Bên cạnh đó, theo quy định tại Điều
21 Luật Lãnh sự Ba Lan năm 2015, cơ quan
lãnh sự của Ba Lan sẽ tiến hành trợ giúp đối
với công dân của các nước thành viên khác
của EU tại nước thứ ba không có đại diện
tương tự như đối với công dân Ba Lan. Tuy
nhiên, khác với pháp luật của Đức, đối với
các cá nhân là thành viên trong gia đình của
công dân Ba Lan mà không mang quốc tịch
Ba Lan hoặc một trong các nước thành viên
EU hoặc các cá nhân có quốc tịch của nước
tiếp nhận29, cơ quan đại diện của Ba Lan ở
nước ngoài không có nghĩa vụ phải tiến
hành các hoạt động bảo hộ đối với cá nhân
đó. Hay nói cách khác, cơ quan đại diện của
Ba Lan có toàn quyền quyết định trong việc
có tiến hành các hoạt động trợ giúp lãnh sự
với cá nhân đó hay không.
- Các biện pháp bảo hộ công dân:
Trên thực tế, việc lựa chọn các biện pháp
hoặc cách thức để tiến hành các hoạt động
bảo hộ là do cơ quan đại diện của Ba Lan
quyết định trên cơ sở hoàn cảnh thực tế30.
Điều 19 Luật Lãnh sự Ba Lan năm 2015
quy định nguyên tắc chung trong hoạt động
bảo hộ lãnh sự đối với công dân Ba Lan, đó
là: Cơ quan lãnh sự của Ba Lan có trách
nhiệm tiến hành các hoạt động cần thiết trên
cơ sở pháp luật quốc tế và pháp luật của
nước sở tại để bảo hộ quyền và lợi ích hợp
pháp của công dân Ba Lan trong trường hợp
có dấu hiệu cho thấy công dân Ba Lan bị
nước tiếp nhận phân biệt đối xử hoặc đối xử
bất lợi hơn theo quy định của nước sở tại
hoặc các chuẩn mực quốc tế về quyền con
người. Tiếp đó, Điều 20 của Luật này cũng
đã cụ thể hóa các trường hợp mà cơ quan
lãnh sự của Ba Lan cần hỗ trợ như khi bị
giam giữ, gặp khủng hoảng 31. Đồng thời,
văn bản này cũng quy định một cách cụ thể
những cách thức để tiến hành các hoạt động
trợ giúp và bảo hộ lãnh sự đối với công dân
Ba Lan trong các trường hợp trên32.
Như vậy, có thể thấy, pháp luật các
nước thành viên EU về việc bảo hộ ngoại
giao và lãnh sự của công dân Liên minh khi
ở nước ngoài khá khác nhau, điều đó tùy
thuộc vào quan điểm, chính sách của từng
quốc gia. Mặc dù còn những khác biệt trong
hệ thống pháp luật, nhưng việc xây dựng
được nhóm quy định khung về việc bảo hộ
công dân EU cũng đã cho thấy những nỗ
lực của các quốc gia thành viên Liên minh
trong việc bảo đảm, bảo vệ quyền của công
dân Liên minh tại các quốc gia thứ ba
9 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 20/01/2022 | Lượt xem: 269 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Quy định về bảo hộ công dân của liên minh châu Âu và một số quốc gia thành viên, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
56
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁP Söë 07(335) T4/2017
KINH NGHIÏåM QUÖËC TÏË
“Chúng ta không thể xây dựng một Liên minh châu Âu mà không có người dân, chúng
ta chỉ có thể xây dựng Liên minh châu Âu từ chính những ý tưởng và mong muốn của nhân
dân. Công dân châu Âu là nền tảng quan trọng và phải là trái tim của toàn bộ tiến trình hội
nhập châu Âu”1.
QUY ÀÕNH VÏÌ BAÃO HÖÅ CÖNG DÊN CUÃA LIÏN MINH CHÊU ÊU
VAÂ MÖÅT SÖË QUÖËC GIA THAÂNH VIÏN
Nguyễn Thị Hồng Yến*
Nguyễn Thu Thủy**
* ThS. Khoa Pháp luật quốc tế, Trường Đại học Luật Hà Nội.
** GV. Khoa Pháp luật quốc tế, Trường Đại học Luật Hà Nội.
Thông tin bài viết:
Từ khoá: bảo hộ công dân,
bảo hộ ngoại giao/lãnh sự,
Liên minh châu Âu.
Lịch sử bài viết:
Nhận bài: 02/11/2016
Biên tập: 06/03/2017
Duyệt bài: 27/03/2017
Article Infomation:
Keywords: citizen protection,
diplomatic/consular
protection, EU
Article History:
Received: 02 Nov. 2016
Edited: 06 Mar. 2016
Approved: 27 Mar. 2017
Tóm tắt:
Liên minh châu Âu (EU) được biết đến như là một trong những liên kết khu
vực thành công nhất thế giới khi cho phép công dân có thể di chuyển tự do
trên toàn Liên minh bằng việc thông qua Hiệp ước Schengen. Trong lĩnh vực
bảo vệ ngoại giao và lãnh sự, EU cũng có một hệ thống các chính sách đặc
biệt để bảo vệ công dân của châu Âu khi họ đang ở nước ngoài. Bài viết giới
thiệu, phân tích và đưa ra những ý kiến bình luận về các quy định hiện hành
của EU và pháp luật một số quốc gia thành viên về bảo hộ công dân và mối
quan hệ giữa các quy định của pháp luật Liên minh châu Âu với các quốc
gia thành viên.
Abstract:
The European Union (EU) has been known as one of the most successful re-
gional integrations in the world as it allows the free movements of its citizens
throughout the Union by the Schengen Agreement. Regarding the diplomatic
aspect and consular protection, the EU also has issued a system of special
policies to protect their citizens when he/she is abroad. This article focuses
on the analysis and comments to the provisions on citizen protection in the
EU laws and the legal system in some EU’s members.
1 Viviane Reding - Vice-President of the European Commission, Commissioner for Justice, Fundamental Rights and
Citizenship, EU Citizenship report 2013,
57
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁPSöë 07(335) T4/2017
KINH NGHIÏåM QUÖËC TÏË
Từ khi thành lập cho đến nay, với
những nỗ lực không ngừng trong việc xây
dựng cơ chế để bảo vệ và thúc đẩy các
quyền cơ bản cho công dân, EU đã trở
thành một trong những khu vực phát triển
và thành công nhất trên thế giới với mô hình
ở cấp độ toàn Liên minh. Đồng thời, Quy
chế công dân châu Âu đã trở thành một
“biểu tượng” không giới hạn cho sự thống
nhất, đoàn kết và phát triển của EU. Nhằm
đảm bảo sự thụ hưởng một cách rộng rãi và
đầy đủ nhất các quyền của công dân, EU
dường như đang có những bước đi đột phá
hơn nữa nhằm nỗ lực mang lại cho công dân
của Liên minh một cơ chế hỗ trợ đặc biệt
mà chưa có bất kỳ khu vực nào đạt được,
đó chính là cơ chế bảo hộ công dân của
Liên minh tại quốc gia thứ ba bên ngoài
Liên minh, nơi quốc gia mà người đó mang
quốc tịch chưa có đại diện.
1. Khung pháp luật của Liên minh châu
Âu về bảo hộ ngoại giao và lãnh sự đối
với công dân châu Âu tại các quốc gia
bên ngoài Liên minh
a. Cơ sở pháp lý ghi nhận quyền được
bảo hộ tại một nước thứ ba không có đại
diện của công dân châu Âu
Quyền được bảo hộ ngoại giao và
lãnh sự của công dân EU tại một nước thứ
ba, nơi quốc gia thành viên họ mang quốc
tịch không có đại diện (sau đây gọi là công
dân không có đại diện - unrepresented
citizen), là một trong những quyền đặc thù
trong quy chế công dân EU được ghi nhận
trong các văn kiện quan trọng của EU như:
Điều 20(2c) và Điều 23 của Hiệp ước Chức
năng của EU (TFEU) - trước đây là Điều 20
Hiệp ước về thành lập Cộng đồng châu Âu
(TEC), Điều 46 của Hiến chương về các
Quyền cơ bản của EU
Theo các văn kiện pháp lý này, quy
định có tính chất nòng cốt liên quan đến vấn
đề bảo hộ đối với công dân châu Âu là:
“công dân của Liên minh có quyền được
hưởng sự bảo hộ ngoại giao và lãnh sự từ
các cơ quan ngoại giao, lãnh sự của bất kỳ
nước thành viên nào trong cùng một điều
kiện tương tự trên lãnh thổ của một quốc gia
thứ ba nơi mà quốc gia họ là công dân
không có đại diện”2. Quy định này - về mặt
pháp lý và thực tiễn, đã trao cho các cá nhân
là công dân của bất kỳ một nước thành viên
nào trong EU quyền được yêu cầu bảo hộ và
đối xử bình đẳng như nhau từ các cơ quan
lãnh sự, ngoại giao của bất kỳ một nước
thành viên nào khác trên lãnh thổ của một
nước thứ ba bên ngoài Liên minh mà quốc
gia họ chưa có đại diện. Cụm từ “công dân
không có đại diện” (unrepresented citizen)
trong các văn kiện này được hiểu là những
cá nhân mang quốc tịch của một hoặc một
số quốc gia thành viên EU, nhưng quốc gia
mà họ có quốc tịch chưa có các cơ quan đại
diện tại nước thứ ba bên ngoài Liên minh -
nơi họ cần sự bảo hộ3. Còn thuật ngữ “nước
thứ ba” (third country) trong trường hợp
này là chỉ đến các quốc gia bên ngoài EU,
nơi mà quốc gia của người có yêu cầu bảo
hộ mang quốc tịch chưa thiết lập cơ quan
đại diện ngoại giao, cơ quan lãnh sự hay
một lãnh sự danh dự4.
Để hiện thực hóa mục tiêu thiết lập
một cơ chế bảo hộ công dân ở cấp độ liên
minh, Hội đồng châu Âu cũng kêu gọi các
quốc gia thành viên “nên cung cấp sự bảo
hộ lãnh sự cho bất kỳ công dân nào của
2 Xem Chỉ thị của Hội đồng số 2015/637 ngày 20/4/2015 về các biện pháp phối hợp và hợp tác để tạo điều kiện bảo hộ
lãnh sự cho công dân của Liên minh tại các nước thứ ba không có đại diện và bãi bỏ Quyết định số 95/553/EC tại
3 Xem Điều 4 Chỉ thị của Hội đồng số 2015/637 ngày 20/4/2015, tlđd.
4 Xem Điều 6 Chỉ thị của Hội đồng số 2015/637 ngày 20/4/2015, tlđd.
58
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁP Söë 07(335) T4/2017
KINH NGHIÏåM QUÖËC TÏË
Liên minh tại một nước thứ ba, nơi mà quốc
gia họ là công dân không có đại diện, trong
cùng một điều kiện như công dân của nước
mình”5, đồng thời nhấn mạnh: “các quốc
gia thành viên phải đưa ra những luật lệ cần
thiết và khởi động những cuộc đàm phán
quốc tế để thực thi sự bảo hộ này”6.
Trên cơ sở quy định của TFEU (trước
đây là TEC) và Hiến chương về các Quyền
cơ bản, EU cũng đã ban hành một số văn
bản và tài liệu nhằm thực thi các quy định
về bảo hộ ngoại giao/lãnh sự đối với công
dân của Liên minh tại một nước thứ ba như:
Quyết định số 95/553/EEC của Đại diện
chính phủ các nước thành viên và Hội đồng
châu Âu ngày 18/12/1995 về bảo hộ công
dân EU của các cơ quan đại diện ngoại giao
và cơ quan lãnh sự7 và Quyết định số
96/409/CFSP liên quan tới các tài liệu du
lịch khẩn cấp; Tài liệu Xanh về bảo hộ
ngoại giao và lãnh sự đối với công dân EU
ở các nước thứ ba được Ủy ban châu Âu
thông qua tháng 11/2006, trong đó đề ra các
ý tưởng được xem xét để tăng cường quyền
này của công dân EU; tháng 12/2007, Ủy
ban châu Âu đã xây dựng Kế hoạch hành
động của Ủy ban giai đoạn 2007-2009
nhằm tăng cường bảo hộ lãnh sự và nâng
cao nhận thức về quyền được bảo hộ cho
công dân EU; ngày 14/12/2011, Ủy ban
châu Âu đề xuất một Chỉ thị về bảo vệ lãnh
sự đối với công dân EU có/lãnh sự Đại sứ
quán không được đại diện trong một nước
thứ ba8; Chỉ thị số 2015/637 của Hội đồng
châu Âu về bảo hộ lãnh sự ngày
20/4/2015
Như vậy có thể thấy rằng, vấn đề đầu
tiên và cũng được coi là quan trọng nhất mà
các văn kiện này đề cập là việc ghi nhận
quyền được yêu cầu nhận sự bảo hộ của
công dân EU từ bất kỳ quốc gia thành viên
nào trong Liên minh, đồng thời quyền này
cũng được coi là đối tượng xem xét của các
cơ quan tư pháp. Điều này cũng đồng nghĩa
với việc tiếp nhận một yêu cầu bảo hộ từ
công dân không có đại diện của bất kỳ nước
thành viên nào sẽ là nghĩa vụ bắt buộc của
quốc gia nhận được yêu cầu. Một quyết
định từ chối yêu cầu bảo hộ sẽ là cơ sở cho
việc khởi động các thủ tục tư pháp cần thiết
tại Tòa án của quốc gia đó hoặc Tòa án công
lý châu Âu.
Vấn đề đặt ra là quyền được yêu cầu
bảo hộ nên xem xét là một quyền cơ bản
(right) có tính chất tự nhiên, vốn có hay là
một quyền luật định (entitlement). Cho đến
nay, vấn đề này vẫn còn nhiều tranh cãi
trong nội bộ các quốc gia thành viên của
EU. Trong báo cáo dự án của Chương trình
CARE về bảo hộ ngoại giao và lãnh sự -
khung pháp luật của các quốc gia thành viên
của EU được thực hiện bởi Trường Đại học
Vienna vào năm 20109 - các báo cáo viên
của Chương trình CARE đã trình bày một
cách tổng quát về pháp luật của các quốc
gia thành viên EU về bảo hộ công dân,
trong đó chỉ ra một số lượng khá khiêm tốn
các quốc gia chấp nhận và coi nó như một
quyền cơ bản (khoảng 10 quốc gia), số còn
lại đa phần chưa thể hiện quan điểm thực sự
rõ ràng và đây có lẽ cũng chính là lý do vì
sao các quốc gia thành viên còn chần chừ
5 Xem Chỉ thị của Hội đồng số 2015/637 ngày 20/4/2015, tlđd.
6 Điều 23 TFEU tại
7 Quyết định này hiện đã được thay thế bởi Chỉ thị số 2015/637 của Hội đồng châu Âu về bảo hộ lãnh sự ngày 20/4/2015.
8 Dự thảo pháp lệnh này phác thảo các biện pháp hợp tác và phối hợp cần thiết để tạo điều kiện bảo vệ lãnh sự vì lợi
ích của các công dân và các cơ quan lãnh sự, đồng thời cho ra đời trang web về bảo hộ lãnh sự cho công dân EU tại
địa chỉ
9 Xem CARE Project Report “Consular and Diplomatic Protection – Legal Framework in the EU Member States” –
12/2010.
59
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁPSöë 07(335) T4/2017
KINH NGHIÏåM QUÖËC TÏË
10 Xem Igor Merheim-Eyre (2015), “Consular Protection to EU citizens in third countries: A loss of interest?”, Vocal
International (July 7, 2015) Tại
third-countries-loss-interest-writes-igor-merheim-eyre/.
11 Khoản 1 Điều 52 Hiến chương về các quyền cơ bản của EU quy định: “Bất kỳ sự giới hạn nào liên quan đến việc
thực hiện các quyền và tự do đã được ghi nhận tại Hiến chương này phải trên cơ sở các quy định của pháp luật và sự
tôn trọng bản chất của các quyền và tự do đó. Theo nguyên tắc tương xứng, những giới hạn này chỉ được thực hiện
nếu chúng thực sự cần thiết và phù hợp với mục tiêu chung đã được Liên minh ghi nhận hoặc nó là nhằm bảo vệ các
quyền và tự do của những người khác”,
/EN/TXT/PDF/?uri=CELEX:12012P/TXT&from=EN.
12 Xem Chỉ thị số 2015/637 của Hội đồng EU về các biện pháp phối hợp và hợp tác để thực hiện việc bảo hộ cho công
dân EU tại nước thứ ba không có đại diện và bãi bỏ Quyết định số 95/553/EC,
tại
trong việc phê chuẩn Chỉ thị mới nhất số
2015/637 của Hội đồng EU về các biện
pháp phối hợp và hợp tác để thực hiện việc
bảo hộ cho công dân EU tại nước thứ ba
không có đại diện. Trong một nghiên cứu
gần đây, ông Igor Merheim-Eyre cũng đã
chỉ ra rằng: một số quốc gia thành viên, bao
gồm cả Vương quốc Anh, đã từ chối chấp
nhận chính thức sự hỗ trợ lãnh sự như là
một quyền cơ bản của công dân EU, mà chỉ
coi đó là một dạng chính sách đối ngoại của
các quốc gia thành viên10. Điều này dẫn đến
hệ lụy là, nếu không coi việc bảo hộ công
dân của các quốc gia thành viên khác tại
nước thứ ba là nghĩa vụ phải thi hành thì
quốc gia này có quyền tiếp nhận hoặc từ
chối một yêu cầu bảo hộ dựa trên quan
điểm, điều kiện và chính sách của chính
quốc gia đó mà không cần lo ngại đến việc
có thể bị đưa ra trước cơ quan tư pháp của
Liên minh. Trong trường hợp đồng ý tiếp
nhận yêu cầu bảo hộ thì việc lựa chọn hình
thức, biện pháp và mức độ bảo hộ là do
quốc gia tiếp nhận bảo hộ tự quyết định dựa
trên pháp luật quốc nội. Quan điểm này có
vẻ khó được chấp nhận vì nó dường như
không phù hợp với nguyên tắc bình đẳng,
không phân biệt đối xử của các văn kiện
pháp lý đã nêu trên, đặc biệt là Điều 23
TFEU. Đối với vấn đề từ chối bảo hộ khi có
yêu cầu từ công dân EU, tác giả Madalina
đã cho rằng, việc từ chối bảo hộ của quốc
gia thành viên được yêu cầu bảo hộ chỉ
được xem xét là hợp lý nếu tuân thủ các
điều kiện được đưa ra tại Điều 52 Hiến
chương EU về các Quyền cơ bản của công
dân11.
Sự đối lập trong quan điểm của các
quốc gia, ở một phương diện nào đó là hoàn
toàn có thể lý giải. Cũng trong nghiên cứu
của mình, Igor Merheim-Eyre đã chỉ ra mối
lo ngại của các quốc gia trước chính sách
bảo hộ công dân của EU, trong đó chủ
quyền quốc gia và tài chính được xem là hai
vấn đề lớn nhất. Bảo hộ công dân vốn dĩ là
công việc thuộc chủ quyền riêng biệt của
các quốc gia, về nguyên tắc, quốc gia chỉ
tiến hành bảo hộ đối với những người mang
quốc tịch của quốc gia mình. Tuy nhiên,
việc bảo hộ đối với công dân của Liên
minh, theo tinh thần của Chỉ thị số
2015/637 là “không nhằm ngăn chặn các
nước thành viên không có đại diện tại nước
thứ ba cung cấp những dịch vụ hỗ trợ thích
hợp cho công dân của mình, hoặc yêu cầu
quốc gia mà công dân của họ đang yêu cầu
bảo hộ chuyển toàn hộ giấy tờ hoặc vụ việc
để họ tự thực hiện việc bảo hộ”12. Điều này
có nghĩa là, việc thừa nhận nghĩa vụ bảo hộ
của các quốc gia thành viên không nhằm
làm mất hoặc hạn chế chủ quyền của quốc
gia đối với việc bảo hộ cho công dân của
nước mình. Bởi vì, theo quy định của pháp
luật quốc tế, tập quán quốc tế và pháp luật
của các quốc gia, cơ quan đại diện ngoại
giao/lãnh sự (trong một số trường hợp đặc
60
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁP Söë 07(335) T4/2017
KINH NGHIÏåM QUÖËC TÏË
biệt là lãnh sự danh dự) là những cơ quan
chịu trách nhiệm đối với vấn đề bảo hộ công
dân ở nước ngoài. Như vậy, trong trường
hợp các bên chưa thiết lập những cơ quan
này, việc bảo hộ sẽ được thực hiện dựa trên
nguyên tắc có đi có lại. Tuy nhiên, việc áp
dụng nguyên tắc này trong thực tiễn đôi khi
còn phải phụ thuộc vào quan hệ thực tế giữa
các quốc gia, do đó việc ghi nhận quyền
được yêu cầu và lựa chọn cơ quan bảo hộ
của công dân EU từ bất kỳ một nước thành
viên nào có cơ quan đại diện trên lãnh thổ
của nước thứ ba là một quy định thực sự cần
thiết nhằm đảm bảo các quyền của công dân
EU luôn được bảo vệ.
Vấn đề tài chính cho các hoạt động
bảo hộ, đặc biệt trong các trường hợp hỗ trợ
khẩn cấp cũng là mối quan tâm lớn của các
quốc gia. Trong khi các nước thành viên
đang phải “vật lộn” với việc cắt giảm ngân
sách cho hoạt động của Bộ Ngoại giao thì
việc thực hiện các hoạt động hỗ trợ này
được xem như một “gánh nặng” tài chính
đối với các quốc gia nhận bảo hộ. Mặc dù
vấn đề tài chính đã được giải quyết theo các
nguyên tắc hoàn trả, nhưng cũng không ít
lần các quốc gia thành viên tham gia hỗ trợ
đã không được nhận lại chi phí thực tế này.
Chính vì vậy, sự dè dặt và cân nhắc của các
quốc gia là điều khó tránh khỏi.
b. Một số quy định về bảo hộ công
dân châu Âu trong Chỉ thị 2015/637 của
Hội đồng châu Âu ngày 20/4/2015 về các
biện pháp phối hợp và hợp tác để bảo hộ
lãnh sự cho công dân không có đại diện tại
các quốc gia thứ ba
l Nguyên tắc bảo hộ:
- Nguyên tắc không phân biệt đối xử
dựa trên quốc tịch của công dân EU: nội
dung nguyên tắc này chỉ ra rằng, công dân
của EU sẽ có quyền được yêu cầu sự bảo hộ
từ bất kỳ nước thành viên nào mà không bị
phân biệt về mặt quốc tịch.
- Các đại sứ quán hoặc lãnh sự quán
các nước thành viên phải tiến hành việc bảo
hộ lãnh sự cho công dân của các nước thành
viên không có đại diện trong các điều kiện
tương tự như đối với công dân của mình.
l Phạm vi bảo hộ
Pháp luật EU tập trung chủ yếu vào
đối tượng là công dân châu Âu (không phân
biệt về quốc tịch) đang sinh sống tại các
quốc gia thứ ba bị rơi vào những hoàn cảnh
đặc biệt như chết, bệnh tật, tai nạn, khủng
bố...
Đối với các thành viên trong gia đình
công dân châu Âu, báo cáo của Ủy ban
Sáng kiến EU đã đề nghị mở rộng đối tượng
hưởng bảo hộ lãnh sự cho cả các thành viên
trong gia đình của công dân EU, ngay cả
khi người đó là công dân của quốc gia thứ
ba. Thực tế là, các quyền của công dân châu
Âu cũng đã được mở rộng tới cả những
thành viên trong gia đình công dân EU dựa
trên những mối liên kết gia đình đặc biệt và
gần gũi của họ với nhau, đồng thời cũng
trên cơ sở thực tế là quyền của gia đình đã
được bảo hộ bởi Tòa án Nhân quyền châu
Âu và Tòa án Luxembourg, do đó quyền
được bảo hộ ngoại giao và lãnh sự nên được
mở rộng tới các thành viên trong gia đình
họ, ít nhất là trong những trường hợp khẩn
cấp.
l Tư cách công dân Liên minh của
người cần sự bảo hộ
Khi một công dân châu Âu ở trong
một hoàn cảnh khó khăn cần sự bảo hộ,
người đó phải chứng minh họ đúng là công
dân của EU bằng cách đưa ra hộ chiếu hoặc
chứng minh thư còn giá trị13. Nếu người đó
13 Xem Điều 8 Chỉ thị số 2015/637 của Hội đồng EU về các biện pháp phối hợp và hợp tác để thực hiện việc bảo hộ cho
công dân EU tại nước thứ ba không có đại diện và bãi bỏ Quyết định số 95/553/EC, tr.2
tại
61
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁPSöë 07(335) T4/2017
KINH NGHIÏåM QUÖËC TÏË
14 Xem Action Plan 2007-2009 tại CELEX%3A52007DC0767.
không thể đưa ra được những tài liệu này
(do đã bị lấy cắp hoặc mất) thì việc xác
minh họ là công dân châu Âu có thể được
tiến hành bằng cách thức khác như lấy xác
nhận của cơ quan ngoại giao hoặc lãnh sự
của chính quốc gia mà người đó là công
dân. Đối với các thành viên trong gia đình
của người cần bảo hộ, cách thức chứng
minh cũng tương tự như vậy.
Khi một quốc gia thành viên nhận
được yêu cầu bảo hộ lãnh sự từ một người
tuyên bố là một công dân không có đại diện,
hoặc được thông báo về tình trạng khẩn cấp
của một người là công dân EU không có đại
diện trên lãnh thổ của một nước thứ ba mà
mình có đại diện, quốc gia thành viên đó sẽ
nhanh chóng tham khảo ý kiến Bộ Ngoại
giao của nước thành viên mà người đó là
công dân trừ những trường hợp khẩn cấp,
tham vấn này sẽ diễn ra trước khi hỗ trợ
ngoại giao/lãnh sự được cung cấp tới người
cần sự bảo hộ.
* Các trường hợp và hình thức bảo hộ
Điều 9 của Chỉ thị ghi nhận những
trường hợp mà công dân EU có thể nhận sự
hỗ trợ bao gồm: (a) bị bắt hoặc giam giữ;
(b) là nạn nhân của tội phạm hoặc một vụ
tai nạn nghiêm trọng hoặc bệnh tật nghiêm
trọng; (d) tử vong; (e) cứu trợ và hồi hương
trong trường hợp khẩn cấp; (f) cung cấp các
tài liệu du lịch khẩn cấp theo quy định tại
Quyết định số 96/409 /CFSP.
Hình thức bảo hộ/hỗ trợ: Trong Kế
hoạch hành động giai đoạn 2007-2009 (Ac-
tion Plan) của Liên minh về hiệu quả của
hoạt động bảo hộ công dân tại nước thứ
ba14, với câu hỏi “bạn có đồng ý rằng các
loại/hình thức giúp đỡ nên phụ thuộc vào
các Đại sứ quán nơi mà bạn yêu cầu nhận
sự bảo hộ tại một nước thứ ba hay không?”,
những người được hỏi đã đưa ra quan điểm
của mình như sau: 62% mong muốn các Đại
sứ quán nên sử dụng chính xác các hình
thức giúp đỡ giống như những hình thức mà
quốc gia thành viên nơi người đó là công
dân sẽ thực hiện; 28% đề nghị các Đại sứ
quán nên cung cấp ít nhất một hình thức hỗ
trợ tương tự, 7% yêu cầu các Đại sứ quán
nên xác định các loại hỗ trợ mà họ cung cấp
và 3% không có ý kiến gì. Điều này cho
thấy, đa phần công dân EU đều mong muốn
nhận được hình thức và loại hỗ trợ tương tự
như các hình thức và loại hỗ trợ mà quốc
gia họ là công dân đang áp dụng. Tuy nhiên,
thực tế cho thấy, bảo hộ công dân EU là
nghĩa vụ và trách nhiệm của các quốc gia
thành viên EU, nhưng việc lựa chọn hình
thức bảo hộ nào lại xuất phát từ quy định
của pháp luật từng quốc gia. Điều này khá
phù hợp với nguyên tắc bảo hộ đã được Chỉ
thị này và các văn kiện pháp luật khác của
EU quy định.
* Về kinh phí và việc hoàn trả kinh
phí cho quốc gia bảo hộ
Thủ tục hoàn trả kinh phí bảo hộ được
ghi nhận cụ thể tại Điều 14 và 15 của Chỉ
thị. Theo đó, nguyên tắc hoàn trả được đưa
ra bao gồm:
Công dân không có đại diện sẽ có
nghĩa vụ ký một cam kết hoàn trả các kinh
phí hỗ trợ cho quốc gia bảo hộ thông qua
quốc gia thành viên mà họ mang quốc tịch.
Quốc gia nhận bảo hộ sẽ có quyền
yêu cầu quốc gia có công dân nhận được sự
hỗ trợ, thay mặt cho công dân của mình,
hoàn trả kinh phí hỗ trợ cho quốc gia nhận
bảo hộ trong khoảng thời gian hợp lý,
không quá 12 tháng. Sau đó, công dân được
bảo hộ sẽ hoàn trả cho quốc gia của họ kinh
phí này.
62
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁP Söë 07(335) T4/2017
KINH NGHIÏåM QUÖËC TÏË
Như vậy, Chỉ thị trên đây đã ghi nhận
khá cụ thể những vấn đề pháp lý chung về
bảo hộ công dân của EU. Mặc dù vẫn còn
những tranh luận khác nhau xung quanh
vấn đề này, nhưng bằng việc thừa nhận
quyền được nhận sự bảo hộ từ bất kỳ quốc
gia thành viên nào khi ở trong những hoàn
cảnh đặc biệt tại một nước thứ ba, EU đã
tạo ra một “sự khác biệt” lớn trong quy chế
công dân của mình, và điều này cũng giúp
EU tiếp tục củng cố hơn nữa mục tiêu phát
triển gắn liền các giá trị nhân văn với lợi ích
kinh tế và hội nhập của toàn khu vực.
2. Pháp luật về bảo hộ ngoại giao/lãnh sự
của một số nước thành viên Liên minh
châu Âu
a. Pháp luật về bảo hộ ngoại
giao/lãnh sự của Đức
- Cơ sở pháp lý: Hoạt động bảo hộ
công dân của Cộng hòa Liên bang Đức
được thực hiện trên cơ sở các điều ước quốc
tế mà Đức là thành viên. Trong hệ thống
pháp luật quốc gia, vấn đề bảo hộ công dân
được quy định trong Hiến pháp, luật và các
văn bản hướng dẫn của các cơ quan hành
chính; trong đó phải kể đến Luật về Viên
chức lãnh sự, chức năng và quyền hạn (gọi
tắt là Luật Lãnh sự) ngày 11/9/197415, Luật
về Cơ quan đại diện Ngoại giao ngày
30/8/199016, Luật về Phí và Lệ phí ở nước
ngoài ngày 21/2/197817 và Pháp lệnh về Phí
và Lệ phí ở nước ngoài ngày 20/12/200118.
- Chủ thể được bảo hộ lãnh sự (và
ngoại giao): Trên thực tế, Hiến pháp Đức
không có quy định về quyền được bảo hộ
ngoại giao hay lãnh sự của công dân Đức
khi ở nước ngoài, mà việc bảo hộ này được
ghi nhận một cách gián tiếp thông qua chức
năng, nhiệm vụ của các cơ quan ngoại
giao/lãnh sự của Đức. Ví dụ, Luật Lãnh sự
của Đức quy định:“viên chức lãnh sự, trong
phạm vi lãnh sự, cần hỗ trợ công dân Đức
đang cần được trợ giúp nếu không còn
phương thức hỗ trợ nào khác có thể sử dụng
trong tình huống khủng hoảng”19, và “nội
dung, hình thức và mức hỗ trợ sẽ được xem
xét phụ thuộc vào các điều kiện tại nước
nhận và mức sống cơ bản của công dân Đức
ở nước đó” Như vậy, có thể nhận thấy,
quyền được bảo hộ lãnh sự hay ngoại giao
không phải là một quyền cơ bản của công
dân Đức và việc quyết định bảo hộ hay
không và các biện pháp hỗ trợ công dân
Đức ở nước ngoài sẽ do cơ quan đại diện
của Đức ở nước tiếp nhận quyết định trong
từng tình huống cụ thể.
Ngoài ra, theo quy định tại Luật Lãnh
sự, các cá nhân không phải là công dân Đức
nhưng là con, cháu và thành viên gia đình
của công dân Đức đang chung sống hoặc đã
chung sống trong thời gian dài với công dân
Đức đó cũng như công dân của các nước
thành viên EU cũng có thể được cơ quan đại
diện ngoại giao, cơ quan lãnh sự của Đức ở
nước tiếp nhận trợ giúp và bảo hộ trong
trường hợp gặp khủng hoảng20.
Bên cạnh đó, trong trường hợp quyết
định từ chối bảo hộ hoặc các quyết định
khác của cơ quan đại diện của Đức xâm
phạm đến quyền lợi hợp pháp của cá nhân
(có thể là công dân Đức hoặc không phải
công dân Đức), cá nhân đó có quyền căn cứ
15 Sửa đổi ngày 18/07/2016; Nguồn: https://www.gesetze-im-internet.de/bundesrecht/konsg/gesamt.pdf .
16 Sửa đổi ngày 14/11/2011; Nguồn: .
17 Sửa đổi ngày 23/7/2013; Nguồn: https://www.gesetze-im-internet.de/bundesrecht/akostg/gesamt.pdf .
18 Sửa đổi ngày 21/12/2007.
19 Điều 5 Luật Lãnh sự Đức.
20 Khoản 2 Điều 5 Luật Lãnh sự Đức.
63
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁPSöë 07(335) T4/2017
KINH NGHIÏåM QUÖËC TÏË
vào khoản 4 Điều 1921 và Điều 322 Hiến
pháp Đức để khởi kiện ra trước toà Hành
chính của Liên bang. Chính vì vậy, dù
không quy định một cách minh thị quyền
được bảo hộ của công dân Đức và công dân
EU khi ở nước ngoài nhưng quy định trên
đã đảm bảo cho các chủ thể này luôn được
bảo hộ trong các trường hợp khẩn cấp như
mất giấy tờ hoặc thiên tai. Bởi lẽ, quyết
định từ chối hỗ trợ của cơ quan đại diện của
Đức trong các trường hợp trên hầu như luôn
bị coi là lạm dụng quyền tự quyết và do đó,
có thể bị khiếu kiện trước Toà án Đức.
- Các biện pháp bảo hộ công dân:
Theo quy định của Luật Lãnh sự, cơ quan
lãnh sự của Đức sẽ tiến hành các hoạt động
trợ giúp lãnh sự trong các trường hợp như
thảm họa thiên nhiên, xung đột vũ trang, bị
giam giữ hoặc bị chết ở nước ngoài,...
Trong trường hợp công dân Đức chết
ở nước ngoài, cơ quan lãnh sự Đức có thể
trợ giúp trong việc thông báo cho người
thân của người đã mất, hỗ trợ đưa thi thể về
nước hoặc tiến hành hỏa táng hoặc chôn
cất23. Đối với công dân EU, cơ quan lãnh
sự Đức có thể hỗ trợ thông báo với chính
phủ của quốc gia nơi có công dân đó hoặc
tiến hành các biện pháp trợ giúp tương tự
như công dân Đức. Nếu công dân Đức bị
giam giữ ở nước ngoài, cơ quan lãnh sự
Đức có thể hỗ trợ liên hệ với người bị bắt
giữ nhằm đảm bảo các tiêu chuẩn tối thiểu
đối với việc giam giữ được tôn trọng cũng
như hỗ trợ pháp lý cho người bị bắt giam
khi có yêu cầu24. Khi công dân Đức và các
thành viên trong gia đình bị đe dọa bởi thảm
họa thiên nhiên, chiến tranh, xung đột vũ
trang hoặc các sự kiện tương tự, cơ quan đại
diện của Đức ở nước tiếp nhận sẽ tiến hành
các biện pháp cần thiết để hỗ trợ cho các
chủ thể trên25.
b. Pháp luật về bảo hộ ngoại
giao/lãnh sự của Ba Lan
- Cơ sở pháp lý: Hoạt động bảo hộ
công dân của cơ quan đại diện ngoại giao
Ba Lan ở nước ngoài được thực hiện trên
cơ sở các điều ước quốc tế, pháp luật EU
cũng như các văn bản pháp luật quốc gia.
Ngoài ra, vấn đề bảo hộ công dân còn được
ghi nhận trong các văn bản pháp luật của Ba
Lan, trong đó phải kể đến Hiến pháp Ba
Lan năm 199726, Luật về Cơ quan ngoại
giao năm 200127, Luật Lãnh sự Ba Lan năm
201528 và các văn bản hướng dẫn thi hành.
- Chủ thể được hưởng quyền bảo hộ
công dân: Theo Điều 36 Hiến pháp Ba Lan,
công dân Ba Lan phải được quyền bảo hộ
bởi Nhà nước Ba Lan khi ở nước ngoài. Như
vậy, khác với Đức, ở Ba Lan, quyền được
bảo hộ về mặt ngoại giao là quyền hiến định
của công dân Ba Lan. Quy định này một mặt
trao quyền cho công dân Ba Lan, mặt khác,
ấn định nghĩa vụ đối với cơ quan nhà nước
của Ba Lan trong việc trợ giúp và bảo hộ
công dân nước mình. Trong trường hợp cơ
quan đại diện của Ba Lan ở nước ngoài
không tiến hành các hoạt động trợ giúp cần
thiết khi công dân Ba Lan đang gặp khó
21 Theo khoản 4 Điều 19 Hiến pháp của Cộng hoà Liên bang Đức “Nếu quyền của cá nhân bị xâm phạm bởi cơ quan
nhà nước, cá nhân có thể khởi kiện ra toà án”.
22 Điều 3 Hiến pháp của Cộng hoà Liên bang Đức quy định: “Tất cả các cá nhân đều bình đẳng trước pháp luật”.
23 Điều 9 Luật Lãnh sự Đức.
24 Điều 7 Luật Lãnh sự Đức.
25 Điều 6 Luật Lãnh sự Đức.
26 isap.sejm.gov.pl/DetailsServlet?id=WDU19970780483.
27 Ban hành ngày 09/11/2001, có hiệu lực kể từ ngày 10/05/2002;
28 Ban hành ngày 31/08/2015, có hiệu lực ngày 01/11/2015;
64
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁP Söë 07(335) T4/2017
KINH NGHIÏåM QUÖËC TÏË
khăn, khủng hoảng cá nhân đó có thể khởi
kiện cơ quan cơ quan đại diện của Ba Lan ở
nước ngoài trước tòa án Ba Lan và có quyền
yêu cầu bồi thường thiệt hại.
Bên cạnh đó, theo quy định tại Điều
21 Luật Lãnh sự Ba Lan năm 2015, cơ quan
lãnh sự của Ba Lan sẽ tiến hành trợ giúp đối
với công dân của các nước thành viên khác
của EU tại nước thứ ba không có đại diện
tương tự như đối với công dân Ba Lan. Tuy
nhiên, khác với pháp luật của Đức, đối với
các cá nhân là thành viên trong gia đình của
công dân Ba Lan mà không mang quốc tịch
Ba Lan hoặc một trong các nước thành viên
EU hoặc các cá nhân có quốc tịch của nước
tiếp nhận29, cơ quan đại diện của Ba Lan ở
nước ngoài không có nghĩa vụ phải tiến
hành các hoạt động bảo hộ đối với cá nhân
đó. Hay nói cách khác, cơ quan đại diện của
Ba Lan có toàn quyền quyết định trong việc
có tiến hành các hoạt động trợ giúp lãnh sự
với cá nhân đó hay không.
- Các biện pháp bảo hộ công dân:
Trên thực tế, việc lựa chọn các biện pháp
hoặc cách thức để tiến hành các hoạt động
bảo hộ là do cơ quan đại diện của Ba Lan
quyết định trên cơ sở hoàn cảnh thực tế30.
Điều 19 Luật Lãnh sự Ba Lan năm 2015
quy định nguyên tắc chung trong hoạt động
bảo hộ lãnh sự đối với công dân Ba Lan, đó
là: Cơ quan lãnh sự của Ba Lan có trách
nhiệm tiến hành các hoạt động cần thiết trên
cơ sở pháp luật quốc tế và pháp luật của
nước sở tại để bảo hộ quyền và lợi ích hợp
pháp của công dân Ba Lan trong trường hợp
có dấu hiệu cho thấy công dân Ba Lan bị
nước tiếp nhận phân biệt đối xử hoặc đối xử
bất lợi hơn theo quy định của nước sở tại
hoặc các chuẩn mực quốc tế về quyền con
người. Tiếp đó, Điều 20 của Luật này cũng
đã cụ thể hóa các trường hợp mà cơ quan
lãnh sự của Ba Lan cần hỗ trợ như khi bị
giam giữ, gặp khủng hoảng31. Đồng thời,
văn bản này cũng quy định một cách cụ thể
những cách thức để tiến hành các hoạt động
trợ giúp và bảo hộ lãnh sự đối với công dân
Ba Lan trong các trường hợp trên32.
Như vậy, có thể thấy, pháp luật các
nước thành viên EU về việc bảo hộ ngoại
giao và lãnh sự của công dân Liên minh khi
ở nước ngoài khá khác nhau, điều đó tùy
thuộc vào quan điểm, chính sách của từng
quốc gia. Mặc dù còn những khác biệt trong
hệ thống pháp luật, nhưng việc xây dựng
được nhóm quy định khung về việc bảo hộ
công dân EU cũng đã cho thấy những nỗ
lực của các quốc gia thành viên Liên minh
trong việc bảo đảm, bảo vệ quyền của công
dân Liên minh tại các quốc gia thứ ba n
29 Điều 49 Luật Lãnh sự Ba Lan năm 2015.
30 Phán quyết số IACa 580/2007 ngày 13/12/2007 của Toà án Ba Lan trong vụ Piotr N. v. State’s Treasury.
31 Xem Điều 20 Luật Lãnh sự Ba Lan năm 2015
32 Điều 27 Luật về Chức năng của cơ quan lãnh sự Ba Lan.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1 CARE Project Report “Consular and Diplomatic Protection – Legal Framework in the EU Member States”, 12/2010.
2 Chỉ thị của Hội đồng số 2015/637 ngày 20/4/2015 về các biện pháp phối hợp và hợp tác để tạo điều kiện bảo hộ lãnh
sự cho công dân của Liên minh tại các nước thứ ba không có đại diện và bãi bỏ Quyết định số 95/553/EC .
3 Commission of the European Communities, Effective consular protection in third countries: the contribution of the
European Union, Action Plan 2007-2009, Brussels 12/2007.
4 Igor Merheim-Eyre, Consular Protection to EU citizens in third countries: A loss of interest?, Vocal International,
July 7, 2015.
5 Phán quyết số IACa 580/2007 ngày 13/12/2007 của Toà án Ba Lan trong vụ Piotr N. v. State’s Treasury.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- quy_dinh_ve_bao_ho_cong_dan_cua_lien_minh_chau_au_va_mot_so.pdf