Lợi ích của sự hài hòa hóa pháp luật về khả năng
đi biển của tàu biển nên được nhìn nhận từ trọng tâm
của vấn đề không có một quy định thống nhất nào về
khái niệm "tàu biển" theo pháp luật quốc gia và quốc
tế trong lĩnh vực hàng hải. Do đó, thay vì đi tìm kiếm
một thỏa thuận chung về khái niệm "tàu biển" còn
nhiều tranh cãi, giải pháp hài hòa hóa pháp luật, thay
vì thống nhất pháp luật đã và đang được sử dụng
thường xuyên hơn cả bằng cách quy định về nghĩa
vụ thành quả phải đảm bảo đối với "khả năng đi biển
của tàu biển". Khái niệm "tàu biển" có thể khác biệt
ở nhiều quốc gia, nhưng một khi đã xác lập quan hệ
vận chuyển hàng hóa bằng đường biển, dù có mang
quốc tịch nước ngoài, nghĩa vụ đảm bảo khả năng đi
biển của người vận chuyển bắt buộc phải thực hiện
một cách tuyệt đối mà không có lấy bất kì một khả
năng lẩn tránh pháp luật nào. Sự hài hóa hòa pháp
luật đã mang lại cách tiếp cận đồng nhất về nghĩa vụ
đảm bảo khả năng đi biển của người vận chuyển phải
thực hiện trước và khi bắt đầu chuyến đi mà không
đòi hỏi quá trình thông qua, phê chuẩn từ phía cơ
quan lập pháp của quốc gia có chủ quyền, cụ thể
trong trường hợp này là Quốc hội Việt Nam.
Việc đi tìm một mẫu số chung cho tất cả các chế
định, các khái niệm là một thách thức đối với các nhà
làm luật. Không hướng tới một giải pháp tổng thể,
việc chia nhỏ các cụm vấn đề là cách thức được tán
thành và sử dụng ngày nay trong hệ thống pháp luật
quốc gia, cụ thể là quy định về khả năng đi biển của
tàu biển trong tổng thể các quy định phức tạp điều
chỉnh hoạt động hàng hải. Quả thực trong hoạt động
hàng hải hiện nay, các quy định về khả năng đi biển
của tàu biển đã không chỉ còn dừng lại ở giá trị tham
khảo theo các công ước quốc tế mà đã có sự hài hòa
hóa, trở thành nội luật, là một quy định trong Bộ luật
Hàng hải hiện hành.
7 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 14/01/2022 | Lượt xem: 298 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Quy định khả năng đi biển của tàu biển trong vận chuyển hàng hóa bằng đường biển: Sự hài hòa hóa pháp luật hàng hải Việt Nam và pháp luật hàng hải quốc tế, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
KHOA HỌC - CÔNG NGHỆ
100 SỐ 64 (11-2020)
TẠP CHÍ ISSN: 1859-316X
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ HÀNG HẢI
JOURNAL OF MARINE SCIENCE AND TECHNOLOGY
QUY ĐỊNH KHẢ NĂNG ĐI BIỂN CỦA TÀU BIỂN TRONG VẬN CHUYỂN
HÀNG HÓA BẰNG ĐƯỜNG BIỂN: SỰ HÀI HÒA HÓA PHÁP LUẬT
HÀNG HẢI VIỆT NAM VÀ PHÁP LUẬT HÀNG HẢI QUỐC TẾ
REGULATION ON THE SEAWORTHINESS IN CARRIAGE OF GOODS
BY SEA: LEGAL HARMONIZATION BETWEEN VIETNAMESE
MARITIME LAW AND THE INTERNATIONAL MARITIME LAW
NGUYỄN THÀNH LÊ, NGUYỄN ĐÌNH THÚY HƯỜNG*
Khoa Hàng hải, Trường Đại học Hàng hải Việt Nam
*Email liên hệ: huongndt.hh@vimaru.edu.vn
Tóm tắt
Khả năng đi biển của tàu biển là nghĩa vụ tiên quyết
phải đảm bảo thực hiện hàng đầu thuộc về người
vận chuyển theo Điều 150 Bộ luật hàng hải 2015.
Các quy định về khả năng đi biển của tàu biển cũng
được đề cập tới trong các văn bản pháp luật hàng
hải quốc tế quan trọng như Quy tắc Hague-Visby,
quy tắc Rotterdam. Trải qua hơn 200 năm phát triển,
lịch sử ngành công nghiệp hàng hải thế giới hiện đại
đã ghi nhận sự hình thành và phát triển của các học
thuyết về khả năng đi biển của tàu biển. Trong bối
cảnh đó, pháp luật hàng hải Việt Nam, pháp luật
hàng hải quốc tế đã có những quy định quan trọng
liên quan đến khả năng đi biển của tàu biển nhưng
vẫn luôn có được sự hài hòa pháp luật từ cấp độ
quốc gia, quốc tế. Bài viết nhằm mục đích sáng tỏ sự
hài hòa pháp luật trong quy định về khả năng đi biển
của tàu biển, đặc biệt khi mục đích của quy định này
nhằm phục vụ sự an toàn của con người và hàng
hóa, an toàn hàng hải, phòng chống rủi ro trên biển,
ý nghĩa căn bản nhất của nghĩa vụ đảm bảo khả
năng đi biển của tàu biển.
Từ khóa: Khả năng đi biển của tàu biển, hài hòa
hóa pháp luật, nghĩa vụ ngầm định của người vận
chuyển, bảo đảm tuyệt đối.
Abstract
The duty to provide a seaworthy ship is the pioneer
obligation of the carrier, according to article 150 of
the Vietnamese Maritime Code 2015, as well as the
same stipulations in Hague-Visby Rules and
Rotterdam Rules. Following strictly the evolution of
maritime industry throughout approx-imately 200
years, the seaworthiness doctrine has had
remarkable evolution. Under the circum-stances, the
Vietnamese maritime law, the international maritime
law had many important regulations concerning the
seaworthiness in the respect of legal harmonization
from national standard to international standard.
This article aims to clarify the harmonized
regulation relating to the seaworthiness, especially,
which is served for human safety, totality of goods,
maritime safety, risk managements, the fundamental
objectives of seaworthiness duty.
Keywords: Seaworthiness, legal harmonization,
implied obligation of carrier, absolute warranty.
1. Đặt vấn đề
Khả năng đi biển của tàu biển là một trong những
đề tài truyền thống và không thể bỏ qua khi nghiên
cứu về vận chuyển hàng hóa bằng đường biển. Trên
thế giới đã tồn tại từ ít nhất hơn 200 năm hệ thống
các án lệ cùng lý thuyết, phân tích luật học về chủ đề
trên. Khả năng đi biển của tàu biển có thể được hiểu
theo nghĩa thông thường là khi bắt đầu chuyến đi con
tàu phải có đủ khả năng thích hợp để vượt qua được
những nguy hiểm từ biển cả thông thường có thể dự
báo trước được và có thể khắc phục được. Để làm rõ
được sự hài hòa hóa pháp luật hàng hải Việt Nam với
pháp luật hàng hải quốc tế về quy định liên quan đến
khả năng đi biển của tàu biển, quả thực rất cần thiết
phải đề cập đến sự phát triển của các học thuyết về
khả năng đi biển của tàu biển. Từ phân tích học
thuyết luật học, cách quy định của pháp luật Việt
Nam và quốc tế cụ thể về khả năng đi biển của tàu
biển sẽ được nghiên cứu nhằm đưa ra kết quả nghiên
cứu cuối cùng về sự hài hòa hóa pháp luật trong quy
định của pháp luật Việt Nam và quốc tế về khả năng
đi biển của tàu biển.
2. Tổng quan về học thuyết khả năng đi biển
của tàu biển
Nghĩa vụ đảm bảo một con tàu có đủ khả năng đi
biển đã có sự biến đổi đáng kể cùng với sự phát triển
của công nghiệp tàu thủy khi từ những con tàu ra khơi
hoạt động bằng gió cùng sức người với phần thân vỏ
bằng gỗ, cho đến ngày nay, tất cả đã được thay thế bởi
động cơ, thân vỏ sắt và rất có thể trong kỉ nguyên 4.0
KHOA HỌC - CÔNG NGHỆ
101 SỐ 64 (11-2020)
TẠP CHÍ ISSN: 1859-316X
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ HÀNG HẢI
JOURNAL OF MARINE SCIENCE AND TECHNOLOGY
hướng tới tương lai, tàu không người lái.
2.1. Học thuyết cổ điển về khả năng đi biển
của tàu biển
Vận chuyển hàng hóa bằng đường biển đã diễn ra
trước cả khi hình thành các quốc gia ven biển và hiển
nhiên là trước cả khi pháp luật hàng hải quốc tế ra
đời. Do đó, sẽ khó có thể đưa ra được mốc chính xác
khi nào thực tiễn xét xử ghi nhận sự tồn tại của học
thuyết về khả năng đi biển của tàu biển. Tuy nhiên,
từ án lệ the Charter party of the Cherities [1] cho tới
Lyon v Mells (1804) [2], cách hiểu về khả năng đi
biển của tàu biển được tóm gọn lại bằng các yêu cầu:
bền kín nước và có khả năng di chuyển (“strong and
staunch and tight”). Trong án lệ Lyon v Mells, đây là
vụ việc mà bị đơn nhận vận chuyển len của nguyên
đơn bằng xà-lan từ cầu cảng ở Hull tới một con tàu
tại vũng đậu tàu tại Humber, thuộc Vương Quốc
Anh. Xà lan bị nước tràn vào và mắc cạn một phần
gây tổn thất cho lượng len vận chuyển. Người vận
chuyển đã dựa trên một quy định pháp luật cho phép
giới hạn trách nhiệm của người vận chuyển trong
khu vực cảng đến Humber. Tuy nhiên, tòa án đã ra
một phán quyết kinh điển, từ đó áp dụng nghĩa vụ
đảm bảo khả năng đi biển của tàu biển cho cả xà-lan
đó là: “Trong tất cả các hợp đồng vận chuyển hàng
hóa bằng đường biển giữa một bên là chủ con tàu
hoặc xà-lan, con tàu hoặc xà-lan phải có khả năng
sẵn sàng được cho thuê vận chuyển hàng hóa và một
bên đặt hàng hóa lên tàu hoặc sử dụng con tàu,
xà-lan nhằm mục đích vận chuyển” [3]. Hệ quả của
phán quyết này là việc nghĩa vụ đảm bảo khả năng đi
biển của con tàu trở thành một quy định ngầm định
ngay cả trong trường hợp không có thỏa thuận theo
hợp đồng, ràng buộc người vận chuyển hoặc chủ
xà-lan phải cung cấp một con tàu kín nước và phù
hợp cho việc sử dụng mà người vận chuyển đã công
bố công khai trước công chúng. Án lệ trên đã đưa tới
những kết luận quan trọng sau đây:
Thứ nhất, nghĩa vụ đảm bảo khả năng đi biển của
con tàu là một nghĩa vụ ràng buộc ngầm định thuộc
về người vận chuyển ngay cả khi trong hợp đồng
thuê tàu không có thỏa thuận liên quan. Đây là kết
luận đã được luật hóa vào Bộ luật Bảo hiểm Hàng
hải của Vương Quốc Anh (English Marine Insurance
Act 1906 - MIA) tại mục 39(1).
Thứ hai, về việc thực hiện nghĩa vụ đảm bảo khả
năng đi biển của con tàu, câu hỏi mấu chốt cần được
trả lời là: Liệu con tàu đã có mức độ phù hợp mà một
người chủ tàu cẩn trọng hợp lí trong hoàn cảnh bình
thường có thể yêu cầu từ phía con tàu để bắt đầu
chuyến đi, trong mối tương quan với các điều kiện
hoàn cảnh có thể xảy tới. Nếu người chủ tàu biết
nhưng không sửa chữa khắc phục hoặc không biết
được khiếm khuyết của tàu do chưa thực hiện đủ
nghĩa vụ cẩn trọng hợp lý, tàu vẫn được coi là không
có khả năng đi biển. Như vậy, khả năng đi biển của
con tàu không phải là khái niệm tuyệt đối nhưng là
một nghĩa vụ yêu cầu đảm bảo tuyệt đối, nó có liên
quan trực tiếp tới bản chất của con tàu, tới từng
chuyến đi cụ thể và thậm chí từng đoạn hành trình
của chuyến đi mà con tàu cam kết phục vụ.
2.2. Sự mở rộng khái niệm về khả năng đi biển
của tàu biển
Nghĩa vụ đảm bảo khả năng đi biển của con tàu
được thừa nhận từ vụ Lyon v Mells, tuy nhiên 200
năm sau thực tế đã trở nên ngày càng phức tạp với sự
mở rộng của học thuyết về khả năng đi biển của tàu
biển về những vấn đề dưới đây:
a) Hiện trạng thực tế và trang thiết bị của con tàu
Việc kiểm tra từ một người được coi là chủ sở
hữu cẩn trọng, mẫn cán, hợp lí trong hoàn cảnh bình
thường không chỉ là một biểu mẫu kiểm tra các
thông số kĩ thuật chung dùng để quyết định rằng một
con tàu không có đủ khả năng đi biển hay không [4].
b) Khả năng/ hiệu quả làm việc của thuyền
trưởng và thủy thủ đoàn.
Vấn đề về khả năng chuyên môn của thủy thủ
đoàn không đáp ứng được nhu cầu của chuyến đi có
sự nguy hiểm giống như như không cung cấp đủ
nguyên liệu cho tàu; hải đồ không được cập nhật
hoặc có một lỗ hổng ở trên thân tàu [5].
c) Khả năng vận chuyển hàng hóa của tàu
Một con tàu di chuyển một cách an toàn vẫn có
thể không có khả năng đi biển nếu nó không phù hợp
để vận chuyển hàng hóa đã được thỏa thuận [6]. Có
luồng quan điểm cho rằng khả năng vận chuyển hàng
hóa của tàu cần được xem xét nhưng là một nghĩa vụ
tách biệt với nghĩa vụ đảm bảo khả năng đi biển của
con tàu. Trong khi những học giả khác lại cho rằng
đây là sự mở rộng của nghĩa vụ đảm bảo khả năng đi
biển của con tàu. Hai luồng quan điểm này không
gây khác biệt cho thực tiễn tranh chấp hàng hải. Trên
thực tế, Bộ luật Bảo hiểm Hàng hải của Vương Quốc
Anh đã có ghi nhận khía cạnh phù hợp để vận
chuyển hàng hóa của tàu biển là một nghĩa vụ phải
đảm bảo cùng với nghĩa vụ đảm bảo khả năng đi
biển của tàu biển tại thời điểm bắt đầu chuyến đi.
(MIA 1906 mục 40).
d) Các tài liệu liên quan đến chuyến đi
KHOA HỌC - CÔNG NGHỆ
102 SỐ 64 (11-2020)
TẠP CHÍ ISSN: 1859-316X
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ HÀNG HẢI
JOURNAL OF MARINE SCIENCE AND TECHNOLOGY
Nghĩa vụ phải cung cấp một con tàu có khả năng
đi biển yêu cầu người vận chuyển phải cung cấp giấy
tờ thỏa đáng để đảm bảo [7]. Khía cạnh này của
nghĩa vụ phải cung cấp một con tàu có khả năng đi
biển ít được biết đến và không được phát triển hơn là
các khía cạnh khác của nghĩa vụ phải cung cấp một
con tàu có khả năng đi biển. Quả thực, một con tàu
vẫn có đủ khả năng đi biển mặc dù chủ sở hữu của
con tàu không cung cấp giấy tờ cần thiết. Tuy nhiên,
trong bối cảnh biên giới trên biển của các quốc gia
ven biển đã được hình thành, quá trình kiểm tra hành
chính vô cùng gắt gao và xiết chặt dựa trên sự phát
triển của công nghệ, việc ra khơi mà thiếu các giấy
tờ cần thiết có liên quan là điều khó có thể xảy ra.
Dường như với sự mở rộng của học thuyết này,
người vận chuyển có lẽ đang rơi vào thế bất lợi, phải
đáp ứng đầy đủ, mẫn cán hợp lí và cẩn trọng những
yêu cầu như đã liệt kê phía trên. Tuy nhiên, trên thực
tế, việc mở rộng các yêu cầu về khả năng đi biển của
tàu biển lại được nhìn nhận như là những thuận lợi
góp phần đảm bảo an ninh hàng hải hơn là những đòi
hỏi, yêu sách từ các bên hữu quan, khi xét đến ý
nghĩa sâu sa của việc mở rộng học thuyết. Trên thực
tế, pháp luật Việt Nam và pháp luật quốc tế đã lựa
chọn học thuyết cổ điển hay hiện đại để quy định về
khả năng đi biển của tàu biển? Những phần nghiên
cứu dưới đây sẽ làm sáng tỏ câu hỏi trên.
3. Sự thống nhất của các Bộ luật Hàng hải
Việt Nam về quy định khả năng đi biển của
tàu biển
Bộ luật Hàng hải Việt Nam 2015 đã được Quốc
hội thông qua vào ngày 25/11/2015 và có hiệu lực kể
từ ngày 01/07/2017. Mặc dù có nhiều điểm mới tuy
nhiên, liên quan đến vấn đề khả năng đi biển của tàu
biển, hai Bộ luật Hàng hải 2005 và 2015 có sự thống
nhất tuyệt đối, cụ thể:
• Khoản 1, Điều 150. Nghĩa vụ của người vận
chuyển, Bộ luật Hàng hải 2015 có quy định:
Người vận chuyển phải mẫn cán để trước và khi
bắt đầu chuyến đi, tàu biển có đủ khả năng đi biển,
có thuyền bộ thích hợp, được cung ứng đầy đủ trang
thiết bị và vật phẩm dự trữ; các hầm hàng, hầm lạnh
và khu vực khác dùng để vận chuyển hàng hóa có đủ
các điều kiện nhận, vận chuyển và bảo quản hàng
hóa phù hợp với tính chất của hàng hóa [8].
• Khoản 1, Điều 75. Nghĩa vụ của người vận
chuyển, Bộ luật Hàng hải 2005 cũng có quy định:
Người vận chuyển phải mẫn cán để trước và khi
bắt đầu chuyến đi, tàu biển có đủ khả năng đi biển,
có thuyền bộ thích hợp, được cung ứng đầy đủ trang
thiết bị và vật phẩm dự trữ; các hầm hàng, hầm lạnh
và khu vực khác dùng để vận chuyển hàng hoá có đủ
các điều kiện nhận, vận chuyển và bảo quản hàng
hoá phù hợp với tính chất của hàng hóa [9].
• Điều 67, Bộ luật Hàng hải 1990 có quy định
gần tương tự là:
1- Người vận chuyển có nghĩa vụ đưa tầu đến
cảng bốc hàng trong trạng thái sẵn sàng để nhận
hàng, đúng thời điểm và địa điểm; lưu tầu tại nơi bốc
hàng theo các điều kiện đã thoả thuận trong hợp
đồng vận chuyển hàng hoá.
2- Người vận chuyển có nghĩa vụ chăm sóc chu
đáo để trước và khi bắt đầu chuyến đi, tầu có đủ khả
năng đi biển; có thuyền bộ thích hợp; được cung ứng
đầy đủ trang thiết bị và vật phẩm dự trữ; các hầm
hàng, hầm lạnh và khu vực khác dùng để vận chuyển
hàng hoá có đủ các điều kiện nhận, vận chuyển và
bảo quản hàng hoá phù hợp với tính chất của hàng
hoá [10].
Như vậy, ngoại trừ sự khác biệt về mặt thời gian
ban hành pháp luật, có thể đưa ra được kết luận về sự
thống nhất giữa pháp luật Việt Nam trong cả ba bộ
luật Hàng hải 1990, 2005, 2015 về các quy định liên
quan đến khả năng đi biển của tàu biển.
Thứ nhất, quy định về nghĩa vụ đảm bảo khả
năng đi biển của tàu biển đều thống nhất được quy
định là trách nhiệm của người vận chuyển.
Thứ hai, nghĩa vụ đảm bảo khả năng đi biển
của tàu biển trong các quy định từ Bộ luật hàng hải
1990, 2005 tới 2015 đều thống nhất tách biệt hoàn
toàn với nghĩa vụ vận chuyển và phải thực hiện
(đồng nhất theo cả ba bộ luật) tại thời điểm "trước
và khi bắt đầu chuyến đi". Điều này sẽ dẫn đến hệ
quả pháp lý quan trọng, nếu nghĩa vụ bảo đảm khả
năng đi biển của con tàu bị vi phạm, người vận
chuyển sẽ không được bảo vệ bởi giới hạn trách
nhiệm vận chuyển.
Nền công nghiệp hàng hải có sự phát triển
mạnh mẽ, thay đổi cả về chất lẫn về lượng nhưng
tại sao các quy định về khả năng đi biển của tàu
biển lại không có thay đổi trong suốt gần ba thập
kỉ qua? Mục tiêu của nhà làm luật trong trường
hợp này, thực tế lại là một yêu cầu vô cùng gắt gao
và chỉn chu, hướng tới một nghĩa vụ thành quả mà
không phải là nghĩa vụ phương tiện, bắt buộc đảm
bảo tuyệt đối thực hiện. Phần tiếp theo, các quy
định về pháp luật hàng hải quốc tế sẽ được phân
tích để từ đó làm sáng tỏ sự thống nhất của các văn
bản pháp luật hàng hải quốc tế liên quan đến khả
năng đi biển của tàu biển.
KHOA HỌC - CÔNG NGHỆ
103 SỐ 64 (11-2020)
TẠP CHÍ ISSN: 1859-316X
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ HÀNG HẢI
JOURNAL OF MARINE SCIENCE AND TECHNOLOGY
4. Sự hài hòa hóa của pháp luật hàng hải quốc
tế về quy định khả năng đi biển của tàu biển
Trong pháp luật hàng hải quốc tế, pháp luật quốc
gia và các điều ước quốc tế đóng vai trò là những
nguồn luật quan trọng. Về pháp luật quốc gia, vai trò
của pháp luật hàng hải Anh quốc về vận chuyển hàng
hóa bằng đường biển và trong lĩnh vực bảo hiểm là
không thể chối cãi. Hệ thống các công ước quốc tế
có liên quan đến khả năng đi biển của tàu biển được
thừa nhận, phê chuẩn và gia nhập phải kể tới: Quy
tắc Hague năm 1924, Quy tắc Hague-Visby năm
1968 và Quy tắc Hamburg năm 1978 và Quy tắc
Rotterdam 2009. Trong khuôn khổ của bài nghiên
cứu, hai Quy tắc, một là Quy tắc Hague-Visby, Quy
tắc được nhiều quốc gia phê chuẩn nhất (54 thành
viên) [11] và Quy tắc Rotterdam, Quy tắc mới nhất
có liên quan đến vận chuyển hàng hóa bằng đường
biển được soạn thảo bởi Liên Hợp Quốc sẽ được
phân tích về sự hài hòa hóa pháp luật trong quy định
về khả năng đi biển của tàu biển.
4.1. Các quy định của Quy tắc Hague-Visby
Chiếu các quy định trên tại Điều III, Khoản 1 của
Quy tắc Hague - Visby về vận chuyển hàng hóa quốc
tế bằng đường biển, rất dễ có thể nhận thấy có sự
trùng lắp các quy định pháp luật Việt Nam về khả
năng đi biển của con tàu với quy tắc Hague-Visby.
Cụ thể:
Ðiều III:
1. Trước và lúc bắt đầu hành trình, người chuyên
chở phải có sự cần mẫn thích đáng để:
a. Làm cho tầu có đủ khả năng đi biển;
b. Biên chế, trang bị và cung ứng thích ứng cho tàu;
c. Làm cho các hầm, phòng lạnh và phòng ướp lạnh,
và tất cả các bộ phận khác của con tàu dùng vào việc
chuyển chở hàng hoá thích hợp và an toàn cho việc tiếp
nhận, chuyên chở và bảo quản hàng hoá [12].
Có thể nhận thấy, cách lựa chọn quy định về khả
năng đi biển của tàu biển của pháp luật Việt Nam
(theo Điều 150, Bộ luật Hàng hải 2015) hoàn toàn
trùng lặp với cách quy định của Quy tắc Hague-Visby
1968. Cách lựa chọn theo pháp luật Việt Nam và của
Quy tắc Hague-Visby đi theo hướng học thuyết cổ
điển: Yêu cầu nghĩa vụ thành quả là con tàu có khả
năng tiến hành hải trình, kín nước, có thể điều khiển
tốt chống chọi lại được những nguy hiểm thông
thường có thể dự báo được từ biển cả. Nghĩa vụ đảm
bảo khả năng đi biển được quy định là nghĩa vụ phải
thực hiện "trước và lúc bắt đầu hành trình" từ phía
người vận chuyển.
4.2. Các quy định của Quy tắc Rotterdam
Công ước Rotterdam 2009, (còn gọi là quy tắc
Rotterdam), là công ước của Liên hợp quốc về hợp
đồng vận chuyển hàng hóa quốc tế toàn bộ hoặc một
phần bằng đường biển. Công ước Rotterdam được
công nhận là nguồn luật điều chỉnh đầy đủ và toàn
diện hơn so với các quy tắc trước đó là Hague-Visby
và Hamburg [13]. Theo đó, điều 14, Quy tắc
Rotterdam quy định: “Khi hàng hóa được vận
chuyển bằng đường biển, trước khi, lúc bắt đầu và
trong suốt hành trình đường biển người chuyên chở
phải cần mẫn hợp lý để: Đảm bảo con tàu đủ khả
năng đi biển; Biên chế, trang bị, cung ứng một cách
thích hợp cho tàu và duy trì con tàu được biên chế,
trang bị và cung ứng như vậy trong suốt hành trình;
Đảm bảo và giữ gìn hầm tàu và các bộ phận chứa
hàng khác của con tàu và các container chứa hàng
do người chuyên chở cung cấp thích hợp và an toàn
cho việc tiếp nhận, vận chuyển và bảo quản hàng
hóa” [14].
Từ Quy tắc Hague-Visby 1968, Quy tắc
Rotterdam đã có một cải biến đáng kể về mặt thời
gian thực hiện nghĩa vụ đảm bảo khả năng đi biển
của tàu biển, với yêu cầu phải thực hiện "trước khi,
lúc bắt đầu và trong suốt hành trình đường biển"
trong khi các nội dung quan trọng khác vẫn còn được
giữ nguyên, cụ thể: nghĩa vụ đảm bảo khả năng đi
biển của tàu biển vẫn luôn là nghĩa vụ của người vận
chuyển và nghĩa vụ hướng tới thành quả cao nhất là
con tàu phải được trang bị đầy đủ, có khả năng
chống chọi lại được với những nguy hiểm có thể dự
báo được và có thể khắc phục được từ biển cả.
5. Sự hài hòa hóa của pháp luật hàng hải Việt
Nam và pháp luật hàng hải quốc tế về quy
định khả năng đi biển của tàu biển
Việc hiểu về khả năng đi biển của tàu theo
nghĩa hẹp như pháp luật hàng hải Việt Nam và
Quy tắc Hague-Visby không phải là áp dụng nghĩa
vụ đảm bảo khả năng đi biển của tàu biển bằng
những lý thuyết hàng hải cổ điển cách đây hơn 200
năm. Nghĩa vụ phải đảm bảo khả năng đi biển của
tàu biển dù ở trong thế kỉ nào cũng luôn là một
nghĩa vụ thành quả, bắt buộc người vận chuyển
phải thực hiện bằng mọi cách thức để đạt được chứ
không phải là nghĩa vụ phương tiện là loại nghĩa
vụ người vận chuyển nếu chứng minh được đã
thực hiện nghĩa vụ một cách cẩn trọng hợp lý mẫn
cán là được chấp nhận đã thực hiện nghĩa vụ [15].
Các yêu cầu về trang thiết bị, giấy tờ, thủy thủ
đoàn cũng như khả năng tương thích với hàng hóa
KHOA HỌC - CÔNG NGHỆ
104 SỐ 64 (11-2020)
TẠP CHÍ ISSN: 1859-316X
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ HÀNG HẢI
JOURNAL OF MARINE SCIENCE AND TECHNOLOGY
vẫn luôn luôn được đặt lên như một nghĩa vụ phải
đảm bảo khi thực hiện nghĩa vụ của người vận
chuyển. Thực tế, ngay cả điều 150 Bộ luật Hàng
hải Việt Nam cũng như quy định của Quy tắc
Hague-Visby cũng đều thừa nhận tầm quan trọng
của “thuyền bộ thích hợp, được cung ứng đầy đủ
trang thiết bị và vật phẩm dự trữ; các hầm hàng,
hầm lạnh và khu vực khác dùng để vận chuyển
hàng hoá có đủ các điều kiện nhận, vận chuyển và
bảo quản hàng hoá phù hợp với tính chất của hàng
hoá” bên cạnh khả năng đi biển của tàu biển.
Một kết luận tiếp theo liên quan đến cách quy
định của pháp luật Việt Nam và của Quy tắc
Hague-Visby 1968 đó là cách quy định như trên tách
biệt hoàn toàn khả năng đi biển của tàu biển với các
yếu tố như tính thích hợp với hàng hóa của con tàu,
khả năng chuyên môn của thủy thủ đoàn và sự tồn tại
của các tài liệu cần thiết liên quan đến chuyến đi.
Lựa chọn quy định theo hướng học thuyết cổ điển
thay vì học thuyết hiện đại đã mang đến cách hiểu rõ
ràng, không gây khó khăn trong việc hiểu và áp dụng
pháp luật liên quan đến khả năng đi biển của con tàu.
Xét về khía cạnh kĩ thuật lập pháp, nếu đi theo
hướng học thuyết hiện đại, một điều luật phải quy
định như thế nào khi vừa bao hàm các yêu cầu mang
tính kĩ thuật, vật lí từ phía con tàu để đủ khả năng đi
biển, vừa phải đảm bảo đủ các yêu cầu về thuyền bộ,
tài liệu chuyến đi, tính thích hợp với hàng hóa vận
chuyển và đặc biệt phải quy định một cách dễ hiểu,
hạn chế được các hiểu lầm phát sinh tranh chấp hàng
hải. Nếu chỉ quy định một cách khái quát để tổng
hợp đủ các yêu cầu là “phải phù hợp dưới mọi hình
thức cho các yêu cầu phục vụ chuyến đi” (in every
way fitted for the service), sẽ có rất nhiều nghĩa vụ
phát sinh trên thực tế là không thỏa đáng áp đặt lên
người vận chuyển. Một chiếc thẻ xanh lao động với
mức lương tiêu chuẩn châu Âu có hay không là yêu
cầu bắt buộc phải đáp ứng từ phía người vận chuyển
ở một quốc gia đang phát triển khi vận chuyển hàng
hóa bằng đường biển vào thị trường này trong khi
hợp đồng có ghi nhận thỏa thuận về nghĩa vụ “phải
phù hợp dưới mọi hình thức cho các yêu cầu phục vụ
chuyến đi”? Quyết định của tòa án trong trường hợp
này là đó là một yêu cầu không cần thiết [15]. Quả
thực, nếu đi theo hướng học thuyết hiện đại, yêu cầu
về khă năng đi biển sẽ không chỉ đơn thuần nằm về
mặt kĩ thuật nữa và có khả năng mang đến những rủi
ro cao cho an ninh pháp lý.
Thứ ba, Điều 150 Bộ luật Hàng hải 2015 và Điều
III (1) của Quy tắc Hague-Visby đã phân tách rõ ràng
nghĩa vụ đảm bảo khả năng đi biển của tàu biển và
nghĩa vụ vận chuyển. Điều này dẫn tới hệ quả: nếu
nghĩa vụ đảm bảo khả năng đi biển của tàu biển bị vi
phạm, người vận chuyển không được bảo vệ bởi giới
hạn trách nhiệm vận chuyển. Trên thực tế, các bên
trong hợp đồng thuê tàu sẽ áp dụng linh hoạt các chiến
lược pháp lý để tận dụng tối đa lợi thế từ các quy định
pháp luật về khả năng đi biển của con tàu. Cụ thể,
người chủ hàng luôn muốn nhận được mức bồi
thường cao hơn mức giới hạn bồi thường do vi phạm
nghĩa vụ vận chuyển của người vận chuyển sẽ đi theo
hướng chứng minh tàu không đủ khả năng đi biển và
gây thiệt hại cho hàng hóa vận chuyển. Còn về phía
người vận chuyển thì ngược lại, họ sẽ có xu hướng
chứng minh lỗi phát sinh do nhằm đảm bảo thực hiện
nghĩa vụ vận chuyển để hưởng mức giới hạn đền bù
(với các trường hợp không đủ khả năng đi biển do lỗi
hỗn hợp). Ngoài ra, người vận chuyển sẽ sử dụng lập
luận hàng hóa vận chuyển bị tổn thất nhằm mục đích
đảm bảo khả năng đi biển của tàu biển để được hưởng
miễn trừ trách nhiệm.
Sự hài hòa hóa của pháp luật hàng hải Việt Nam
và pháp luật hàng hải quốc tế (cụ thể là với Quy tắc
Hague-Visby 1968) khi nói đến khả năng đi biển của
tàu biển quả thực là một thuận lợi quan trọng cho các
bên hữu quan và các bên có liên quan trong quan hệ
hàng hải khi các bên đã được tiếp cận và phải áp
dụng các quy định tương tự như trong pháp luật hàng
hải quốc tế.
Tuy nhiên, căn cứ theo Điều 5, Bộ luật hàng hải
2015 “Quyền thỏa thuận trong hợp đồng”, các bên
trong quan hệ hàng hải hoàn toàn có thể lựa chọn
hoặc quy định theo ý chí của riêng bản thân về khả
năng đi biển của tàu biển; hoặc theo học thuyết cổ
điển như quy định của Bộ luật Hàng hải Việt Nam và
các quy tắc quốc tế; hoặc theo học thuyết hiện đại.
Như vậy, dù luật có quy định theo cách thức nào
cũng không ảnh hưởng đến quan hệ hàng hải, tới đối
tượng hợp đồng là con tàu được đem ra thỏa thuận
nếu các bên đã đồng thuận từ trước đó về khả năng
đi biển, với điều kiện là quy định này không được
“trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt
Nam”. Trong trường hợp không có thỏa thuận giữa
các bên về khả năng đi biển của tàu biển và pháp luật
dẫn chiếu tới việc áp dụng pháp luật Việt Nam, Điều
150 Bộ luật Hàng hải 2015 sẽ được áp dụng. Khi đó,
cách hiểu về khả năng đi biển của tàu biển sẽ được
giải thích và áp dụng và hiểu theo nghĩa hẹp [17] như
quy định tại Điều 150 Bộ luật Hàng hải Việt Nam và
theo các Quy tắc quốc tế như Hague - Visby hay
Rotterdam.
KHOA HỌC - CÔNG NGHỆ
105 SỐ 64 (11-2020)
TẠP CHÍ ISSN: 1859-316X
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ HÀNG HẢI
JOURNAL OF MARINE SCIENCE AND TECHNOLOGY
6. Kết luận
Ở các phần trước, sự hài hòa hóa pháp luật hàng hải
quốc tế và pháp luật hàng hải Việt Nam về khả năng đi
biển của tàu biển đã được chứng minh. Tuy nhiên,
Công ước Hague-Visby 1968, cũng như Công ước
Rotterdam 2009 chỉ là một nguồn luật tham khảo của
pháp luật hàng hải quốc tế đối với Việt Nam do Việt
Nam không phải là thành viên của hai Công ước này.
Bằng việc pháp điển hóa quy định có sự hài hòa với
pháp luật hàng hải quốc tế về khả năng đi biển của tàu
biển vào trong Bộ luật Hàng hải, quy định về khả năng
đi biển của tàu biển đã trở thành nội luật, có tính áp
dụng chung trong hoạt động hàng hải diễn ra tại Việt
Nam đối với "tổ chức, cá nhân Việt Nam, tổ chức, cá
nhân nước ngoài" theo Điều 2, Bộ luật Hàng hải 2015.
Lợi ích của sự hài hòa hóa pháp luật về khả năng
đi biển của tàu biển nên được nhìn nhận từ trọng tâm
của vấn đề không có một quy định thống nhất nào về
khái niệm "tàu biển" theo pháp luật quốc gia và quốc
tế trong lĩnh vực hàng hải. Do đó, thay vì đi tìm kiếm
một thỏa thuận chung về khái niệm "tàu biển" còn
nhiều tranh cãi, giải pháp hài hòa hóa pháp luật, thay
vì thống nhất pháp luật đã và đang được sử dụng
thường xuyên hơn cả bằng cách quy định về nghĩa
vụ thành quả phải đảm bảo đối với "khả năng đi biển
của tàu biển". Khái niệm "tàu biển" có thể khác biệt
ở nhiều quốc gia, nhưng một khi đã xác lập quan hệ
vận chuyển hàng hóa bằng đường biển, dù có mang
quốc tịch nước ngoài, nghĩa vụ đảm bảo khả năng đi
biển của người vận chuyển bắt buộc phải thực hiện
một cách tuyệt đối mà không có lấy bất kì một khả
năng lẩn tránh pháp luật nào. Sự hài hóa hòa pháp
luật đã mang lại cách tiếp cận đồng nhất về nghĩa vụ
đảm bảo khả năng đi biển của người vận chuyển phải
thực hiện trước và khi bắt đầu chuyến đi mà không
đòi hỏi quá trình thông qua, phê chuẩn từ phía cơ
quan lập pháp của quốc gia có chủ quyền, cụ thể
trong trường hợp này là Quốc hội Việt Nam.
Việc đi tìm một mẫu số chung cho tất cả các chế
định, các khái niệm là một thách thức đối với các nhà
làm luật. Không hướng tới một giải pháp tổng thể,
việc chia nhỏ các cụm vấn đề là cách thức được tán
thành và sử dụng ngày nay trong hệ thống pháp luật
quốc gia, cụ thể là quy định về khả năng đi biển của
tàu biển trong tổng thể các quy định phức tạp điều
chỉnh hoạt động hàng hải. Quả thực trong hoạt động
hàng hải hiện nay, các quy định về khả năng đi biển
của tàu biển đã không chỉ còn dừng lại ở giá trị tham
khảo theo các công ước quốc tế mà đã có sự hài hòa
hóa, trở thành nội luật, là một quy định trong Bộ luật
Hàng hải hiện hành.
Lời cảm ơn
Bài báo này là sản phẩm của đề tài nghiên cứu
khoa học cấp Trường năm học 2019-2020, tên đề tài:
“Một số vấn đề pháp lí phát sinh liên quan đến khả
năng đi biển của tàu biển”, được hỗ trợ kinh phí bởi
Trường Đại học Hàng hải Việt Nam.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Reginald G Marsden (ed), Select Pleas in the Court
of Admiralty, Vol.1 (Selden Society 1892) 35.
[2] Lyon v Mells(1804) 5 East 428.
[3] Lyon v Mells (1804) 5 East 428 per Lord
Ellenborough CJ at p.436.
[4] State v Scott, 34 So. 479, 481, 110, La. 369.
[5] Standard Oil v Clan Line (1924) AC 100.
[6] Empresa Cubana Importada de Alimentos
‘Alimport’ v Iasmos Ship-ping Co SA, (The
Good Friend) 2 Lloyd’s Rep 586.1984.
[7] Alfred C Toepfer Schiffahrtsgesellschaft GmbH v
Tossa Marine Co Ltd (The Derby) 2 Lloyd’s Rep.
325, 1985.
[8] Bộ luật Hàng hải Việt Nam số 95/2015/QH13,
đăng Công báo/số 1257 + 1258/ngày 30-12-2015
[9] Bộ luật Hàng hải của Quốc hội nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam số 40/2005/QH11 ngày
14/6/2005.
[10] Bộ luật Hàng hải Việt Nam được Quốc hội nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa VIII,
Kỳ họp thứ 7 thông qua ngày 30/6/1990.
[11] Nguyễn Tiến Vinh, Pháp luật về hợp đồng vận
chuyển hàng hóa bằng đường biển trong bối
cảnh hội nhập quốc tế, Tạp chí Khoa học
ĐHQGHN, Luật học 27, tr.180, 2011.
[12] Article III(a) of the Protocol to Amend the
International Convention for the Unification of
Certain Rules of Law Relating to Bills of Lading
(known as the Hague - Visby Rules).
[13] Dương Văn Bạo, Major changes to the
Rotterdam rules and amendment to the Vietnam
mari-time code, Tạp chí Khoa học Công nghệ
Hàng hải, Số 25 (1/2011), tr.33, 2011.
[14] Article 14 of the United Nations Convention on
Contracts for the International Carriage of Goods
Wholly or Partly by Sea (known as the
Rotterdam Rules).
[15] Alfred C Toepfer v Tossa Marine, The Derby. 2
Lioyd’s Rep 325, CA, 1985.
[16] Vũ Văn Mẫu, Việt Nam dân luật lược khảo,
Quyển II - Khế ước và nghĩa vụ, Luật khoa thư
quán, Saigon, tr.23s. 1963.
KHOA HỌC - CÔNG NGHỆ
106 SỐ 64 (11-2020)
TẠP CHÍ ISSN: 1859-316X
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ HÀNG HẢI
JOURNAL OF MARINE SCIENCE AND TECHNOLOGY
[17] C.LESNI, The ship owner’s obligation to ensure
seaworthiness of the ship - implicit obligation of
the ship owner in the charter party,
Contemporary Readings in Law and Social
Justice, Volume 4(1), pp.563-569, 2012.
Ngày nhận bài: 08/04/2020
Ngày nhận bản sửa lần 01: 22/04/2020
Ngày nhận bản sửa lần 02: 26/05/2020
Ngày duyệt đăng: 05/06/2020
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- quy_dinh_kha_nang_di_bien_cua_tau_bien_trong_van_chuyen_hang.pdf