Kết luận
Cuộc CMCN 4.0 đặt ra cả những thách thức
và cơ hội cho nền quản trị quốc gia, đòi hỏi
Việt Nam cần phải có những chuyển đổi để
vượt qua thách thức và đón bắt cơ hội thành
công. Trên thực tế, những nỗ lực thiết lập
một nền quản trị tốt vẫn gặp nhiều rào cản,
trong đó có sự hạn chế về khả năng công
nghệ. Song, sự bùng nổ của CNTT và
truyền thông đã khắc phục được những rào
cản đó, mở ra cơ hội cải thiện chất lượng
quản trị quốc gia. Nếu Việt Nam xây dựng
được một nền quản trị quốc gia hiệu quả,
thì mục tiêu “Đến năm 2030, Việt Nam
hoàn thành mục tiêu công nghiệp hoá, hiện
đại hoá, cơ bản trở thành nước công nghiệp
theo hướng hiện đại” như Nghị quyết số
23/2018/NQ - TW sẽ “về đích” nhanh hơn.
10 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 13/01/2022 | Lượt xem: 285 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Quản trị quốc gia trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
29
Quản trị quốc gia trong bối cảnh
cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0
Nguyễn Chiến Thắng1, Lý Hoàng Mai2, Nguyễn Thu Hằng3
1, 2 Viện Kinh tế Việt Nam, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam.
Email: ncthang69@yahoo.com
3 Trường Đại học Thủy lợi.
Email: ngthuhang0104@gmail.com
Nhận ngày 13 tháng 8 năm 2019. Chấp nhận đăng ngày 10 tháng 9 năm 2019.
Tóm tắt: Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư (CMCN 4.0) đang có những tác động mạnh mẽ
đến sự thay đổi của quản trị quốc gia trên thế giới nói chung và quản trị quốc gia Việt Nam nói
riêng. Hiện nay, quản trị quốc gia Việt Nam đang gặp phải những thách thức trong việc đNy mạnh
ứng dụng những thành tựu công nghệ mới vào việc nâng cao hiệu quả hoạt động của các cơ quan
hành chính nhà nước, nâng cao năng lực của đội ngũ công chức, giải quyết các vấn đề xã hội của
nền hành chính, thay đổi để thích ứng với sự phát triển của xã hội. Điều này đòi hỏi hoạt động quản
trị quốc gia của Việt Nam phải không ngừng cải cách để vượt qua các thách thức và đón bắt cơ hội
thành công.
Từ khóa: Cách mạng công nghiệp 4.0, quản trị quốc gia, Việt Nam.
Phân loại ngành: Kinh tế học
Abstract: The Fourth Industrial Revolution has been exerting a strong impact on the changes in
national governance in the world in general and in Vietnam in particular. The country's national
governance is now facing challenges in promoting the application of new technological
achievements in improving the efficiency of state administrative agencies, enhancing the capacity
of civil servants, solving social issues of the administration, and making changes to adapt to the
development of the society. That requires constant reforms in Vietnam's national governance
activities to overcome challenges and seize opportunities for success.
Keywords: Fourth Industrial Revolution, national governance, Vietnam.
Subject classification: Economics
Khoahọc xã hội Việt Nam, số 10 - 2019
30
1. Mở đầu
Hoạt động quản trị đã xuất hiện từ rất lâu
cùng với sự phát triển của xã hội loài
người. Tuy vậy, từ cuối thế kỷ XIX, đầu thế
kỷ XX, quan niệm quản trị quốc gia mới
được quan tâm và thảo luận nhiều trên thế
giới. Điều đó phản ánh sự thay đổi lớn
trong nhận thức và cách thức thực thi quyền
lực chính trị ở các quốc gia. Bài viết này4
đề cập sự ra đời của học thuyết quản trị và
các quan điểm về quản trị quốc gia; phân
tích sự thay đổi của quản trị quốc gia;
những thách thức và khuyến nghị quản trị
quốc gia của Việt Nam trong bối cảnh cuộc
CMCN 4.0.
2. Sự ra đời của học thuyết quản trị và
các quan điểm về quản trị quốc gia
2.1. Sự ra đời của học thuyết quản trị
Hoạt động quản trị đã xuất hiện từ rất lâu
cùng với sự phát triển của xã hội loài người,
chẳng hạn như 5.000 năm trước Công
Nguyên (TCN) người Sumerian (vùng Iraq
hiện nay) đã hoàn thiện một hệ thống phức
tạp những quy trình thương mại với hệ
thống cân đong. Người Ai Cập thành lập
nhà nước 8.000 năm TCN và những kim tự
tháp là dấu tích về trình độ kế hoạch, tổ
chức và kiểm soát một công trình phức tạp.
Người Trung Hoa cũng có những định chế
chính quyền chặt chẽ, thể hiện một trình độ
tổ chức cao, điều này được thể hiện trong tư
tưởng của Khổng Tử và Hàn Phi Tử.
Ở Châu Âu, kỹ thuật và phương pháp
quản trị bắt đầu được áp dụng trong kinh
doanh từ thế kỷ XVI, khi hoạt động thương
mại đã phát triển mạnh. Trước đó, lý thuyết
quản trị chưa phát triển trong kinh doanh vì
công việc sản xuất kinh doanh chỉ giới hạn
trong phạm vi gia đình. Đến thế kỷ XVIII,
cuộc CMCN đã chuyển sản xuất từ phạm vi
gia đình sang nhà máy. Quy mô và độ phức
tạp gia tăng, việc nghiên cứu quản trị bắt
đầu trở nên cấp bách, song cũng chỉ tập
trung vào kỹ thuật sản xuất hơn là nội dung
của hoạt động quản trị. Bước sang thế kỷ
XIX, từ sự quan tâm của những người trực
tiếp quản trị (các cơ sở sản xuất kinh doanh
và cả những nhà khoa học) đến các hoạt
động quản trị mới đã có bước phát triển hơn
so với giai đoạn trước. Sự quan tâm vẫn tập
trung nhiều vào khía cạnh kỹ thuật của sản
xuất, nhưng người ta cũng bắt đầu chú ý
đến khía cạnh lao động trong quản trị (như
Robert Owen đã tìm cách cải thiện điều
kiện làm việc và điều kiện sống của công
nhân). Xét về phương diện quản trị, Owen
đã đặt nền móng cho các công trình nghiên
cứu quản trị, nhất là các nghiên cứu về mối
quan hệ giữa điều kiện lao động với kết quả
của doanh nghiệp. Từ cuối thế kỷ XIX,
nhiều nghiên cứu và những lý thuyết quản
trị đã được giới thiệu. Đầu thế kỷ XX,
Frederick W.Taylor là người đặt nền móng
cho quản trị hiện đại và từ đó đến nay các
lý thuyết quản trị đã được phát triển nhanh
chóng, đóng góp tích cực cho sự phát triển
của xã hội loài người ở thế kỷ XXI.
2.2. Các quan điểm về quản trị quốc gia
Khái niệm quản trị quốc gia mới chỉ được
quan tâm đặc biệt và thảo luận nhiều trên
thế giới từ cuối thế kỷ XX đầu thế kỷ XXI
và dần được dùng đến thay thế cho thuật
ngữ “cai trị” [4]. Việc chuyển từ việc sử
NguyễnChiến Thắng, Lý Hoàng Mai, Nguyễn Thu Hằng
31
dụng thuật ngữ “cai trị” sang “quản trị”
trong quản lý nhà nước được nhiều học giả
phân tích, trong đó hầu hết cho rằng, đây là
xu hướng của thế kỷ XXI và phản ánh sự
thay đổi lớn trong nhận thức và cách thức
thực thi quyền lực chính trị ở các quốc gia
[5]. Sự chuyển đổi này cho thấy vai trò của
nhà nước trong thế kỷ XXI đang và sẽ thay
đổi, vị trí độc tôn của bộ máy nhà nước
đang bị thách thức bởi những thiết chế và
chủ thể dân chủ mới [11]. Những thiết chế
dân chủ mới này đang làm thay đổi mối
quan hệ giữa các chủ thể tham gia vào các
hệ thống chính trị, thể hiện qua sự điều
chỉnh các quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm
giữa các bên liên quan. Hình thức quản trị
mới này xét về bản chất chính là việc tái
phân bổ quyền lực từ giới tinh hoa chính trị
đang làm chủ các cơ quan trong bộ máy nhà
nước sang người dân, thông qua sự hình
thành, phát triển và hoạt động của các
phong trào và tổ chức xã hội. Cũng như sự
phân cấp, phân quyền từ chính quyền trung
ương xuống chính quyền địa phương.
Đến nay đã có nhiều quan điểm về quản
trị quốc gia. Theo Daniel Kaufmann, Aart
Kraay, Massimo Mastruzzi, quản trị quốc
gia là “các truyền thống và thể chế mà dựa
vào đó để thực hiện quyền lực ở một quốc
gia” [9]; Kaufmann cho rằng, quản trị nhà
nước là các truyền thống và thể chế thực thi
quyền lực ở một quốc gia, bao gồm: (1)
Chọn người lãnh đạo đất nước như thế nào,
giám sát họ ra sao và khi cần thay thế họ ra
sao; (2) Năng lực của chính phủ trong việc
xây dựng và thực hiện các chính sách có cơ
sở và cung cấp dịch vụ công; (3) Sự tôn
trọng của người dân và nhà nước đối với
các thể chế điều tiết tương tác kinh tế [3].
Ngân hàng Thế giới cho rằng, quản trị quốc
gia là “ cách thức mà quyền lực được
thực thi thông qua các thể chế chính trị,
kinh tế - xã hội của một quốc gia” [13];
Chương trình Phát triển Liên Hợp Quốc
(UNDP), định nghĩa quản trị quốc gia là
“việc thực thi quyền lực chính trị, hành
chính, kinh tế để quản lý các vấn đề của
quốc gia ở mọi cấp độ. Nó bao gồm các cơ
chế, quy trình và thiết chế mà thông qua đó,
các công dân và các nhóm biểu thị sự quan
tâm và thực hiện các quyền hợp pháp và
nghĩa vụ của mình, cũng như cho thấy sự
khác biệt của họ” [8]; Ngân hàng Phát triển
Châu Á (ADB) cho rằng, quản trị quốc gia
là “cách thức mà nhờ đó quyền lực được
thực hiện để quản lý các nguồn lực kinh tế -
xã hội cho sự phát triển của một quốc gia.
Nó đề cập đến chất lượng hoạt động của các
thể chế có nhiệm vụ xây dựng, thực hiện và
bảo đảm thực thi các chính sách tốt dựa trên
cách thức hiệu lực, hiệu quả, công bằng và
toàn diện” [1]. Theo nghĩa rộng, “quản trị
nói đến môi trường thể chế mà ở đó các
công dân tương tác với nhau và với các cơ
quan, quan chức nhà nước” [12]. Huther và
Shah cho rằng, quản trị nhà nước là các
khía cạnh thực hành quyền lực qua thể chế
chính thức hoặc phi chính thức nhằm quản
trị mọi nguồn tài nguyên đã giao cho nhà
nước [2].
Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế
(OECD) cho rằng, quản trị nhà nước là thực
thi quyền lực nhằm thúc đNy dân chủ và
nhân quyền, thúc đNy thịnh vượng kinh tế,
ổn định và gắn kết xã hội, giảm nghèo, bảo
vệ môi trường, sử dụng các nguồn tài
nguyên, tăng niềm tin vào các thiết chế
chính phủ và hành chính [10].
Từ những quan điểm nêu trên, có thể
thấy về bản chất, quản trị quốc gia chính là
Khoahọc xã hội Việt Nam, số 10 - 2019
32
quá trình ra quyết định và tổ chức thực hiện
quyết định để quản lý quốc gia, giải quyết
các vấn đề chính trị, kinh tế - xã hội ở một
quốc gia.
3. Sự thay đổi của quản trị quốc gia
Khi toàn thế giới được kết nối thông tin và
việc xử lý thông tin chủ yếu do trí tuệ nhân
tạo (AI) đảm nhiệm, thì những cơ quan
trung gian của nhà nước sẽ trở nên thừa
thãi. Quản trị quốc gia không thể tiếp tục
vận hành theo lối cũ. Nền tảng sản xuất của
xã hội thay đổi kéo theo sự thay đổi về kết
cấu xã hội, trong đó, khoảng cách giữa
nông dân và công nhân có xu hướng ngày
càng thu hẹp khi nông nghiệp được công
nghiệp hóa, hiện đại hóa (công nhân trong
lĩnh vực nông nghiệp). Sự liên kết giữa nhà
khoa học, nhà sản xuất, nhà cung cấp dịch
vụ và người tiêu dùng sẽ trở nên chặt chẽ
hơn; cá nhân con người có thêm các điều
kiện để có thể tham gia nhiều quan hệ xã
hội và đa dạng hóa tư cách của mình. Trong
bối cảnh cuộc CMCN 4.0, nhà nước (với tư
cách là một tổ chức đặc biệt của xã hội
mang quyền lực công, do xã hội thiết lập
nên, đại diện cho xã hội và phục vụ xã hội)
sẽ thay đổi quản trị của mình, đặc biệt là sự
thay đổi về nhiệm vụ và chức năng của nhà
nước.
3.1. Sự thay đổi nhiệm vụ của nhà nước
Sự xuất hiện của cuộc CMCN 4.0, bên
cạnh những nhiệm vụ truyền thống, đã và
đang xuất hiện những nhiệm vụ mới của
nhà nước.
Một là, Nhà nước phải giải quyết xung
đột giữa các cách thức sản xuất, kinh doanh
và các vấn đề xã hội kèm theo do tác động
của cuộc CMCN 4.0 đã, đang làm xuất hiện
thêm nhiều cách thức sản xuất kinh doanh
thông qua môi trường mạng hoặc ứng dụng
những thành tựu khoa học và công nghệ
mới (công nghệ gen, tế bào, vi sinh, enzym
- protein, tin sinh học, nano sinh học; công
nghệ vật liệu mới, hiện đại, như: vật liệu
điện tử và quang tử, vật liệu nano, vật liệu y
- sinh). Điều này dẫn đến không ít sự
xung đột giữa cách thức sản xuất, kinh
doanh hiện có (hiệu quả thấp, thậm chí cũ,
lạc hậu) với cách thức sản xuất kinh doanh
dựa trên ứng dụng thành tựu của khoa học
và công nghệ với hiệu quả cao hơn. Bên
cạnh đó, cuộc CMCN 4.0 không chỉ tác
động đến sản xuất, kinh doanh mà còn làm
nảy sinh vấn đề xã hội phát sinh, như: sự
chuyển dịch lao động xã hội khi có sự
chuyển đổi ngành/nghề; sự xuất hiện những
ngành/nghề mới và sự suy giảm/mất đi của
một số ngành/nghề; sự thay đổi các vấn đề
liên quan đến quyền con người, quyền công
dân (chuyển đổi giới tính, kết hôn đồng
tính, chọn lọc giới tính khi sinh, mang thai
hộ...); sự thay đổi về lối sống khi con
người, bên cạnh thế giới thực, còn có thế
giới thực được số hóa (ảo). Điều này dẫn
đến những thay đổi, xung đột trong quan
niệm, phong tục, tập quán, thói quen phong
cách sống của cá nhân, xã hội.
Hai là, nhà nước phải thích ứng với sự
xuất hiện hình thức giao tiếp điện tử. Ngày
nay, con người có thể giao tiếp qua email,
mạng xã hội, internet... bên cạnh hình thức
giao tiếp truyền thống (bằng văn bản giấy,
trực tiếp). Vì vậy, Nhà nước cũng cần phải
thay đổi, thích ứng và chấp nhận những
NguyễnChiến Thắng, Lý Hoàng Mai, Nguyễn Thu Hằng
33
hình thức giao tiếp mới trong mối quan hệ
với xã hội, công dân (việc cung cấp một số
dịch vụ công qua mạng, kinh doanh qua
mạng xã hội, hình thức hợp đồng điện tử...).
Ba là, nhà nước phải quản lý, chia sẻ,
minh bạch thông tin. Thông tin là một tài
nguyên cần được quản lý, khai thác một
cách hiệu quả nhất, phục vụ cho sự phát
triển của xã hội. Nếu như trước kia, nhà
nước là một chủ thể nắm giữ một dung
lượng lớn về thông tin, việc chia sẻ thông
tin cho xã hội phụ thuộc nhiều vào ý chí
chủ quan của nhà nước, thì hiện nay, xã hội
đòi hỏi nhà nước phải chủ động chia sẻ,
minh bạch thông tin.
Bốn là, nhà nước phải quản lý các quan
hệ xã hội trong môi trường ảo. Các hình
thức quan hệ xã hội ngày phong phú, phức
tạp hơn (bên cạnh mô hình thực - thực) thì
nhiều quan hệ xã hội đang tương tác với
nhau theo những hình thức trên cơ sở ứng
dụng công nghệ thông tin (như hình thức
thực - ảo - thực; ảo - thực - ảo...). Điều này
dẫn đến việc nhà nước cần có biện pháp
quản lý phù hợp như thu thuế đối với những
kinh doanh qua mạng xã hội, xử lý các đơn
thư khiếu nại, tố cáo, phản ánh, kiến nghị
được gửi qua email, tin nhắn, mạng xã hội...
3.2. Sự thay đổi chức năng của nhà nước
Cuộc CMCN 4.0 tác động đến chức năng
quản lý của nhà nước, nếu như trước đây
nhà nước phải đảm nhiệm trực tiếp các hoạt
động quản lý và cung cấp các dịch vụ công
với lợi thế khách quan vốn có của mình thì
giờ đây nhà nước sẽ chuyển sang chức năng
định hướng, dẫn dắt sự phát triển của xã hội
và kiểm soát sự vận động của xã hội như là
bảo đảm tiên quyết cho sự phát triển của xã
hội phù hợp với những quy luật khách
quan. Chức năng nhà nước chuyển đổi từ
“người chèo thuyền”, “người lái thuyền”
sang “người hoa tiêu”.
Thứ nhất, ở chức năng định hướng và
dẫn dắt, nhà nước có bổn phận phân tích,
đánh giá và nhận thức một cách đúng đắn,
đầy đủ, chính xác, kịp thời quy luật vận
động của đời sống kinh tế, chính trị, văn
hóa, xã hội.
Trên cơ sở đó, định hướng, dẫn dắt sự
phát triển của xã hội phù hợp với các quy
luật khách quan bằng việc đưa ra các chiến
lược, chính sách, quy hoạch, kế hoạch hoặc
cung cấp thông tin có tính định hướng cho
xã hội để tự lựa chọn và quyết định. Có thể
thấy trách nhiệm của nhà nước trong việc
“vượt trước” so với tồn tại xã hội, trở thành
người dẫn dắt cho xã hội. Đồng thời, khi
năng lực của các tổ chức, cá nhân trong xã
hội lớn mạnh, nhà nước cần mạnh dạn hơn
nữa trong việc chuyển giao các công việc
nhà nước cho xã hội (thông qua phân cấp,
phân quyền, ủy quyền).
Thứ hai, ở chức năng kiểm soát sự vận
động của xã hội như là bảo đảm tiên quyết
cho sự phát triển của xã hội phù hợp với
quy luật khách quan, nhà nước phải kiểm
soát để loại trừ những nguyên nhân, điều
kiện phát sinh sai lệch trong quá trình vận
động cũng như xử lý những sai lệch.
Kiểm soát trước hết là thông qua pháp
luật. Nhà nước có trách nhiệm tạo ra một
không gian pháp lý mà trong đó, các quan
hệ xã hội vận động một cách an toàn, thông
thoáng chứ không chỉ dừng ở việc đưa ra
các chế tài để xử lý vi phạm pháp luật cũng
như các hoạt động bảo vệ pháp luật do các
cơ quan, tổ chức, cá nhân có thNm quyền
tiến hành. Pháp luật phải là một trong
Khoahọc xã hội Việt Nam, số 10 - 2019
34
những điểm tựa tiên quyết để con người tự
gây dựng được cuộc sống hạnh phúc cho
chính mình cũng như đóng góp nhiều nhất
có thể vào sự phát triển chung của xã hội.
Các giá trị con người phải được thể hiện
trong pháp luật một cách đầy đủ nhất và cao
quý nhất. Tuân thủ hiến pháp để hướng đến
công lý phải trở thành một trong giá trị,
chuNn mực nền tảng của xã hội và hiện hữu
sinh động trong nhận thức, hành vi của mỗi
một cá nhân, tổ chức. Dựa trên văn hóa
pháp lý để tồn tại là một cơ sở bền vững
cho việc kiểm soát. Kiểm soát còn thể hiện
qua sự gương mẫu, trước hết của chính nhà
nước (thể hiện cụ thể qua tổ chức, hoạt
động của các cơ quan, tổ chức của nhà
nước, cán bộ, công chức, viên chức nhà
nước).
4. Những thách thức của quản trị quốc
gia Việt Nam trong bối cảnh cách mạng
công nghiệp 4.0
Một là, thách thức trong việc đNy mạnh ứng
dụng những thành tựu công nghệ mới vào
việc nâng cao hiệu quả hoạt động của các
cơ quan hành chính nhà nước. Nếu các nhà
quản lý không có những định hướng, giải
pháp phù hợp trong việc đNy mạnh ứng
dụng công nghệ hiện đại vào hoạt động của
cơ quan hành chính nhà nước thì hoạt động
của nền hành chính sẽ trở nên trì trệ và kém
hiệu quả. Chẳng hạn, cốt lõi của cuộc
CMCN 4.0 là sự phát triển của công nghệ
thông tin (CNTT), do vậy việc đNy mạnh
ứng dụng CNTT nhằm xây dựng chính phủ
điện tử ở tất cả các cấp chính quyền vẫn là
nhiệm vụ trọng tâm. Hiện nay, Việt Nam
đang triển khai thực hiện Nghị quyết
36a/NQ-CP về xây dựng chính phủ điện tử,
bước đầu đã đạt được những kết quả nhất
định, nhưng cũng gặp không ít những khó
khăn, thách thức để đạt được mục tiêu cải
cách toàn diện ba nhóm chỉ số dịch vụ công
trực tuyến (OSI), hạ tầng viễn thông và
nguồn nhân lực (HCI). Hiện tại, mức độ
cung ứng dịch vụ công trực tuyến của các
cơ quan hành chính chủ yếu vẫn ở mức độ
thấp (trong tổng số 104.000 dịch vụ công
được cung ứng trực tuyến, có đến 96.500
dịch vụ được cung ứng ở cấp độ 1 và 2; chỉ
có 6.600 dịch vụ ở cấp độ 3; 900 dịch vụ
cấp độ 4) [7].
Hai là, thách thức trong việc xây dựng,
nâng cao trình độ, năng lực của đội ngũ
công chức của nền hành chính. Cuộc
CMCN 4.0 tạo điều kiện thuận lợi cho việc
đNy mạnh ứng dụng nhiều thành tựu công
nghệ hiện đại vào hoạt động quản lý, đặc
biệt là CNTT và rôbốt, khi đó nhiều loại
công việc trong các cơ quan hành chính nhà
nước có thể được thực hiện bởi máy tính và
rôbốt. Để đảm bảo cho nền hành chính hoạt
động hiệu quả, cần phải xây dựng được đội
ngũ công chức có tính chuyên nghiệp cao,
đặc biệt phải nâng cao trình độ, năng lực để
đảm bảo sử dụng tốt các công nghệ hiện đại
khi giải quyết các công việc. Tuy nhiên,
chất lượng nguồn nhân lực Việt Nam chưa
đáp ứng được yêu cầu của cuộc CMCN 4.0.
Cuối năm 2017 có đến 40% lao động của
Việt Nam vẫn là lao động nông nghiệp,
nguồn nhân lực chưa qua đào tạo chiếm
một tỷ lệ khá cao (78,3%). Cuộc CMCN 4.0
là cuộc cách mạng số nhưng nhân lực chất
lượng cao trong các ngành CNTT, kỹ thuật
máy tính, tự động hóa của Việt Nam
đang quá ít. Theo tính toán của các chuyên
gia, nhu cầu nhân lực CNTT tăng thêm
NguyễnChiến Thắng, Lý Hoàng Mai, Nguyễn Thu Hằng
35
47%/năm, trong khi đó số sinh viên ngành
CNTT ra trường lại chỉ tăng 8%/năm. Bên
cạnh đó có tới 72% số sinh viên ngành
CNTT không có kinh nghiệm thực hành,
42% số sinh viên thiếu kỹ năng làm việc
nhóm [6].
Ba là, thách thức trong việc giải quyết
các vấn đề xã hội của nền hành chính. Với
nền tảng tích hợp nhiều công nghệ hiện đại,
cuộc CMCN 4.0 sẽ tác động vào hầu hết
các lĩnh vực của đời sống xã hội, đặc biệt
trong lĩnh vực sản xuất, kinh doanh sẽ
mang lại năng suất, hiệu quả cao hơn. Tuy
nhiên, nó cũng tiềm Nn nguy cơ phá vỡ sự
cân bằng của thị trường lao động. Khi rôbốt
và tự động hóa lên ngôi, số lượng lao động
dư thừa tăng lên, tình trạng thất nghiệp
trong xã hội tăng lên đáng kể, đặc biệt là
đối với những người lao động có trình độ
thấp. Mặt khác, khoảng cách giàu nghèo sẽ
gia tăng giữa những đối tượng cung cấp vốn
tài chính, vốn tri thức (các nhà sáng chế, cổ
đông và nhà đầu tư) và những đối tượng
phụ thuộc vào sức lao động (người lao
động). Cùng với đó là thách thức gia tăng
của các vấn đề về tệ nạn xã hội, an ninh trật
tự xã hội... Do đó, đòi hỏi các nhà quản lý,
hoạch định chính sách cần phải nghiên cứu,
có chính sách phù hợp về đào tạo phát triển
nguồn nhân lực, về giải quyết việc làm, an
sinh xã hội và bảo đảm trật tự xã hội.
Bốn là, thách thức trong việc thay đổi để
thích ứng với sự phát triển của xã hội. Cuộc
CMCN 4.0 tạo ra một sự thay đổi rất lớn
các lĩnh vực của đời sống xã hội. Theo nhận
định của nhiều chuyên gia, cuộc CMCN 4.0
đang phát triển theo hàm số mũ chứ không
phải là tốc độ tuyến tính. Giáo sư Klaus
Schwab, Chủ tịch Diễn đàn Kinh tế Thế
giới Davos, người đưa ra khái niệm cuộc
CMCN 4.0 đã khẳng định: chúng ta đang
tiến tới một cuộc cách mạng công nghệ,
công nghiệp làm thay đổi cơ bản lối sống,
phong cách làm việc và cách thức giao tiếp.
Xét về phạm vi, mức độ và tính phức tạp,
sự dịch chuyển này không giống với bất kỳ
điều gì mà con người từng trải qua. Trước
sự thay đổi mạnh mẽ của xã hội do tác động
của cuộc CMCN 4.0, khả năng thích ứng
với sự thay đổi, phát triển của xã hội cũng
là một trong những yêu cầu quan trọng của
nền hành chính hiện đại.
5. Một số khuyến nghị cho Việt Nam
Để vượt qua những thách thức đặt ra đối
với quản trị nhà nước trong cuộc CMCN
4.0, quản trị nhà nước phải có những cải
cách căn bản và toàn diện theo hướng hiện
đại hóa, chuyên nghiệp, thông minh. Năng
lực quản trị nhà nước cần được thay đổi
theo các hướng sau:
Thứ nhất, đNy mạnh việc xây dựng chính
phủ số tạo nền móng cho quản trị số và
hướng tới mô hình quản trị thông minh.
Theo đó, cần phải: (1) Đầu tư nguồn lực, áp
dụng mạnh mẽ chính phủ số ở tất cả các
lĩnh vực mà Việt Nam có khả năng, đồng
thời phổ biến trên diện rộng và phát huy
tính hiệu quả của mô hình này ở các cơ
quan nhà nước để hiện đại hóa thủ tục hành
chính, hạn chế tham nhũng, tăng cường tính
minh bạch; (2) Xây dựng các ứng dụng và
cung cấp các dịch vụ công trực tuyến để
giảm gánh nặng cho chính quyền, thoả mãn
nhu cầu dịch vụ ngày càng cao và đa dạng
của người dân; (3) Thiết lập các cơ chế trực
tuyến tiếp thu ý kiến phản hồi của người
dân về chất lượng dịch vụ công để cải thiện
Khoahọc xã hội Việt Nam, số 10 - 2019
36
chất lượng các dịch vụ này, tăng mức độ
hài lòng của người sử dụng; (4) Nâng cấp
hạ tầng kỹ thuật trong các cơ quan nhà
nước, nhất là các cơ quan cung cấp dịch vụ
công phục vụ người dân và doanh nghiệp.
Thứ hai, phát triển nguồn nhân lực chất
lượng cao cho cuộc CMCN 4.0. Nhà nước
cần tạo lập thể chế để bảo đảm mục tiêu
phát triển nguồn nhân lực cho các ngành
công nghiệp, tập trung vào các vấn đề sau:
(1) Tăng lượng sinh viên tốt nghiệp đại học
chuyên ngành kỹ thuật, kỹ sư lên ít nhất
tương đương với các nước như Malaysia và
Thái Lan; (2) Chuyển giao dần (80%-90%)
các vị trí quản lý cấp cao ở các doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài cho người
Việt Nam đảm nhiệm trên mọi lĩnh vực,
bao gồm quản trị, quản lý sản xuất, bán
hàng và thu mua; (3) Xây dựng hệ thống
quốc gia về lao động kỹ thuật cao trong
sản xuất với các cơ sở đào tạo, có chế độ
cử đi học ở nước ngoài, thiết lập các tiêu
chí kiểm tra, hệ thống bằng cấp phù hợp
để hằng năm có thể đào tạo được số lượng
kỹ sư có kỹ năng cao trong lĩnh vực điện
tử và cơ khí. Các kỹ sư này phải tham gia
sản xuất trực tiếp tại các doanh nghiệp và
chịu trách nhiệm đào tạo tiếp tục các thế
hệ kế cận.
Thứ ba, chuNn bị tốt các nền tảng xã hội
cho việc hình thành xã hội điện tử. Trước
tiên, Chính phủ và chính quyền các địa
phương cần làm tốt công tác truyền thông
về tầm quan trọng của việc ứng dụng công
nghệ trong quản lý hành chính, cung cấp
dịch vụ công.
Cần phải thiết lập được nhận thức chung
về những thời cơ và thách thức của cuộc
CMCN 4.0 đối với sự phát triển của quốc
gia. Mỗi ngành, mỗi lĩnh vực, mỗi địa
phương cần phải nhận diện được những
thời cơ và thách thức đang đặt ra đối với
mình để có những hành động phù hợp.
Cuộc CMCN 4.0 không phải là điều quá xa
xôi mà nó đang đi vào từng ngành, từng
lĩnh vực: đó là nền công nghiệp thông minh
nơi mà các quyết định sản xuất dựa trên hệ
thống dữ liệu đầy đủ và cập nhật về thị
trường; quá trình sản xuất nông nghiệp
thông minh với sự tối ưu hóa về giống cây
trồng, vật nuôi, về dinh dưỡng, về quy trình
canh tác, chăn nuôi...; nền y tế với việc số
hóa thông tin tình trạng bệnh nhân để hỗ trợ
chNn đoán, khắc phục các sự cố y học; là hệ
thống giao thông kết nối thông minh. Mỗi
ngành, lĩnh vực cần có chương trình hành
động cụ thể và phù hợp trong cuộc CMCN
4.0 này. Đặc biệt quan tâm phát triển CNTT
nhằm tạo phương thức phát triển mới, nâng
cao toàn diện năng lực cạnh tranh quốc gia,
toàn xã hội.
Xây dựng chính phủ điện tử, tăng cường
tính minh bạch, tạo thuận lợi hơn cho người
dân trong giao dịch với cơ quan nhà nước
và tiếp cận dịch vụ công, xây dựng chính
phủ liêm chính, kiến tạo, phát triển và vì
người dân.
Cần đào tạo kỹ năng và tạo thói quen để
cán bộ hành chính và người dân tiếp cận và
sử dụng công nghệ thường xuyên (như truy
cập các trang web dịch vụ công; sử dụng
các ứng dụng trên điện thoại thông minh...).
Trong quản lý xã hội, cần tạo dựng cơ
chế đối thoại liên tục như các trang thông
tin điện tử tương tác, các công cụ web 2.0
(blog, mạng xã hội) chính thức của Chính
phủ để người dân có thể tham gia vào quá
NguyễnChiến Thắng, Lý Hoàng Mai, Nguyễn Thu Hằng
37
trình hoạch định và phản biện chính sách
nhằm giám sát nền hành chính công và quá
trình thực thi chính sách. Việc tạo dựng cơ
chế đối thoại chính quyền - nhân dân cũng
là một cách để người dân bảo vệ lợi ích của
mình, đảm bảo các quyết sách của chính
quyền không đi ngược lại với lợi ích cộng
đồng. Đặc biệt, cùng với quá trình này cần
bổ sung, hoàn thiện các quy định về quản lý
thông tin và an ninh thông tin.
Cuộc CMCN 4.0 tạo ra các nền tảng
công nghệ cho phép tổ chức, công dân có
thêm các cơ hội để giám sát, tăng cường
tiếng nói. Các chủ thể quản trị nhà nước cần
phải sẵn sàng đối thoại, lắng nghe và có
những thông tin phản hồi kịp thời đối với tổ
chức, công dân. Quản trị nhà nước cần phải
có khả năng thể chế hóa những sáng kiến,
những ý tưởng từ tổ chức, công dân thành
những thể chế tạo ra thành công chung cho
quốc gia.
Ứng dụng CNTT trong việc cung cấp
thông tin, thủ tục hành chính. Cần nghiên
cứu áp dụng trí tuệ nhân tạo trong việc cung
cấp thông tin về thủ tục hành chính, tạo ra
khả năng cung cấp thông tin 24/7 nhằm đáp
ứng yêu cầu về thông tin của tổ chức, công
dân. Đồng thời, cần đNy mạnh các trọng
tâm về xây dựng chính phủ điện tử, chính
quyền điện tử phù hợp với nhu cầu tiếp cận
các dịch vụ công trực tuyến của tổ chức và
công dân.
Thứ tư, nâng cấp nền tảng công nghệ
quốc gia, tận dụng cơ hội trước những đột
phá nhanh chóng về công nghệ trên thế
giới mà cuộc CMCN 4.0 mang lại, đặc
biệt là những đột phá trong CNTT và
truyền thông.
Kinh nghiệm thế giới cho thấy, năng lực
quản trị quốc gia gắn liền với năng lực công
nghệ quốc gia. Cần truyền tải ý tưởng chiến
lược này vào định hướng phát triển kinh tế -
xã hội, cải cách thể chế và xây dựng một
chính sách công nghiệp phù hợp; tạo điều
kiện tối đa cho việc tiếp cận với những
công nghệ mới và nâng cao năng lực ứng
dụng công nghệ.
Thực hiện cơ chế, chính sách khuyến
khích mạnh mẽ các chủ thể trong nền kinh
tế nghiên cứu, ứng dụng và phát triển khoa
học - công nghệ, nhất là công nghệ cao vào
quá trình sản xuất kinh doanh và các lĩnh
vực khác trong đời sống xã hội để bắt kịp
với cuộc CMCN 4.0. Khoa học - công nghệ
là đòi hỏi cấp bách của cạnh tranh thị
trường; yếu tố gắn với “sinh mệnh” của
doanh nghiệp. Vì vậy, Nhà nước có cơ chế
khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi để
các doanh nghiệp, các tổ chức xã hội tích
cực sử dụng khoa học - công nghệ tiên tiến,
tham gia hoạt động khoa học - công nghệ,
tiếp cận thông tin và các nguồn lực khác
của khoa học - công nghệ quốc gia.
Xây dựng thể chế để khoa học - công
nghệ trở thành lực lượng sản xuất dẫn dắt
quá trình cơ cấu lại nền kinh tế. Chú trọng
đNy mạnh các hoạt động nghiên cứu ứng
dụng và triển khai; coi doanh nghiệp và
các đơn vị dịch vụ công là trung tâm của
đổi mới ứng dụng và chuyển giao công
nghệ, là nguồn cầu quan trọng của thị
trường khoa học - công nghệ. Quan tâm
đúng mức đến nghiên cứu cơ bản, tiếp thu
và làm chủ công nghệ tiên tiến trên thế
giới phù hợp với điều kiện của Việt Nam,
bắt kịp nhanh với cuộc CMCN 4.0. Thực
Khoahọc xã hội Việt Nam, số 10 - 2019
38
hiện chính sách khuyến khích cá nhân đầu
tư nghiên cứu khoa học - công nghệ, địa
phương và Nhà nước tạo điều kiện để
những công trình nghiên cứu được đưa vào
ứng dụng thực tiễn.
6. Kết luận
Cuộc CMCN 4.0 đặt ra cả những thách thức
và cơ hội cho nền quản trị quốc gia, đòi hỏi
Việt Nam cần phải có những chuyển đổi để
vượt qua thách thức và đón bắt cơ hội thành
công. Trên thực tế, những nỗ lực thiết lập
một nền quản trị tốt vẫn gặp nhiều rào cản,
trong đó có sự hạn chế về khả năng công
nghệ. Song, sự bùng nổ của CNTT và
truyền thông đã khắc phục được những rào
cản đó, mở ra cơ hội cải thiện chất lượng
quản trị quốc gia. Nếu Việt Nam xây dựng
được một nền quản trị quốc gia hiệu quả,
thì mục tiêu “Đến năm 2030, Việt Nam
hoàn thành mục tiêu công nghiệp hoá, hiện
đại hoá, cơ bản trở thành nước công nghiệp
theo hướng hiện đại” như Nghị quyết số
23/2018/NQ - TW sẽ “về đích” nhanh hơn.
Chú thích
4 Nghiên cứu này là sản phNm của Đề tài khoa học
cấp Nhà nước “Nghiên cứu tổng kết lý luận của chủ
nghĩa Mác - Lênin về mối quan hệ giữa lực lượng
sản xuất với quan hệ sản xuất và đề xuất bổ sung,
phát triển vào thực tiễn Việt Nam trong bối cảnh
mới”, Mã số KX.02.13/16-20.
Tài liệu tham khảo
[1] Benz, A., Papadopoulos, Y. (2006),
Governance and Democracy: Comparing
National, European and International
Experiences, Routledge, London.
[2] Huther, Jeff, and Anwar Shah (1996), A Simple
Measure of Good Governance, Policy
Research Working Paper 1894, World Bank,
Washington, D.C
[3] Kaufmann (1997), Measuring Good
Governance, The World Bank Institute.
[4] Miriam Wyman, Thinking about Governance,
Discussion Paper Prepared for the
Commonwealth Foundation Citizens and
Governance Programme.
[5] Michel Camdessus (1997), Address to the
United Nations Economic and Social Council,
2 July.
[6]
doi/phat-trien-nguon-nhan-luc-viet-nam-dap-
ung-yeu-cau-cua-cach-mang-cong-nghiep-40-
302127.html
[7]
hinhphu/hethongvanban?class_id=509&mode=
detail&document_id=181767
[8]https://www.adb.org/sites/default/files/instituti
onal-document/32027/govpolicy.pdf
[9]
[10]...
policy/irrc.htm.
[11]. https://www.oecd.org/futures/17394484.pdf
[12] ..
[13]...
OVANTCOR/Resources/
NewVisionofLocalGovernance.pdf.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- quan_tri_quoc_gia_trong_boi_canh_cuoc_cach_mang_cong_nghiep.pdf