Quản trị trong cơ quan hành chính nhà nước

MỤC LỤC: MỞ ĐẦU A,KHÁI NIỆM VÀ ĐẶC ĐIỂM VỀ CƠ QUAN HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC 1.Khái niệm 2. Đặc điểm 3.Hệ thống các cơ quan hành chính ở nước ta. B. CHỨC NĂNG CỦA QUẢN TRỊ TRONG CƠ QUAN HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC I. CHỨC NĂNG LẬP KẾ HOẠCH 1. Vai trò của lập kế hoạch trong cơ quan hành chính 2. Kế hoạch và quá trình xây dựng kế hoạch trong cơ quan hành chính. 3. So sánh chức năng lập kế hoạch giữa cơ quan hành chính và các tổ chức khác 4. Thực trạng thực hiện chức năng lập kế hoạch trong cơ quan hành chính 5. Đề xuất hình thức lập kế hoạch theo mục tiêu II. CHỨC NĂNG TỔ CHỨC TRONG CƠ QUAN HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC 1) Đặc điểm cơ cấu tổ chức của cơ quan hành chính 2)So sánh chức năng tổ chức trong cơ quan hành chính với các cơ quan, tổ chức khác 3.Cải cách cơ cấu tổ chức các cơ quan hành chính ở Việt Nam . III.CHỨC NĂNG LÃNH ĐẠO CỦA CƠ QUAN HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC 1. Các đặc điểm về sự lãnh đạo trong cơ quan hành chính. 2.So sánh với các tổ chức khác. 3.Thực trạng hiện nay và giải pháp về vấn đề lãnh đạo trong các cơ quan hành chính IV. CHỨC NĂNG KIỂM TRA 1. Đặc điểm của chức kiểm tra 2. So sánh với các tổ chức có tư cách pháp nhân khác 3.Thực trạng và giải pháp của công tác kiểm tra KẾT LUẬN

doc48 trang | Chia sẻ: thanhnguyen | Lượt xem: 1749 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Quản trị trong cơ quan hành chính nhà nước, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
m; Đạo đức công vụ và văn hoá ứng xử của công chức; Nội dung quản lý công chức: bầu cử, tuyển dụng, đào tạo đánh giá công chức, chính sách tiền lương cà đãi ngộ, hưu trí..; Trách nhiệm của công chức khi thi hành nhiệm vụ, phân cấp quản lý công chức, thanh tra công vụ,… Chú ý oàn thiện các nội dung liên quan đến nghĩa vụ, quyền hạn, quyền lợi, nâng cao trách nhiệm của công chức trong thực thi công vụ bằng cách quy định các nghĩa vụ về thực hiện công vụ, về trật tự hành chính trong thực hiện công vụ, … Sự khác biệt về quyền, nghĩa vụ của mỗi nhóm công chức (lãnh đạo, quản lý và thực thi, thừa hành) để quy định phù hợp với mỗi nhóm và phân định rõ trách nhiệm của người đứng đầu, của tập thể, của cá nhân; Sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện hệ thống tiêu chuẩn chức danh ngạch công chức, đảm bảo một vị trí phải ứng với một chức danh ngạch công chức cụ thể. Xây dựng quy chế thống nhầt về tinh giản biên chế trong cơ quan hành chính ở trung ương và địa phương để thực hiện được việc thường xuyên đưa ra khỏi bộ máy những cán bộ, công chức không đủ năng lực, trình độ, những người vi phạm pháp luật, vi phạm đạo đức nghề nghiệp, tạo điều kiện đổi mới, trẻ hoá, nâng cao năng lực của đội ngũ cán bộ công chức. Để các nội dung này thực sự hoàn chỉnh, trong quá trình xây dựng cần chú ý đến sự phù hợp của Luật Công vụ với các văn bản pháp luật hiện hành có liên quan như: Quy định quyền và nghĩa vụ cần tính đến định hướng phát triển công chức trong các văn kiện Đảng; Các nội dung về đãi ngộ tiền lương cần tính đến sự tương quan với Luật phòng chống tham nhũng, Luật thực hành tiết kiệm chống lãng phí; Quy định về bồi thường thiệt hại do người thi hành công vụ gây ra cần tính đến bồi thường về thiệt hại ngoài hợp đồng của Luật dân sự… Trên cơ sở Luật thống nhất, Chính phủ cần xây dựng quy định chi tiết về quản lý cán bộ, công chức được quy định trong Luật công vụ. III.CHỨC NĂNG LÃNH ĐẠO CỦA CƠ QUAN HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC 1. Các đặc điểm về sự lãnh đạo trong cơ quan hành chính. .Lãnh đạo là đưa ra chủ trương, đường lối, mục đích, tính chất nguyên tắc hoạt động trong các điều kiện môi trường nhất định.Về nội dung chức năng, lãnh đạo gồm : xác định phương hướng, mục tiêu lâu dài, lựa chọn chủ trương chiến lược, điều hoà phối hợp các mối quan hệ và động viên thuyết phục con người. 1.1.Phương thức lãnh đạo và các hình thức thể hiện. Thủ trưởng đưa ra các quyết định dứt khoát , mang tính bắt buộc , đòi hỏi mọi người phải chấp hành nghiêm ngặt , nếu vi phạm bị xử lý thích đáng. Phương pháp lãnh đạo hành chính giúp xác lập kỷ cương làm việc , thông thường được thể hiện qua việc các thủ trưởng ban hành các quy định hành chính dưới hình thức là các văn bản pháp quy và các văn bản cá biệt, qua đó lãnh đạo một cách gián tiếp các cơ quan cấp dưới: -“thủ tướng chính phủ ký các nghị quyết ,nghị định của cp ra các quyết định, chỉ thị và hướng dẫn việc thi hành các văn bản đó”( điều 21 luật tổ chức chính phủ năm 2001) -“bộ trưởng ,thủ trưỏng cơ quan ngang bộ ra quyết định ,chỉ thị , thông tư và hướng dẫn việc thi hành các văn bản đó”( điều 24 luật tổ chức chính phủ năm 2001) 1.2.Phong cách lãnh đạo. Theo quy định của Hiến Pháp 1992 sửa đổi năm 2001 thì có sự kết hợp giữa chế độ tập thể lãnh đạo với chế độ một thủ trưởng trong hoạt động của chính phủ và Uỷ Ban Nhân Dân các cấp. Các cơ quan này thường quyết định những vấn đề quan trọng có liên quan đến nhiều lĩnh vực, do vậy có sự đóng góp trí tuệ tập thể trong bàn bạc được giao. Khi cần quyết định vấn đề nào đó thì các thành viên trong chính phủ sẽ họp và đưa ra ý kiến, thủ tướng sẽ dựa vào những đề xuất của các thành viên để ra quyết định cuối cùng. Cơ quan hành chính nhà nước có thẩm quyền chuyên môn tổ chức và hoạt động theo chế độ một thủ trưởng, theo đó người đứng đầu mỗi mỗi cơ quan như bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang bộ có quyền ra các quyết định cá nhân nhằm thực hiện chức năng, nhiệm vụ mà pháp luật quy định. Các bộ có trách nhiệm tôn trọng quyền quản lý của nhau, phối hợp với nhau thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước, tạo điều kiện để hoàn thành nhiệm vụ ấy. theo chế độ lãnh đạo này mỗi việc chỉ giao cho 1 người phụ trách và chịu trách nhiệm chính .Thủ trưởng cơ quan được phân công công việc phải chịu trách nhiệm chính về công việc được phân công (điểm b khoản 1 điều1 quy chế làm việc của chính phủ 2003 và khoản 2 điều2 quy chế làm việc mẫu của bộ cơ quan ngang bộ , cơ quan thuộc chính phủ 2005); “cấp trên không làm thay công viêc của cấp dưới , tập thể không làm thay công việc của cá nhân ngược lại” (điểm a khoản1 điều 1 quy chế làm việc của chính phủ 2003) Phong cách lãnh đạo dân chủ đề cao sự đóng góp của tập thể được thể hiện qua cách thức giải quyết công việc của thủ tướng chính phủ ngoài việc “triệu tập và chủ toạ các phiên họp của chính phủ” (điểm2 điều 20 luật tổ chức chính phủ năm 2001) 1 tháng 1 lần để thảo luận các vấn đề quan trọng , thủ tướng cính ph ủ còn “họp ,làm việc với lãnh đạo cơ quan liên quan tổ chức tư vấn ,các chuyên gia để tham khảo ý kiến trước khi quyết định.” (điểm b khoản 3 điều 4 quy chế làm việc của chính pủ 2003) và “thành lập các tổ chức làm tư vấn cho thủ tướng để giải quyết đối với 1 số vấn đề phức tạp, quan trọng liên quan đến nhiều ngành nhiều địa phương và phải xử lý trong thời gian dài” (điểm c khoản3 điều 4 quy chế làm việc của chính phủ 2003); Bộ làm việc theo chế độ thủ trưởng nhưng đồng thời chính phủ vẫn quy định “những công việc cần thảo luận tập thể. Lãnh đạo bộ(bộ trưởng , các thứ trưởng) trước khi bộ trưởng quyết định: (theo khoản 3 điều 3 quy chế làm việc mẫu của bộ cơ quan ngang bộ , cơ quan thuộc chính phủ 2005) 1.3.Kỹ năng lãnh đạo. Theo phương thức suy nghĩ và hành động, người lãnh đạo cần có các kỹ năng: kỹ năng tư duy, kỹ năng tổ chức , kỹ năng nghiệp vụ. kỹ năng tư duy: được thể hiện qua sự đòi hỏi trong nhiệm vụ của các tổ chức mà người lãnh đạo đứng đầu Đối với chính phủ,1 số nhiệm vụ là lãnh đạo công tác các bộ , cơ quan ngang bộ , cơ quan thuộc chính phủ , uỷ ban nhân dân các cấp ; xây dựng và kiện toàn hệ thống bộ máy hành chính nhà nước thống nhất từ trung ương đến cơ sở ; trình dự án luật , pháp lệnh và các dự án khác trước quốc hội và uỷ ban thường vụ quốc hội ; tổ chức và lãnh đạo công tác kiểm kê thống kê của nhà nứơc ; công tác thanh tra kiểm tra nhà nước ; thống nhất công tác quản lý đối ngoại ; đàm phán ký kết điều ước quốc tế ; thực hiện chính sách xã hội chính sách tôn giáo quyết định việc điều chỉnh địa giới…( điều 8 luật tổ chức chính phủ 2001). Như vậy, chính phủ phải thực hiện công tác trên tất cả các lĩnh vực bao gồm: 1)kinh tế ,2) khoa học , công nghệ và môi trường ,3) văn hoá giáo dục , thông tin , thể thao và du lịch ,4) y tế và xã hội ,5) dân tộc và tôn giáo .Vì vậy người lãnh đạo chính phủ phải gánh vác 1 trách nhiệm nặng nề , cho nên phải biết tư duy đúng hướng , biết vạch ra đường lối chủ trương .Những cái mà họ đề ra không chỉ bó hẹp trong phạm vi 1 tổ chức mà còn ảnh hưởng đến sự tồn tại và phát triển của 1 đất nước kỹ năng tổ chức: là kỹ năng làm việc với con người, phương tiện và nắm bắt thông tin để đưa ra các quyết định điều phối sử dụng, liên kết, cô lập, phân rã con người ở trong và ngoài hệ thống. Đứng đầu là thủ tướng chính phủ (là người lãnh đạo toàn bộ hoạt động của chính phủ) chịu trách nhiệm trước quốc hội. Dưới thủ tướng là các bộ trưởng và thủ trưởng cơ quan ngang bộ, chịu trách nhiệm trước thủ tướng chính phủ và quốc hội về lĩnh vực, ngành mình phụ trách trong phạm vi cả nước. Tất cả các thủ trưởng cơ quan đều chỉ đạo phối hợp của các thành viên và đôn đốc việc thực các quyết định của cơ quan cấp trên và của người lãnh đạo đó. Ví dụ : Đối với thủ tướng chính phủ là người đứng đầu cơ quan hành chính nhà nước cao nhất nên phải quy định chế độ làm việc của thủ tướng với thành viên chính phủ, chủ tịch uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, chỉ đạo,phối hợp hoạt động của các thành viên chính phủ, quyết định các vấn đề có ý kiến khác nhau giữa các bộ trưởng,thủ trưởng cơ quan ngang bộ,thủ trưởng cơ quan thuộc chính phủ. Đồng thời thủ tướng chính phủ cũng là người đề nghị quốc hội thành lập hoặc bãi bỏ các bộ, cơ quan ngang bộ : trình quốc hội phê chuẩn đề nghị về bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức, cho từ chức vì lý do sức khỏe hoặc lý do khác đối với phó thủ tướng bộ trưởng cơ quan ngang bộ ;bổ nhiểm, miễm nhiệm, cách chức thứ trưởng và chức vụ tương đương; quyết định các biện pháp cải tiến lề lối làm việc hoàn thiện bộ máy quản lý nhà nước(điều 20 luật tổ chức chính phủ 2001).Tất nhiên, những việc làm đó của thủ tướng chính phủ có phạm vi cả nước nhưng ta vẫn nhận thấy nhiệm vụ này đòi hỏi thủ tướng chính phủ phải có kĩ năng tổ chức bên cạnh các kĩ năng khác. Đối với bộ trưởng và thủ trưởng cơ quan ngang bộ trách nhiệm được quy định rõ tại điều 3 quy chế làm việc mẫu của bộ,cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc chính phủ năm 2005. Đó là chỉ đạo, điều hành bộ thực hiện chức năng nhiệm vụ quyền hành theo đúng quy định;phân công công việc cho các thứ trưởng ,phó thủ trưởng cơ quan ngang bộ; uỷ quyền cho thủ trưởng các cơ quan, đơn vị thuộc bộ thực hiên một số công việc cụ thể và quyết định công tác tổ chức bộ máy và nhân sự của bộ sau khi tập thể lãnh đạo bộ thảo luận. Ngoài ra thủ trưởng còn đi công tác và xử lý công tác tại chỗ, tiếp khách…. Để thực hiện những công tác đó, người thủ trưởng phải vận dụng kỹ năng tổ chức một cách nhuần nhuyễn. kỹ năng nghiệp vụ: Đây là một trong những kỹ năng rất quan trọng của nhà lãnh đạo.kỹ năng này được thể hiện khi bổ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang bộ phải trình chính phủ chiến lược, quy hoạch phát triển kế hoạch dài hạn, các công trình quan trọng của ngành, lĩnh vực; quyết định các tiêu chuẩn, quy trình, quy phạm và các định mức kinh tế kỹ thuật của ngành thuộc thẩm quyền: thường xuyên hướng dẫn và chỉ đạo về chuyên môn, nghiệp vụ; kiểm tra đôn đốc việc thực hiện pháp luật và quy định đối với ngành, lĩnh vực của các cơ quan của hội đồng nhân dân và uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương. Hiện nay, Bộ trưởng bộ tài chính Vũ Văn Ninh là thạc sỹ tài chính ngân sách, quản trị kinh doanh, lý luận chính trị cao cấp. Bộ trưởng bộ xây dựng Nguyễn Hồng Quân là kỹ sư xây dựng thủy điện, lý luận chính trị cao cấp. Bộ trưởng bộ văn hoá, thông tin, du lich: Hoàng Tuấn Anh kỹ sư đo đạc hàng không, cử nhân luật, lý luận chính trị cao cấp. Bộ trưởng bộ khoa học công nghệ Hoàng Văn Phong : tiến sĩ toán lý Bộ trưởng bộ nội vụ Trần Văn Tuấn : tiến sĩ chuyên ngành kinh tế, lý luận chính trị cao cấp, Bộ trưởng bộ giáo dục đào tạo Nguyễn Thiện Nhân : lý luận chính trị cao cấp, giáo sư kinh tế, tiến sĩ điều khiển học, thạc sĩ quản lý cộng đồng. -Uỷ ban nhân dân thành phố hồ chí minh: Chủ tịch UBND Lê Hoàng Quân : cử nhân luật, cử nhân chính trị. Phó chủ tịch UBND Nguyễn Thánh Tài : cao học quản trị kinh doanh, cử nhân chính trị. Nguyễn Trung Tín: cử nhân chính trị, cử nhân kinh tế. Nguyễn Hữu Tín: thạc sĩ kinh tế. cao học lý luận chính trị. Nguyễn Thị Hồng: cử nhân luật, cử nhân chính trị, thạc sĩ quản trị kinh doanh. Nguyễn Thị Thu Hà: cử nhân hoá thực phẩm, thạc sĩ kinh tế, thạc sĩ quản lý nhà nước. 1.4.Công tác nhân viên a) Tuyển dụng. Thủ trưởng cơ quan chỉ đạo tổ chức thực hiện công tác đào tạo tuyển dụng sử dụng cán bộ công chức viên chức thuộc phạm vi quản lý của mình Việc tuyển công chức trong các cơ quan hành chính phải được thực hiện bằng thi tuyển.Hội đồng thi tuyển hoặc hội đồng tuyển dụng do người đứng đầu cơ quan quyết định thành lập.Chủ tịch hội đồng là người đứng đầu cơ quan hoặc cấp phó của người đứng đầu cơ quan. Các thành viên khác là đại diện lãnh đạo các bộ phận chuyên ngành hoặc công chức phụ trách công tác tuyển dụng làm việc theo nguyên tắc tập thể. Tuy nhiên số lượng biên chế là do thủ trưởng cơ quan cấp trên phân bổ: thường là bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang bộ phân bổ. b)Khen thưởng. Thủ trưởng các cơ quan có trách nhiệm tổ chức, chỉ đạo,xây dựng phong trào thi đua ở đơn vị thuộc quyền mình quản lý. Theo định kỳ phải có trách nhiệm xem xét, đánh giá, xét chọn tập thể để khen thưởng hoặc đề nghị cấp trên xét khen thưởng. Công tác khen thưởng động viên được xác định là một bộ phận trong công tác điều hành quản lý, là một trong những nhiệm vụ của thủ trưởng các ngành, cấp. 2.So sánh với các tổ chức khác. Các tổ chức khác cũng có hai chế độ lãnh đạo như trên, áp dụng chế độ nào là còn tuỳ thuộc vào tổ chức đó. Khác nhau cơ bản trong việc lãnh đạo các tổ chức là ở phương thức thực hiện. Hầu hết các tổ chức đều sử dụng hình thức đưa ra các văn bản, quy chế làm việc, thông qua đó chỉ đạo hoạt động của cấp dưói. Nhưng trong các tổ chức chính trị xã hội (Hội cựu chiến binh, hội nông dân Việt Nam, tổng liên đoàn lao động Việt Nam, Uỷ ban TW mặt trận tổ quốc Việt Nam…) thì phương thức lãnh đạo là đưa ra các gương điển hình và các danh hiệu vinh dự để khuyến khích sự hoạt động của các thành viên. 3.Thực trạng hiện nay và giải pháp về vấn đề lãnh đạo trong các cơ quan hành chính. 3.1.thực trạng 3.1.1.Đối với những cơ quan kết hợp chế độ tập thể lãnh đạo và chế độ một thủ trưởng (Chính phủ và UBND các cấp) thì có một số đặc điểm sau. Ưu điểm. Đối với những vấn đề chính có sự bàn bạc nhất trí của các thành viên trong tổ chức nên tạo động lực cho các thành viên hoàn thành nhiệm vụ. Các quyết định mang tính khách quan và đúng đắn, hợp lý hơn. Phân công công việc cho các thành viên cũng dễ dàng hơn, khả năng hoàn thành của các thành viên là rất lớn vì họ là người thực sự ra quyết định đó nên có tâm huyết để hoàn thành nó. Đối với những vấn đề thược thẩm quyền của người tổ chức thì họ sẽ là người ra quyết định cuối cùng và chịu trách nhiệm về các quyết định đó. Ưu điểm của hình thức này là các quyết định đưa ra một cách nhanh chóng, kịp thời điều chỉnh những vấn đề cấp bách và khẩn cấp. Nhược điểm. Đối với những vấn đề tập thể lãnh đạo thì không phân định được trách nhiệm một các rõ ràng. Nếu ra các quyết định đúng đắn, có thành tích thì nhận về mình, còn nếu thiếu sót thì đùn đẩy trách nhịêm cho người khác. Ngoài ra còn tồn tại một vấn đề nữa đó là có những thành viên trong tổ chức bàng quan với những vấn đề của tổ chức, thấy người khác đưa ra ý kiến thì chỉ biết giơ tay tán thành mà không hề phân tích hay hiểu xem ý kiến đó có phù hợp và mang lại hiệu quả hay không? Họ làm việc theo phương trâm “thứ nhất ngồi lỳ thứ nhì đồng ý” và không hề hoặc rất ít khi đưa ra ý kiến gì để đóng góp cho tổ chức nhằm giúp cho tổ chức đưa ra được các quyết định đúng đắn. Vì những nguyên nhân trên mà quyết định theo số đông cũng chưa chắc đã là quyết định đúng đắn nhất và mang lại hiệu quả cao nhất cho tổ chức. Đối với những vấn đề thuộc thẩm quyền của người lãnh đạo, do người lãnh đạo quyết định, nó mang ý chí chủ quan. Nó sẽ là quyết định đúng đắn nếu người ra quyết định thực sự hiểu rõ về vấn đề đặt ra còn nếu không thì sẽ dẫn đến việc ra các quyết định sai lầm. 3.1.2. Đối với các cơ quan hành chính theo chế độ một thủ trưởng (Các Bộ và cơ quan ngang bộ, các cơ quan chuyên môn trực thuộc UBND các cấp). Ưu điểm. Đối với hầu hết các vấn đề thì trách nhiệm được phân định một cách rõ ràng, người chịu trách nhiệm cuối cùng là các bộ trưởng và thủ trưởng cơ quan ngang bộ. Nhược điểm. Khi một bộ ra văn bản có động chạm đến ngành thuộc lĩnh vực của các Bộ khác phải có sự đồng thuận và nhất trí của các bộ đó. Vì vậy khi cần quyết định một vấn đề gì đó thì phải thông qua rất nhiều cửa vì thế cho nên sẽ làm chậm trễ việc thực hiện và có thể sẽ gây ra hậu quả lớn. Khi gây ra hậu quả lớn thì lại không phân định được trách nhiệm rõ ràng, bộ này đổ lỗi cho bộ kia . Chế độ một thủ trưởng trong các bộ và cơ quan ngang bộ cũng dễ dẫn tới tình trạng chuyên quyền tức là người lãnh đạo không hề tham khảo ý kiến của các thành viên trong tổ chức mà tự mình ra quyết định. Nếu quyết định đó là đúng đắn thì giúp cho tổ chức phát triển nhưng ngược lại nó sẽ mang đến hậu quả khó lường vì nó là ý kiến chủ quan của người lãnh đạo nên không thể bao quát hết mọi vấn đề. 3.1.3. Quản lý. Ngoài ra vấn đề quản lý hành chính có hiệu quả cũng đang được quan tâm. “Quyết định số 144 /QĐ-TTg của thủ tướng chính phủ về việc áp dụng hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn TCVN ISO 9001:2000 vào hoạt động của các cơ quan hành chíh nhà nước được đưa ra với mục tiêu hướng tới việc xây dựng và thực hiện quy trình xử lý công việc hợp lý, phù hợp với quy định của ogáo kyâth , từng bước nâng cao chất lượng và hiệu quả của công tác quản lý và cung cấp dịch vụ công. Sau gần một năm triển khai thực hiện quyết định này, đã có gần 170 cơ quan hành chính trên gần 40 tỉnh, thành phố thực hiện áp dụng hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn TCVN ISO 9001:2000 cho một hoạc nhiều chức năng, nhiệm vụ của đơn vị. Một trong những nội dung của việc triển khai áp dụng hệ thống quản lý chất lượng theo ISO 9000 là phải hiểu và thực thi tám nguyên tắc quản lý chất lượng trong quá trình vận hành hệ thống quản lý chất lượng của mình.Ba nguyên tắc đầu tiên là trọng tâm hướng vào khách hàng; định hướng của lãnh đạo; sự tham gia của mọi thành viên Quá trình triển khai hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu này cũng được vẫn vấp phải một số khó khăn chủ quan và khách quan: có trở lực trong thay đổi nhận thức, thói quen, nề nếp làm việc, khó khăn về cơ sở vật chất, thiếu cơ chế khuyến khích gẵn năng suất hiệu quả với quyền lợi vật chất của cán bộ công chức;chưa hiểu rõ bản chất của việc áp dụng mô hình quản lý chất lượng theo ISO 9000 trong lĩnh vực hành chính. Từ đó dẫn đến tồn tại phổ biến đó là không có định hướng rõ ràng về phạm vi áp dụng của hệ thống và không chú trọng đến việc thực hành các nguyên tắc quản lý chất lượng tốt mà bộ tiêu chuẩn ISO 9000 đã đề cập. 3.2.Giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả lãnh đạo trong cơ quan hành chính. Sự tập trung, thống nhất quyền lực là một nguyên tắc, thuộc tính của quản lý hành chính nhà nước, nếu không sẽ không bảo đảm được sự thống nhất trong điều hành, chỉ huy hoạt động công vụ. Từ góc độ hành chính, người đứng đầu cơ quan nhà nước là người chỉ huy, điều hành các công việc có tính hành chính trong cơ quan nhà nước, để thực thi các nhiệm vụ, công vụ của cơ quan đó. Chính điều đó đòi hỏi phải phân định rõ nhiệm vụ, quyền hạn của tập thể và cá nhân người đứng đầu cơ quan.Pháp luật nước ta hiện nay đã đi theo hướng tăng dần quyền hạn của người đứng đầu cơ quan hành chính nhà nước - cơ quan thẩm quyền chung (Chính phủ, ủy ban nhân dân các cấp). Đối với cơ quan làm việc theo chế độ một thủ trưởng thì người đứng đầu cơ quan có toàn quyền quyết định mọi vấn đề của cơ quan. Tuy vậy, trên thực tế thường có tình trạng dường như mọi vấn đề đều được đưa ra bàn luận tập thể. Tình trạng đó tất yếu dẫn đến hệ quả là: nếu mọi công việc trôi chảy, thành công thì đó là công lao của người đứng đầu cơ quan, nhưng khi có "vấn đề" thì đó là trách nhiệm của tập thể. Nhưng mặt khác cũng có hiện tượng, việc được đưa ra bàn luận chỉ là hợp thức hóa những quyết định chuyên quyền của người đứng đầu cơ quan. Do đó, trong điều hành công vụ, đòi hỏi phải đề cao vai trò của người đứng đầu cơ quan, đồng thời cần phải xác định trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan nhà nước và người đứng đầu các bộ phận trong cơ quan đó. Việc hoàn thiện chế độ công vụ cần phải hướng tới xây dựng chế độ phân định rõ nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của tập thể và trách nhiệm cá nhân của người đứng đầu cơ quan, đơn vị trong cơ quan nhà nước IV. CHỨC NĂNG KIỂM TRA 1. Đặc điểm của chức kiểm tra Nhà nước ta, ngay từ đầu đã xem trọng cơ chế kiểm tra, đặc biệt kiểm tra trong các cơ quan hành chính nhà nước. Tầm quan trọng và tính hữu hiệu của cơ chế kiểm tra cũng hình thành và phát triển dần theo đà phát triển của tư tưởng Nhà nước pháp quyền. Tính chất quan trọng của kiểm tra được thể hiện ở cả hai mặt.Một mặt kiểm tra là công cụ quan trọng để nhà quản trị phát hiện ra những sai sót và có biện pháp điều chỉnh.Mặt khác, thông qua kiểm tra, các hoạt động sẽ được thực hiện tốt hơn và giảm bớt được sai sót có thể nảy sinh Bất cứ một sự quản lý nào, công hay tư, thuộc lĩnh vực nào cũng phải có kiểm tra, là một khâu không thể thiếu được trong công nghệ quản lý.Quản lý nhà nước,hơn đâu hết lại càng cần có kiểm tra. 1.1.Nội dung của kiểm tra 1.1.1.Phạm vi kiểm tra Cơ chế kiểm tra của nhà nước, đặc biệt là kiểm tra trong các cơ quan hành chính,chỉ nói riêng sự kiểm tra đối với các quyết định và hành vi của bản thân nhà nước (tức là nhà nước tự kiểm tra nhà nước) cũng bao gồm một phạm vi rất rộng: -Kiểm tra tính hợp hiến, kiểm tra tính hợp pháp, kiểm tra tính hợp lý, kiểm tra tính hiệu quả; -Kiểm tra văn bản, kiểm tra hành vi ; -Kiểm tra chính trị, kiểm tra hành chính, kiểm tra tư pháp, kiểm tra chuyên môn kỹ thuật; -Kiểm tra của cấp trên đối với cấp dưới trong hệ thống thứ bậc; kiểm tra của các cơ quan xét xử tư pháp ; -Kiểm tra việc thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ được giao của các cơ quan, đơn vị, cá nhân trong các cơ quan hành chính. Tuỳ theo bản chất, đối tượng, chủ thể kiểm tra và tổ chức kiểm tra, chúng ta đã dùng những thuật ngữ khác nhau để chỉ sự kiểm tra: kiểm tra, thanh tra, kiểm sát, giám sát. Kiểm tra hành chính là kiểm tra nội bộ các cơ quan hành chính,cơ quan cấp trên kiểm tra cơ quan hành chính và nhân viên dưới quyền, xử lý theo thứ tự hành chính và mang tính chất hành chính với các hình thức kỉ luật hành chính . Thanh tra vừa có tính chất và đặc điểm của kiểm tra như nói trên, nhưng nó khác là thanh tra mang tính chất nhà nước, do một tổ chức thường xuyên hay lâm thời mang tính quyền lực nhà nước,do một cơ quan có thẩm quyền đặt ra và giao cho quyền hạn thanh tra. Cơ quan kiểm sát thực hiện chức năng công tố và đưa ra truy tố trước toà án để xét xử hoặc những vụ kiệm nhân sự về mối quan hệ tư nhân vói tư nhân, tức là quan hệ dân sự giữa công dân với nhau hoặc là về những vụ án hình sự của người công dân có những tội liên quan đến nền an ninh quốc gia 1.1.2.Một số nội dung kiểm tra cụ thể. *)Kiểm tra cải cách hành chính với một số nội dung chủ yếu sau a ,Việc chỉ đạo, điều hành triển khai công tác CCHC thuộc phạm vi trách nhiệm của UBND huyện, thị, Sở ngành về thực hiện chủ trương, kế hoạch cải cách hành chính năm 2006 và 2007, Chỉ thị 32/2006/CT-TTg ngày 7/9/2006 của Thủ tướng Chính phủ về một số biện pháp cần làm ngay để chấn chỉnh kỷ luật, kỷ cương giải quyết công việc của dân và doanh nghiệp. b,Kiểm tra việc tiến hành các nội dung, giải pháp CCHC cụ thể như: +Cải cách thể chế: - Nâng cao chất lượng xây dựng văn bản quy phạm pháp luật; kỷ luật, kỷ cương triển khai các văn bản quy phạm pháp luật. - Kết quả rà soát thủ tục hành chính và áp dụng thủ tục hành chính, thực hiện cơ chế “một cửa” ở từng cấp hành chính. - Kết quả xử lý các vướng mắc, kiến nghị của cá nhân, tổ chức trong việc thực hiện cơ chế , chính sách nhà nước và giải quyết thủ tục hành chính. +Các biện pháp và kết quả cải cách tổ chức bộ máy: - Tổ chức thực hiện vai trò chức năng, nhiệm vụ, sắp xếp tăng cường năng lực hoạt động của bộ máy, của hệ thống hành chính, việc phân công, phân cấp. - Các biện pháp và kết quả nâng cao năng lực tổ chức hoạt động, cải cách lề lối làm việc, đổi mới phương thức vận hành. +Các biện pháp nâng cao chất lượng cán bộ công chức, viên chức - Việc tăng cường trách nhiệm của người đứng đầu. - Xây dựng và khai thác hệ thống dữ liệu về cán bộ công chức. - Công tác đào tạo, bồi dưỡng, chuẩn hoá trình độ cán bộ công chức, viên chức. +Cải cách tài chính công: - Thực hiện Nghị định số 130/2005/NĐ-CP ngày 17/10/2005 của Chính phủ về quy định chế độ tự chủ, tự chịu trách nhiệm về sử dụng biên chế và kinh phí quản lý hành chánh đối với các cơ quan quản lý Nhà nước. - Thực hiện Nghị định số 43/2006/NĐ-CP ngày 25/4/2006 về quy định quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế và tài chính đối với đơn vị sự nghiệp công lập. - Việc quản lý ngân sách, tài chính (trong đó có quản lý thu, chi phí, lệ phí) - Các biện pháp tăng cường thực hiện quản lý ngân sách, tài chính; chống tham nhũng, lãng phí. +Hiện đại hóa nền hành chính Nhà nước: - Các biện pháp và kết quả triển khai các nội dung đổi mới phương thức vận hành tổ chức bộ máy, hệ thống hành chính (chỉ đạo, điều hành, xây dựng chất lượng thông tin, khai thác dữ liệu, ứng dụng tin học, tin học hoá quản lý, áp dụng hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn ISO, các biện pháp giảm giấy tờ, hội họp...) - Kết quả tăng cường, hiện đại hoá một bước về trụ sở, trang thiết bị của cơ quan và UBND cấp huyện, cấp xã. - Xây dựng văn minh công sở, công vụ.  *)Kiểm tra công tác văn thư lưu trữ a,Căn cứ kiểm tra: Việc kiểm tra chéo công tác văn thư, lưu trữ năm 2007 giữa các Bộ, ngành được thực hiện căn cứ vào những văn bản sau: - Các văn bản quy phạm pháp luật và văn bản hướng dẫn nghiệp vụ khác của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền về công tác văn thư, lưu trữ; - Văn bản số 66/VTLTNN-NVTW ngày 09 tháng 02 năm 2006, số 56/VTLTNN-NVTW ngày 26 tháng 01 năm 2007 của Cục Văn thư và Lưu trữ nhà nước hướng dẫn phương hướng nhiệm vụ công tác văn thư, lưu trữ năm 2006 và năm 2007 của các cơ quan, tổ chức trung ương. b,Nội dung kiểm tra: Nội dung kiểm tra chéo công tác văn thư, lưu trữ tập trung vào các lĩnh vực: công tác quản lý văn thư, lưu trữ; các hoạt động nghiệp vụ văn thư và hoạt động nghiệp vụ lưu trữ từ tháng 6/2005 đến tháng 6/2007. Các nội dung trên được cụ thể hoá thành 10 chỉ tiêu; tương ứng với mỗi chỉ tiêu là khung điểm để đánh giá, chấm điểm *)Kiểm tra thi hành luật đất đai a,Kiểm tra tình hình chỉ đạo triển khai thi hành Luật Đất đai tại địa phương -Kiểm tra việc ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về đất đai của địa phương để thi hành Luật Đất đai và các Nghị định của Chính phủ. -Kiểm tra việc phổ biến, giáo dục pháp luật về đất đai. b,Kiểm tra về thực hiện quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất -Kiểm tra việc lập mới, điều chỉnh, trình, xét duyệt quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất giai đoạn 2006 - 2010 của cấp tỉnh, cấp huyện, cấp xã theo quy định của Luật Đất đai. -Kiểm tra việc thực hiện quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, xử lý quy hoạch "treo". -Phát hiện những vướng mắc cần tháo gỡ trong quá trình thực hiện quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất. c,Kiểm tra về tình hình cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ở tại đô thị và nông thôn -Kiểm tra về kết quả cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. -Kiểm tra việc thực hiện trình tự, thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, việc trao giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã ký cho người sử dụng đất. -Kiểm tra hồ sơ địa chính gắn với việc cấp, chỉnh lý giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. -Phát hiện những vướng mắc, đề xuất giải quyết những vướng mắc trong quá trình cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. d,Kiểm tra về thực hiện thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư -Kiểm tra việc thu hồi đất theo quy định tại Điều 38 của Luật Đất đai. -Kiểm tra việc thực hiện bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất. -Những vướng mắc và hướng khắc phục. e,Kiểm tra về tình hình giải quyết tranh chấp đất đai, khiếu nại, tố cáo về đất đai -Kiểm tra việc giải quyết tranh chấp đất đai. -Kiểm tra việc giải quyết khiếu nại về đất đai, tố cáo liên quan đến quản lý, sử dụng đất. -Những vướng mắc và hướng khắc phục. *)Kiểm tra việc thực hiện tiết kiệm,chống lãng phí a) Kiểm tra việc thực hiện các quy định quản lý của cơ quan nhà nước có thẩm quyền có liên quan đến thực hành tiết kiệm, chống lãng phí như: quản lý sử dụng trụ sở làm việc, phương tiện đi lại, trang thiết bị làm việc, điện, nước, điện thoại, quản lý sử dụng lao động, thời gian lao động… b) Kiểm tra việc quản lý ngân sách nhà nước, tiền, tài sản nhà nước, tài nguyên thiên nhiên theo quy định của Luật thực hành tiết kiệm, chống lãng phí. c) Kiểm tra việc thực hiện mục tiêu, biện pháp, kế hoạch thực hành tiết kiệm, chống lãng phí trong Chương trình thực hành tiết kiệm, chống lãng phí hàng năm và dài hạn (nếu có). 1.2.Chủ thể kiểm tra Nhà nước xác định nội dung cần kiểm tra sau đó chọn những trọng điểm kiểm tra là những bộ phân trọng yếu , chia nhỏ thành các cụm kiểm tra và chỉ định một bộ phận đi kiểm tra Thành phần đoàn kiểm tra của mỗi cụm gồm: -Cụm trưởng : Đại diện lãnh đạo Văn phòng phụ trách công tác cần kiểm tra của các bộ ngành được chỉ định làm cụm trưởng -Thành viên của đoàn kiểm tra gồm: Đại diện lãnh đạo văn phòng và một số cán bộ làm về công tác cần kiểm tra của các bộ ngành - Thư ký đoàn kiểm tra: là một thành viên được cụm trưởng chỉ định trong số cán bộ phụ trách về công tác cần kiểm của các bộ ngành Nhà nước cũng có thể giao việc kiểm tra cho chủ tịch uỷ ban nhân đân có trách nhiệm tổ chức kiểm tra tại địa phương mình theo đúng mục đích, yêu cầu, nội dung kiểm tra.Chủ tịch uỷ ban nhân dân tự thành lập các đoàn kiểm tra gồm đại diện các sở tài nguyên môi trường, tài chính vật giá, kế hoạch và đầu tư, xây dựng tư pháp, và thanh tra nhà nước cấp tỉnh. Hoặc chủ tịch uỷ ban nhân dân các tỉnh thành giao viêc kiểm tra cho các sở ban ngành trong tỉnh kiểm tra thường xuyên với những nội dung đặc biệt(tiết kiệm,chống lãng phí) 1.3.Trình tự tiến hành kiểm tra: Căn cứ vào các chỉ tiêu kiểm tra, các Bộ, ngành tự kiểm tra, đánh giá, chấm điểm và gửi báo cáo về đơn vị kiểm tra. Sau khi thỏa thuận thống nhất với các Bộ, ngành trong cụm, cụm trưởng có văn bản thông báo chính thức về thời gian kiểm tra tại từng Bộ, ngành; thời gian, địa điểm tổng kết kiểm tra toàn cụm gửi cho Bộ, ngành trong cụm và gửi cho đơn vị cấp trên Chương trình làm việc chung như sau: - Cụm trưởng giới thiệu về mục đích, nội dung kiểm tra và thành phần đoàn kiểm tra; - Đại diện lãnh đạo Văn phòng Bộ, ngành trình bày báo cáo tự đánh giá, chấm điểm kết quả thực hiện các chỉ tiêu; - Đoàn kiểm tra tiến hành kiểm tra thực tế công tác cần kiểm tra tại Văn phòng Bộ, ngành và một số đơn vị trực thuộc; - Đoàn kiểm tra họp thảo luận, thống nhất chấm điểm theo từng chỉ tiêu và điểm chung cho từng Bộ, ngành; - Thông qua biên bản kiểm tra tại Bộ, ngành; - Cụm trưởng tổng hợp kết quả kiểm tra công tác cần kiểm tra chung của toàn cụm và gửi hồ sơ về cho cơ quan cấp trên Hồ sơ gửi về cơ quan cấp trên gồm: + Báo cáo tổng hợp kết quả kiểm tra chéo công tác cần kiểm tra của cụm trưởng + Bảng điểm tổng hợp kết quả kiểm tra chéo của Cụm + Báo cáo kết quả tự kiểm tra của từng đơn vị trong cụm + Kết quả thực hiện các chỉ tiêu kiểm tra của từng đơn vị trong cụm *)Hình thức kiểm tra Trong cơ quan hành chính nhà nước sử dụng hình thức kiểm tra chủ yếu là kiểm tra sau. Để xem xét việc thực hiện có đúng theo kế hoạch hay không , đúng theo những văn bản pháp luật mà nhà nươc đề ra hay không 2. So sánh với các tổ chức có tư cách pháp nhân khác 2.1.So sánh với cơ quan sự nghiệp và thu Cơ quan sự nghiệp và thu cùng lằm trong phần cơ quan thuộc chính phủ nhưng hoạt động của nó có phần khác cơ quan hành chính nhà nước là có thu và có phần độc lập về tài chính hơn nên công tác kiểm tra cũng có phần khác cơ quan hành chính nhà nước. Việc kiểm tra không phụ thuộc vào sự chỉ đạo của cấp trên nhiều như cơ quan hành chính,mà có phần chủ động hơn. -Nội dung kiểm tra:Không chỉ gồm những nội dung như cơ quan hành chính mà còn có những nội dung khác về vấn đề thu chi và sử dụng những khoản thu chi đó xem có hợp lý không,có mang lại hiệu quả không. -Chủ thể kiểm tra:Chủ thể kiểm tra rộng hơn cơ quan hành chính nhà nước.Trước tiên cũng là các cơ quan cấp trên kiểm tra hoặc đoàn do cấp trên chỉ định.Ngoài ra ngay trong cơ quan sự nghiệp và thu cũng có thể thành lập ban kiểm tra riêng. -Trình tự kiểm tra:Nếu do câp trên kiểm tra thì trình tự vẫn thế .Nhưng nếu do chính cơ quan hay thủ trưởng mình kiểm tra thì trình tự sẽ đơn giản hơn. 2.2.So sánh với các tổ chức Tổ chức và cơ quan nhà nước đều là các cơ quan không hoạt động vì mục tiêu lợi nhuận .Mặc dù vậy về kiểm tra cũng có một số điểm khác nhau. -Nội dung kiểm tra chủ yếu là kiểm tra kế hoạch chương trình hoạt động theo kế hoạch. -Chủ thể kiểm tra :Thường các lãnh đạo các ban,các vụ trưởng giám đốc,chánh văn phòng và các cấp quản lý khác phải đi kiểm tra cac phòng ban bộ phận của mình đảm trách. -Hình thức kiểm tra:Chủ yếu là kiểm tra trước khi hoạt động. 2.3.So sánh với các doanh nghiệp Doanh nghiệp hoạt động vì mục tiêu lợi nhuận cho nên chưc năng kiểm tra cua quản trị có những đặc điểm khác so với cơ quan hành chính nhà nước. -Nội dung: Vì mục tiêu là lợi nhuận do đó nội dung kiểm tra chủ yêu của các doanh nghiệp là kiểm tra quy trình hoạt động của doanh nghiệp và kết quả cuối cùng là lợi nhuận xem có đạt được như kế hoạch, mục tiêu ban đầu hay không. -Chủ thể kiểm tra của các doanh nghiệp thì có thể do bộ phận riêng kiểm tra và cũng có thể do chính những nhà quản trị kiểm tra tuỳ thuộc vào quy mô của doanh nghiệp. -Hình thức kiểm tra:thường kết hợp cả kiểm tra trước hoạt động xem kế hoạch đã hoàn chỉnh chưa,trong quá trình hoạt động có đúng theo kế hoạch không và cuối cùng là lợi nhuận có như mục tiêu đề ra hay không. 3.Thực trạng và giải pháp của công tác kiểm tra 3.1.Thực trạng của công tác kiểm tra Nước ta đang trong quá trình hội nhập kính tế quốc tế, các cơ quan hành chính càng cần chấn chỉnh hoạt động của mình sao cho hiệu quả nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho nền kinh tế phát triển.So với các nước trên thế giới thì cơ quan hành chính của nước ta còn rất nhiều điểm yếu mà đặc biệt là vấn đề tham nhũng cửa quyền của một số cán bộ thoái hoá biến chất.Từ đó mới thấy hết tầm quan trọng của kiểm tra trong cơ quan hành chính.Những sai phạm trong cơ quan hành chính không chỉ ảnh hưởng đến một bộ phận mà ảnh hưởng đến nhiều bộ phận, nhiều vấn đề của đất nước .Trong những năm gần đây,tuy kiểm tra trong cơ quan hành chính nhà nước đã phần nào đạt được những mục đích của kiểm tra đó là phát hiện những sai sót,tìm kiếm nguyên nhân và tìm cách sửa chữa, khắc phục những sai sót đó. Nhưng thực trạng của công tác kiểm tra trong cơ quan này vẫn còn nhiều hạn chế. -Công tác kiểm tra còn mang tính hình thức chưa thực sự thể hiện rõ bản chất của kiểm tra.Chưa đi sâu vào mục tiêu cụ thể còn mang tính hời hợt qua loa. -Chủ thể kiểm tra còn tồn tại một số cán bộ thiếu liêm khiết , thiếu trung thực bao che cho nhau theo đây truyền từ trên xuống dưới để gian lận bòn rút tiền của của nhân đân.Nhìn chung các cán bộ kiểm tra còn thiếu kinh nghiệm kiểm tra,năng lực chuyên môn còn chưa tốt nên chưa phát hiện ra những sai sót,gian lận trọng yếu. -Trình tự kiểm tra còn nhiều bước rườm rà mà không chú trọng vào trọng điểm dẫn đến lãng phí thời gian, tiền của, sức lực mà hiệu quả chưa cao. -Kiểm tra còn mang tính hành chính kiểm tra hành chính, cầp trên kiểm tra cấp dưới.Và công tác xử lý vi phạm trong cơ quan hành chính còn nhẹ mang tính chất xử lý theo thứ tự hành chính,với các hình thức kỷ luật hành chính.Chưa có kết quả trong việc ngăn ngừa hành vi sai phạm. 3.2.Giải pháp nâng cao hiệu quả kiểm tra Từ thực trạng của công tác kiểm tra trong cơ quan hành chính nhà nước chúng ta phải có những giải pháp thiết thức nhằm hạn chế những điểm yếu đó để công tác kiểm tra của nhà nước có được những kết quả cao,xứng đáng với tầm quan trọng của nó.Ta phải tăng cường kiểm tra hơn nữa với những nội dung quan trọng có thể tiềm ẩn nhiều sai phạm. Phải tăng cường giáo dục đào tạo cán bộ đủ đức, đủ tài làm công tác kiểm tra.Giảm bởt thủ tục rườm rà, đi sâu vào công tác kiểm tra nhằm đạt hiệu quả cao.Và có những hình thừc sử lý nặng hơn nhằm ngăn ngừa những sai phạm. Đưa ra những loại hình kiểm tra mới ưu việt hơn, hiệu quả hơn. Có thể kể đến ở đây là loại hình kiểm tra tài phán hành chính là một loại hình kiểm tra mới có rất nhiều ưu việt và cần được áp dụng rộng rãi. -Cơ quan tài phán hành chính không nằm trong hệ thống hành chính điều hành ,kiểm tra cơ quan hành chính điều hành của nhà nước.Nó là bộ phận độc lập riêng hẳn.Do đó ngăn ngừa được hiện tượng cấp trên bao che cho cấp dưới theo dây truyền từ đó ngăn chăn được những gian lận đáng kể hiện nay.Không còn hiện tượng cấp trên bao che cho cầp dưới để lây thành tích cho ngành cho tỉnh. -Nếu như hiện nay kiểm tra còn xử lý theo thứ tự hành chính,kỉ luật hành chính thì cơ quan tài phán hành chính xử lý theo trình tự tố tụng và xét xử thưo phán quyết của toà án.Do đó nâng cao hình thức xử phạt các sai phạm nên có thể ngăn ngứa những sai phạm và sử lý đích đáng những người gây ra sai phạm. -Cơ quan tài phán hành chính chỉ kiểm tra tính hợp pháp của những văn bản,và hành vi hoạt động của các đơn vị được kiểm tra xem có hợp pháp không.Như thế nó sẽ tập trung hơn vào một lĩnh vực kiểm tra nên kiểm tra hiệu quả hơn. Vậy loại hình kiểm tra tài phán hành chính là một trong những loại hình mới cần được áp dụng rộng rãi.Dể ngày càng nâng cao hơn nữa hiệu quả của công tác kiểm tra trong cơ quan hành chính nhà nước.Hạn chế một cách thấp nhất những hành vi tham nhũng, cửa quyền của một số cán bộ,hạn chế những sai sót trọng yếu đẫn đến những quyết định sai phạm lớn tổn hại tiền của của nhân đân, thiệt hại về nhiều mặt của đất nước. Kết luận:Cơ quan hành chính là cơ quan quản lý đất nươc nó tác động trực tiếp đến nhiều mặt của đất nước do đó cần phải quản trị nó một cách đúng đắn hợp lý hiệu quả để góp phần đẩy mạnh sự phát triển của đất nước. Nhất là nước ta đang trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế,muốn cho quá trình hội nhập nhanh, hiệu quả .Muốn thu hút đầu tư nước ngoài thì phải có những cơ chế thông thoáng hơn, thủ tục bớt rườm rà để khuyến khích nhà đầu tư nước.Việt Nam là điểm đến của thế giới, là một nước hoà bình , chính trị ổn định đó là một lợi thế rất lớn và lợi thế càng lớn hơn khi các thủ tục hành chính Việt Nam được tinh giảm tạo điều kiện thuận lợi thu hút đầu tư góp phần phát triển đất nước.Bên cạnh đó các doanh nghiệp trong nước cũng ngày càng phát triển về cả số lượng và chất lượng.Các thủ tục hành chính phải cải thiện làm sao để khuyến khích sự phát triển kinh tế trong nước. Để có được những cải cách tốt, hiệu quả thì một trong yếu tố tác động là công tác quản trị trong cơ quan hành chính.Có quản trị tốt cơ quan hành chính mới làm việc hiệu quả và cho ra những “sản phẩm” tốt phục vụ nhân dân.Mà muốn quản trị tốt thì phải thực hiện tốt bốn chức năng của quản trị đó là: lập kế hoạch, tổ chức, lãnh đạo, kiểm tra.Các chức năng này phối hợp với nhau một cách hiệu quả, đồng thời thể hiện được mục tiêu của mình thì chắc chắn công tác quản trị sẽ hiệu quả.Cái tâm của quản trị chính là bốn chức năng,nói đến công tác quản trị ta luôn quan tâm đến việc thực hiện các chức năng của nó.Chính vì lẽ đó mà bài làm của chúng em đã nhấn mạnh vào bốn chức năng của quản trị trong cơ quan hành chính nhà nước.Từ việc phân tích các chức năng, sự thể hiện của nó trong cơ quan hành chính nhà nước, thực trạng thực hiện các chức năng này như thế nào,so sánh với các cơ quan đơn vị khác và đưa ra kiến nghị, giải pháp khắc phục những mặt chưa được và phát huy hơn nữa những mặt đã được.Chúng em mong rằng bài viết của chúng em có thể đóng góp một phần nhỏ bé để người đọc có thể hiểu thêm về quản trị nói chung và quản trị trong cơ quan hành chính nói riêng.Bài viết tuy đã được sự gợi ý rất nhiệt tình của thầy giáo,sự đồng lòng nhất trí của các thành viên trong nhóm.Nhưng do hạn chế về trình độ nên chắc chắn sẽ không tránh khỏi những sai sót.Mong bạn đọc thông cảm và cho ý kiếm đóng góp để chúng tôi hoàn thiện bài viết của mình hơn.Nhóm chúng em xin chân thành cảm ơn! .TRẢ LỜI MỘT SỐ CÂU HỎI CỦA THẦY GIÁO CÂ U 1.phân biệt cơ quan hành chính nhà nước với đơn vị sự nghiệp có thu - Cơ quan hành chính nhà nước là một loại cơ quan trong bộ máy nhà nước được thành lập theo hiến pháp và pháp luật, để thực hiện quyền lực nhà nước, có chức năng quản lý hành chính nhà nước trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. - Đơn vị sự nghiệp có thu là đơn vị do nhà nước thành lập, hoạt động có thu trong các lĩnh vực giáo dục đào tạo, y tế, khoa học công nghệ và môi trường, văn hóa thông tin, thể dục thể thao, sự nghiệp kinh tế, dịch vụ, việc làm, kể cả các đơn vị sự nghiệp có thu trực thuộc các tổng công ty đang thực hiện chế độ hành chính sự nghiệp +Cả Cơ quan hành chính nhà nước v à Đơn vị sự nghiệp có thu cũng mang đầy đủ các đặc điểm chung của các cơ quan nhà nước. -Một là, hoạt động mang tính quyền lực nhà nước, được tổ chức và hoạt động trên nguyên tắc tập trung dân chủ -Hai là, hoạt động dựa trên những quy định của pháp luật, có chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền nhất định và có những mối quan hệ phối hợp trong thực thi công việc được giao, có cơ cấu, tổ chức phù hợp với chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn do pháp luật quy định. -Ba là, được quyền đơn phương ban hành văn bản quy phạm pháp luật hành chính và văn bản đó có hiệu lực bắt buộc đối với các đối tượng có liên quan, có quyền áp dụng các biện pháp cưỡng chế đối với các đối tượng chịu sự tác động, quản lý Ngoài những đặc điểm chung nói trên , cơ quan hành chính nhà nước và Đơn vị sự nghiệp có thu có những điểm khác nhau : Một là, Cơ quan hành chính nhà nước có chức năng quản lý hành chính nhà nước, thực hiện hoạt động chấp hành và điều hành trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, trong khi Đơn vị sự nghiệp có thu chỉ tham gia vào hoạt động quản lý trong phạm vi, lĩnh vực nhất định v í d ụ : trường đại học kinh tế quốc dân hoạt động trong lĩnh vưc giáo dục. Chỉ các cơ quan hành chính nhà nước thực hiện hoạt động quản lý nhà nước trên tất cả các lĩnh vực: quản lý nhà nước về kinh tế, quản lý nhà nước về văn hoá, quản lý nhà nước về trật tự an toàn xã hội, quản lý xã hội,... Hai là, , Cơ quan hành chính nhà nước nói chung là cơ quan chấp hành, điều hành của cơ quan quyền lực nhà nước. Điều đó có nghĩa là cơ quan hành chính nhà nước chỉ tiến hành các hoạt động để chấp hành Hiến pháp, luật, pháp lệnh, nghị quyết của cơ quan quyền lực nhà nước trong phạm vi hoạt động chấp hành, điều hành của nhà nước. Đơn vị sự nghiệp có thu: Tạo ra sản phẩm hoặc dịch vụ bán được. Số thu được, 1 phần hoặc tất cả được phép sử dụng, phân bổ theo một cơ chế tài chính nào đó được quy định hoặc cho phép. Nói chung là có yếu tố kinh doanh trong đó. Ví dụ: TT chiếu film Quốc Gia là một đơn vị hành chính sự nghiệp có thu. Vốn xây dựng cơ sở vật chất do Nhà nước cấp, phục vụ sự nghiệp văn hoá, điện ảnh cho đất nước là chính. Về mặt bộ máy tổ chức, chính quyền thì chịu sự quản lý trực tiếp từ bộ văn hoá TT. Tiền bán vé được giữ lại theo 1 tỷ lệ để tự trang trải một phần chi phí hoạt động tự phát sinh mà được sự cho phép của Bộ. Tuy nhiên đa phần chi phí hoạt động vẫn là do Nhà nước cấp, kho bạc quản lý. Tóm lại là được giao một số quyền tự chủ trong hoạt động về mặt tài chính, kinh doanh. Câu 2:Cơ cấu trực tuyến chức năng là gì? Trả lời:Cơ cấu trực tuyến chức năng là một loại của cơ cấu tổ chức. Trước hết ta phải hiểu cơ cấu tổ chức là gì? Cơ cầu tổ chức là tổng hợp các bộ phận (đơn vị và cá nhân) có mối liên hệ và quan hệ phụ thuộc lẫn nhau, được chuyên môn hoá, có nhiệm vụ và quyền hạn nhất định, được bố trí theo những cấp, những khâu khác nhau, nhằm thực hiện các hoạt động của tổ chức và tiến tới mục tiêu chung Cơ cấu tổ chức được xét theo nhiều tiêu trí khác nhau.Nếu xét theo mối quan hệ được sử dụng thì cơ cấu trức năng được chia làm ba loại: cơ cầu tổ chức trực tuyến, cơ cấu tổ chức trực tuyến tham mưu, và cơ cấu trực tuyến chức năng.Trong đó cơ cấu trực tuyến chức năng được sử dụng phổ biến trong cơ quan hành chính.Một tổ chức có cơ cấu trực tuyến trức năng khi trong tổ chức sử dụng cả ba loại quyền hạn Quyền hạn trực tuyến: Là quyền hạn cho phép người quản trị ra quyết định và giám sát trực tiếp đối với cấp dưới Quyền hạn tham mưu: Bộ phận tham mưu đưa ra ý kiến tư vấn cho người quản trị trực tuyến mà họ có trách nhiệm phải quan hệ Quyền hạn chức năng: Là quyền trao cho một cá nhân ra quyết định và kiểm soát những hoạt động nhất định của các bộ phận khác. Như vây: Theo cơ cấu này người lãnh đạo cao nhất của tổ chức được sự giúp đỡ của những người lãnh đạo chức năng để chuẩn bị các quyết định, hướng dẫn và kiểm tra việc thực hiện các quy định. Người lãnh đạo của tổ chức vẫn chịu trách nhiệm mọi mặt công việc và toàn quyền quyết định trong phạm vi quyết định. Để có quyết định đúng đắn,người lãnh đạo trực tuyến sử dụng bộ phận tham mưu để giúp đỡ trong lĩnh vực riêng Có thể lấy ví dụ của cơ quan chính phủ Thủ tướng chính phủ là người điều hành chịu trách nhiệm về mọi hoạt động của chính phủ Giúp việc cho thủ tướng là các bộ trưởng, thứ trưởng các cơ quan ngang bộ. Đây là những người chuyên về ngành lĩnh vực do mình phụ trách, đây cũng là người cố vấn cho chính phủ. Câu hỏi 3: Cơ quan kiểm tra của Nhà nước độc lập với những cơ quan khác (làm nhiệm vụ kiểm tra các cơ quan của Nhà nước) là cơ quan nào ? - Cơ quan này độc lập với các cơ quan khác vì vậy có rất nhiều nhược điểm về hiệu quả của công tác kiểm tra . Hãy đưa ra giải pháp khắc phục nhược điểm đó. Trả lời : Nằm trong hệ thống các cơ quan hành chính Nhà nước cơ quan thanh tra là một bộ phận không thể thiếu . Mục đích của hoạt động thanh tra là phòng ngừa, phát hiện và xử lý các hành vi vi phạm pháp luật; phát hiện những sơ hở trong cơ chế quản lý, chính sách, pháp luật để kiến nghị với cơ quan nhà nước có thẩm quyền các biện pháp khắc phục; phát huy nhân tố tích cực; góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả của hoạt động quản lý nhà nước; bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân. Thanh tra bao gồm : thanh tra Nhà nước và thanh tra nhân dân . Trong đó thanh tra Nhà nước là việc xem xét, đánh giá, xử lý của cơ quan quản lý nhà nước đối với việc thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ của cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu sự quản lý theo thẩm quyền, trình tự, thủ tục được quy định trong pháp luật. Cơ quan thanh tra Nhà nước chính là cơ quan hành chính Nhà nước độc lập với các cơ quan khác và có nhiệm vụ chuyên đi kiểm tra việc thực thi pháp luật để từ đó có những biện pháp khắc phục hiệu quả nhất. Vì vậy hoạt động thanh tra Nhà nước nói riêng và hoạt động thanh tra nói chung có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong tổ chức bộ máy Nhà nước ta.Thực tế cho thấy, nếu không có hoạt động thanh tra, người lãnh đạo, cơ quan lãnh đạo quản lý không biết rõ việc chấp hành chính sách, pháp luật, các chỉ thị và chế độ công tác của các đơn vị và cá nhân thuộc quyền lãnh đạo, quản lý của mình, khó có được đầy đủ thông tin để đánh giá đúng tình hình, dự đoán đúng chiều hướng phát triển của những vấn đề trong thực tế quản lý nhà nước, quản lý kinh tế - xã hội; không phát hiện kịp thời để bổ sung, sửa đổi những sơ hở, thiếu sót trong cơ chế chính sách, pháp luật; không kịp thời uốn nắn, sửa chữa thiếu sót, khuyết điểm của cấp dưới… Do vậy, không thể tiến hành các hoạt động lãnh đạo, quản lý một cách chủ động và không ngừng nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước, quản lý kinh tế - xã hội. Kết quả là khó tránh khỏi thiếu sót, khuyết điểm trong công tác lãnh đạo quản lý. Từ đó cho thấy thanh tra là yêu cầu tất yếu của hoạt động lãnh đạo, quản lý. Có lãnh đạo, quản lý phải có thanh tra, muốn lãnh đạo, quản lý tốt phải có thanh tra. Theo quy định của Luật thanh tra, các cơ quan thanh tra nhà nước nằm trong hệ thống các cơ quan quản lý hành chính nhà nước và được thiết lập thống nhất từ Trung ương đến địa phương. Các cơ quan thanh tra nhà nước được thành lập theo cấp hành chính và theo ngành lĩnh vực. Các cơ quan thanh tra theo cấp hành chính bao gồm Thanh tra chính phủ; thanh tra tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, thanh tra huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh. Các cơ quan thanh tra theo ngành lĩnh vực gồm thanh tra bộ, cơ quan ngang bộ và thanh tra sở. Thanh tra chính phủ là cơ quan của Chính phủ thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước về công tác thanh tra và thực hiện thanh tra trong phạm vi quản lý nhà nước của Chính phủ. Nhiệm vụ của Thanh tra chính phủ chủ yếu là chỉ đạo hướng dẫn công tác, tổ chức, nghiệp vụ thanh tra đối với thanh tra các tỉnh thành phố bộ ngành; xây dựng pháp luật và hướng dẫn triển khai thực hiện các quy định pháp luật về thanh tra; thanh tra việc thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ của các bộ, cơ quan ngang bộ , cơ quan thuộc Chính phủ, Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh và thực hiện phòng chống tham nhũng theo quy định của pháp luật. Thanh tra bộ, cơ quan ngang bộ, là cơ quan của bộ, cơ quan ngang bộ có nhiệm vụ thanh tra việc thực hiện chính sách pháp luật nhiệm vụ của cơ quan thuộc quyền quản lý trực tiếp của bộ, cơ quan ngang bộ; thanh tra việc thực hiện pháp luật chuyên ngành của cơ quan, tổ chức cá nhân trong phạm vi quản lý nhà nước theo ngành lĩnh vực do bộ phị trách; chịu sự hướng dẫn công tác tổ chức nghiệp vụ thanh tra của thanh tra chính phủ và có trách nhiệm hướng dẫn nghiệp vụ thanh tra chuyên ngành đối với thanh tra sở. Thanh tra tỉnh thành phố trực thuộc trung ương là cơ quan chuyên môn thuộc uỷ ban nhân dân cấp tỉnh, giúp Uỷ ban nhân dân cùng cấp quản lý nhà nước về công tác thanh tra, khiếu nại, tố cáo. Có thể nói, hoạt động thanh tra, kiểm tra không những là một trong những nội dung, phương thức lãnh đạo của Đảng, phương thức thực hiện chức năng quản lý của Nhà nước, phương thức bảo đảm pháp chế, ngăn ngừa, phát hiện và xử lý những hành vi vi phạm pháp luật mà còn là nội dung, là cách thức thực hiện quyền dân chủ của nhân dân. Hoạt động thanh tra, kiểm tra, giám sát đang trở thành nhu cầu của xã hội, của quần chúng. Thực trạng hoạt động thanh tra ở Việt Nam Những nhược điểm của hoạt động thanh tra, kiểm tra hiện nay như sau: + Cơ sở pháp lý còn thiếu đồng bộ và chưa cụ thể; + Việc phối hợp còn chưa chặt chẽ; + Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn còn chồng chéo, trùng lắp; + Hiệu quả, hiệu lực chưa cao; + Đội ngũ cán bộ, công chức chưa đáp ứng với yêu cầu. Nguyên nhân chủ yếu của những nhược điểm trên là do cơ quan thanh tra Nhà nước là một tổ chức độc lập với các cơ quan khác của Nhà nước . Kết quả của cuộc kiểm tra chưa được quan tâm đúng mức vì kết quả đó không ảnh hưởng gì đến quyền lợi của cơ quan thanh tra. Điều đó khiến cho công tác kiểm tra đạt hiệu quả không cao . Công tác thanh tra việc thực hiện pháp luật không có hiệu quả là nguyên nhân dẫn đến tình trạng tham nhũng như hiện nay.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc74614.DOC