc tìm hiểu thị trường, gia nhập thị trường và thực thi các giao dịch trên thị trường chứng khoán sẽ giảm đi đáng kể. Dĩ nhiên, khi các chi phí cho việc gia nhập thị trường chứng khoán được giảm thiểu đáng kể, với một mức chi phí ngày càng rẻ hơn thì sẽ có tác dụng khuyến khích nhà đầu tư, các tổ chức phát hành và các nhà kinh doanh chứng khoán tham gia thị trường một cách tích cực và thiện chí.
Thứ hai, làm cho các quy định của Luật chứng khoán ngày càng hợp lí và được thực thi nghiêm túc trong bất kì hoàn cảnh nào. Yêu cầu này liên quan đến quan niệm về tính hợp lí của các quy định luật pháp. Tuy còn nhiều ý kiến tranh luận về vấn đề này nhưng ở mức khái quát, có thể hiểu tính hợp lí của các quy định pháp luật, trong đó bao gồm các quy định của Luật chứng khoán, chính là sự phù hợp hay tương thích của các quy định đó với tình trạng xã hội hiện tại, bao gồm cả sự phù hợp với trình độ phát triển của nền kinh tế và yêu cầu hội nhập quốc tế. Mặt khác, muốn cho các quy định của Luật chứng khoán có thể được thực thi nghiêm túc thì ngoài việc đảm bảo tính hợp lí cho các quy định đó, Luật chứng khoán cần thể hiện được tính nghiêm khắc trong việc áp dụng các chế tài xử lí đối với những hành vi vi phạm pháp luật về chứng khoán, bất luận người vi phạm là ai. Kinh nghiệm thực tiễn còn cho thấy, nếu người dân không được tiếp cận đầy đủ với hệ thống pháp luật và họ không được khuyến khích hành xử theo tinh thần thượng tôn pháp luật, không được trang bị những khả năng và phương tiện pháp lí để kiên quyết đấu tranh với những hành vi vi phạm pháp luật thì hiệu quả trong việc thi hành pháp luật nói chung và Luật chứng khoán nói riêng sẽ là không đáng kể. Trong trường hợp như vậy, đương nhiên các quy định của Luật chứng khoán có thể bị xem là không hiệu quả vì khi đó người dân nói chung và các chủ thể tham gia thị trường chứng khoán nói riêng sẽ phải bỏ ra nhiều chi phí hơn cho việc tuân thủ những quy định không hợp lí và khắc phục các hậu quả tổn thất do những hành vi vi phạm pháp luật gây ra.
Nâng cao mức độ thoả mãn các nhu cầu và lợi ích của các bên tham gia thị trường chứng khoán
Các chủ thể tham gia thị trường chứng khoán luôn hướng tới mục tiêu cơ bản là tìm cách thoả mãn tối đa các nhu cầu và lợi ích chính đáng của mình khi quyết định gia nhập thị trường. Vì lẽ đó, không thể nói rằng Luật chứng khoán đã đảm bảo tính hiệu quả về phương diện kinh tế nếu quyền và lợi ích chính đáng của các nhà đầu tư, các tổ chức phát hành hay các nhà kinh doanh chứng khoán chuyên nghiệp không được đảm bảo bằng các quy định đó, dù là ở mức độ tối thiểu.
Vậy, làm thế nào để cho Luật chứng khoán có khả năng đảm bảo và nâng cao dần mức độ thoả mãn các nhu cầu và lợi ích của các bên tham gia thị trường chứng khoán?
Trên thực tế, việc đo lường mức độ thoả mãn nhu cầu và lợi ích của các bên tham gia thị trường chứng khoán để từ đó đánh giá, đo lường mức độ hiệu quả của Luật chứng khoán là vấn đề rất khó khăn và nan giải. Tuy vậy, ở mức khái quát, em cho rằng người soạn thảo luật vẫn có thể làm được việc đó nếu quan tâm thoả đáng đến những khía cạnh sau đây:
Một là, người soạn luật phải xác định và nhận diện chính xác những nhu cầu, lợi ích cơ bản mà các chủ thể tham gia thị trường chứng khoán nhằm hướng tới. Đối với các chủ thể tham gia thị trường, những nhu cầu, lợi ích này thường gắn với quyền tư hữu và chúng được phát sinh từ quyền tư hữu. Ví dụ, nhà đầu tư bỏ tiền ra để mua chứng khoán nhằm mưu lợi cho mình, do đó họ có nhu cầu được biết chính xác về tình hình hoạt động hiện tại và khả năng tài chính của tổ chức phát hành để từ đó đánh giá mức độ tin cậy cũng như khả năng tăng, giảm giá của loại chứng khoán họ đã hoặc sẽ đầu tư. Còn đối với tổ chức phát hành, do lợi ích của họ nằm ở số vốn mà họ muốn huy động từ các nhà đầu tư nên đương nhiên chủ thể này có nhu cầu được phát hành chứng khoán ra công chúng với thủ tục nhanh chóng nhất, thuận lợi nhất với chi phí phát hành thấp nhất. Riêng đối với các nhà kinh doanh chứng khoán chuyên nghiệp như công ty chứng khoán, công ty quản lí quỹ… thì lợi ích của họ nằm ở khoản lợi nhuận mà họ sẽ thu được khi mua bán chứng khoán cho chính mình hoặc cung cấp dịch vụ về chứng khoán cho khách hàng, vì thế nhu cầu của họ là làm sao có được nhiều khách hàng tham gia vào thị trường phát hành cũng như thị trường giao dịch chứng khoán với khoản chi phí là thấp nhất. Trên thực tế, không phải khi nào các nhu cầu và lợi ích của các bên tham gia thị trường chứng khoán cũng có sự thống nhất nên về lý thuyết, nhà soạn luật còn phải nhận biết được những nhu cầu, lợi ích nào của các bên có khả năng xảy ra mâu thuẫn, xung đột với nhau hoặc mâu thuẫn, xung đột với lợi ích chung của cộng đồng để từ đó dự liệu những phương thức giải quyết xung đột, mâu thuẫn giữa các lợi ích một cách công bằng và hiệu quả.
Hai là, người soạn luật cần thiết kế những quy định nhằm đảm bảo hợp lí các nhu cầu, lợi ích của mỗi loại chủ thể tham gia thị trường chứng khoán, đặt trong mối quan hệ với việc đảm bảo hợp lí các nhu cầu, lợi ích chung mang tính cộng đồng. Tuy nhiên, việc cân bằng lợi ích giữa các bên tham gia thị trường chứng khoán là điều rất khó và có lẽ cần được hiểu theo nghĩa, bên nào có vị thế kinh tế bất lợi hơn so với các bên còn lại thì cần được Nhà nước quan tâm bảo vệ đặc biệt bằng các quy tắc pháp lý công bằng, ví dụ như nhu cầu ưu tiên bảo vệ quyền lợi của các nhà đầu tư chứng khoán, xét trong mối quan hệ lợi ích với tổ chức phát hành chứng khoán hay với các tổ chức kinh doanh chứng khoán chuyên nghiệp.
Mặt khác, những quy định của Luật chứng khoán cũng cần đảm bảo sự đối xử công bằng giữa các nhà đầu tư trong nước với các nhà đầu tư nước ngoài trên thị trường chứng khoán để không tạo ra những rào cản bất hợp lý cho sự gia nhập thị trường của các nhà đầu tư tiềm năng như tổ chức và cá nhân nước ngoài.
Tóm lại, những phân tích trên đây cho phép nhận định rằng, muốn có một thị trường chứng khoán hoạt động ổn định, an toàn và hiệu quả thì không thể thiếu khung pháp luật an toàn và hiệu quả, trong đó tính hiệu quả của Luật chứng khoán được xem là vấn đề cốt lõi. Với niềm tin có cơ sở, chúng ta có quyền bày tỏ sự kỳ vọng vào những thành công của Việt Nam tong lĩnh vực kinh tế, trong nỗ lực cải cách hệ thống pháp luật hiện hành, trong đó có lĩnh vực pháp luật về chứng khoán để đáp ứng yêu cầu phát triển nền kinh tế theo hướng thị trường và hội nhập.
Kết luận
Trong hơn hai năm qua, để phát triển nền kinh tế, Nhà nước Việt Nam đã chú trọng hơn đến việc tạo vốn cho nền kinh tế bằng những cam kết và ủng hộ đối với hoạt động của Thị trường chứng khoán và hệ thống Công ty chứng khoán, đồng thời khuyến khích được cá nhân và các tổ chức kinh tế có điều kiện tham gia. Thị trường chứng khoán và các Công ty chứng khoán ngày càng phát triển, hoạt động của Thị trường chứng khoán ngày càng có ảnh hưởng đối với các hoạt động sản xuất kinh doanh cũng như đời sống sinh hoạt của con người. Qua hơn 2 năm hoạt động, cùng với sự phát triển chung của nền kinh tế, các Công ty chứng khoán đã và đang nỗ lực xây dựng và thực hiện những chiến lược, chiến thuật nhằm tạo ra những bước đột phá, khẳng định vị thế của mình trên thị trường trong nước và quốc tế.
Để đạt được những mục tiêu đó thì trước mắt các công ty chứng khoán phải làm tốt công tác quản trị nội bộ mà quan trọng nhất là củng cố và hoàn thiện bộ máy lãnh đạo công ty. Quản trị nội bộ tốt thôi chưa đủ mà phải gắn liền việc quản trị đó với những quy định của Pháp luật. Làm được như vậy thì các công ty chứng khoán không những phát triển nhanh chóng mà còn dành được niềm tin và sự hợp tác từ các đối tác trong nước và đặc biệt là các đối tác muốn đầu tư vàp thị trường Việt Nam.
Danh mục tài liệu tham khảo
1. Một số vấn đề cơ bản về quyền tự do kinh doanh trong cơ chế thị trường ( TS. Bùi Ngọc Cường NXB chính trị quốc gia, 2004)
2. Giáo trình Pháp luật kinh tế, NXB Đại học kinh tế quốc dân
3. Điều lệ Công ty cổ phần chứng khoán Châu Á Thái Bình Dương
4. Bản cáo bạch Công ty cổ phần chứng khoán Châu Á Thái Bình Dương
5. Các trang Web gồm có:
www.apec.com.vn
www.chinhphu.vn
www.mof.gov.vn
www.dddn.com.vn
www.ckvn.com
www.chungkhoan24h.com.vn
môc luC
Danh mục các chữ viết tắt 1
LỜI NÓI ĐẦU 2
Chương I. 3
Những cơ sở khoa học trong Quản trị doanh nghiệp 3
I. Quyền tự do kinh doanh trong thành lập và quản trị doanh nghiệp trong cơ chế thị trường 3
II. Sự phát triển của Pháp luật về doanh nghiệp và quản trị nội bộ từ Luật Doanh nghiệp 1999 đến Luật Doanh nghiệp 2005 4
1. Sự phát triển của pháp luật về doanh nghiệp: 4
1.1. Các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế được đặt vào một khung pháp lý chung: 5
1.2. Quy định về đăng ký kinh doanh. 6
1.3. Quy định về các loại hình Công ty 7
1.4. Tăng cường quản lý Nhà nước đối với doanh nghiệp: 10
2. Sự phát triển của pháp luật về quản trị nội bộ 11
2.1. Các quy định về quản trị nội bộ trong điều lệ công ty. 11
2.2. Hoàn thiện quản trị doanh nghiệp 11
III. Đặc điểm riêng của Công ty cổ phần 12
IV. Khái quát về Thị trường chứng khoán và Công ty chứng khoán: 15
1. Thị trường chứng khoán 15
1.1. Khái niệm Thị trường chứng khoán: 15
1.2. Phân loại Thị trường chứng khoán: 16
1.3 Các chủ thể trên TTCK Việt Nam 17
1.3.1 Tổ chức phát hành chứng khoán 17
1.3.2 Nhà đầu tư chứng khoán: 17
1.3.3 Chủ thể trung gian trên TTCK. 17
2. Công ty chứng khoán 19
2.1 Khái niệm Công ty chứng khoán 19
2.2 Phân loại Công ty chứng khoán: 20
2.3 Đặc điểm của Công ty chứng khoán 20
2.3.1 Các quy chế pháp lý đối với Công ty chứng khoán: 20
2.3.2 Đặc điểm về các loại hình nghiệp vụ kinh doanh của Cty chứng khoán: 23
2.3.3 Đặc điểm về hoạt động của Công ty chứng khoán: 26
V. Chế độ pháp lý về quản trị nội bộ đối với Công ty chứng khoán 26
1. Luật Doanh nghiệp 2005 26
2. Luật Chứng khoán 2006 27
3. Văn bản dưới Luật 27
3.1 Nghị định số 139/ 2007/ NĐ-CP 27
3.2 Nghị định số 14/ 2007/ NĐ- CP 27
3.3 Quyết định số 27/ 2007/ QĐ- BTC 27
4. Văn bản riêng của Công ty cổ phần chứng khoán Châu Á Thái Bình Dương 28
Chương II. Thực tiễn về quản trị nội bộ tại Công ty chứng khoán Châu Á Thái Bình Dương 29
I. Tổng quan về Công ty cổ phần Châu Á - Thái Bình Dương: 29
1. Quá trình ra đời và sự phát triển của Công ty 29
2. Cơ cấu tổ chức quản lý 30
2.1 Đại hội đồng cổ đông: 32
2.2 Hội đồng quản trị: 32
2.3 Ban Kiểm soát: 32
2.4 Văn phòng trợ lý HĐQT 32
2.5 Ban Giám đốc 32
2.6 Hội sở chính 32
2.7. Chi nhánh: 33
3. Tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh 33
4. Nhân sự tại Công ty Châu Á Thái Bình Dương 34
II. Việc thực thi các quy định của Pháp luật về Quản trị nội bộ tại Công ty cổ phần chứng khoán Châu Á Thái Bình Dương 34
1 Đại hội đồng cổ đông: 34
1.1 Khái niệm 34
1.2 Thẩm quyền của ĐHĐCĐ 35
1.3 Họp ĐHĐCĐ 36
2 Hội đồng quản trị 37
2.1 Khái niệm 37
2.2 Chức năng của HĐQT: 37
2.3 Nhiệm vụ và quyền hạn của HĐQT 38
2.4 Chủ tịch HĐQT 44
2.5 Họp HĐQT 46
3. Ban Giám đốc 46
3.1 Khái niệm Ban Giám đốc 46
3.2 Tổng Giám đốc 47
3.3 Vai trò của Giám đốc chuyên môn nghiệp vụ và Trưởng phòng 50
4. Ban kiểm soát 50
4.1 Khái quát về Ban kiểm soát 50
4.2 Thành viên của Ban kiểm soát 51
4.3. Quyền và nghĩa vụ của ban kiểm soát 51
1.2 Quản lý tài chính : 57
1.3. Quản lý hoạt động 59
1.4. Quản trị nhân sự 60
2. Một số kiến nghị đối với Công ty cổ phần chứng khoán Châu Á Thái Bình Dương 61
2.1 Cơ cấu lại tổ chức các phòng ban theo hướng tăng cường hỗ trợ hệ thống kiểm soát nội bộ 61
2.2 Tăng cường quản lý nhân sự, có chính sách lương thưởng hợp lý và chính sách thu hút nhân tài 62
2.3. Xây dựng văn hóa công ty 63
2.4. Nâng cao vai trò của kiểm toán nội bộ 63
2.5. Nâng cấp hệ thống CNTT và ứng dụng vào việc kiểm soát nội bộ. 64
3. Một số kiến nghị đối với các chủ thể ban hành Luật Doanh nghiệp 2005 và Luật Chứng khoán 2006 64
3.1 Luật Doanh nghiệp 2005 64
3.1.1 Hạn chế của Luật Doanh nghiệp trong lĩnh vực quản trị nội bộ 64
3.1.2 Kiến nghị các giải pháp tiếp tục phát huy hiệu lực của Luật Doanh nghiệp 2005 66
3.2 Luật chứng khoán 2006 68
3.2.1 Hạn chế của Luật Chứng khoán trong lĩnh vực quản trị công ty 68
3.2.2 Kiến nghị các giải pháp tiếp tục phát huy hiệu lực của Luật Chứng khoán 69
Kết luận 73
Danh mục tài liệu tham khảo 74
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- QT01.docx