Từ những phân tích ở trên, tác giả kiến nghị nên quy
định về khái niệm nhãn hiệu vừa theo hướng mở, vừa theo
hướng liệt kê để có thể vừa làm rõ được điều kiện cụ thể
để một dấu hiệu được xem là nhãn hiệu, vừa không giới
hạn các dấu hiệu khác cũng có thể được xem là nhãn hiệu.
Sự thay đổi này sẽ dẫn đến việc thừa nhận những dấu hiệu
không nhìn thấy được như dấu hiệu âm thanh, mùi, vị có thể
cảm nhận được thông qua các giác quan khác vẫn có thể trở
thành nhãn hiệu. Cụ thể, sửa đổi khái niệm về nhãn hiệu tại
Khoản 16 Điều 4 Luật SHTT như sau: “Nhãn hiệu là dấu
hiệu có thể nhận biết được thông qua các giác quan của con
người, có thể được thể hiện dưới các dạng nhìn thấy được:
chữ cái, từ ngữ, hình vẽ, hình ảnh, kể cả hình ba chiều hoặc
sự kết hợp các yếu tố đó, được thể hiện bằng một hoặc nhiều
màu sắc; hoặc dưới dạng không nhìn thấy được: âm thanh,
mùi, vị hoặc các dạng khác và phải có khả năng phân biệt
giữa các hàng hóa, dịch vụ khác nhau”. Với khái niệm này,
một dấu hiệu trở thành nhãn hiệu khi đáp ứng các điều kiện
sau: Thứ nhất, nhãn hiệu trước hết phải là dấu hiệu. Các dấu
hiệu này được thể hiện dưới các dạng: chữ cái, từ ngữ, hình
vẽ, hình ảnh, kể cả hình ba chiều hoặc sự kết hợp các yếu tố
đó, được thể hiện bằng một hoặc nhiều màu sắc; âm thanh;
mùi; vị hoặc các dạng khác. Thứ hai, dấu hiệu đó phải được
con người cảm nhận được thông qua một hoặc một số giác
quan khác nhau. Thứ ba, dấu hiệu đó phải có khả năng phân
biệt hàng hóa, dịch vụ của chủ thể kinh doanh này với hàng
hóa, dịch vụ của chủ thể kinh doanh khác. Mặt khác, khái
niệm này đã liệt kê cụ thể các cách thức thể hiện của dấu
hiệu so với trước đây, không chỉ có chữ cái, từ ngữ, hình
vẽ, hình ảnh, kể cả hình ba chiều hoặc sự kết hợp các yếu tố
đó, được thể hiện bằng một hoặc nhiều màu sắc mà còn bổ
sung thêm các dấu hiệu về âm thanh, mùi, vị hoặc các dạng
khác nhằm đáp ứng sự đổi mới, sáng tạo của các chủ thể
kinh doanh, phù hợp với nhu cầu của thực tiễn xã hội cũng
như luật pháp quốc tế. Bên cạnh đó, điều này cũng góp phần
quan trọng trong việc đề ra các quy định cho phép đăng ký
bảo hộ nhãn hiệu đối với các dấu hiệu phi truyền thống, giúp
các chủ thể quyền có thể tiếp cận và khai thác tốt hơn những
loại dấu hiệu mới này.
6 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 21/01/2022 | Lượt xem: 242 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Quy định về bảo hộ nhãn hiệu phi truyền thống của một số quốc gia và kinh nghiệm cho Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
44
Khoa học Xã hội và Nhân văn
62(10) 10.2020
Tài sản trí tuệ ngày càng cho thấy vai trò quan trọng trong nền kinh tế. Tỷ trọng tài sản trí tuệ trong cơ cấu vốn của các doanh nghiệp ngày càng lớn. Trong bối cảnh toàn cầu hoá kinh tế,
việc tham gia vào sân chơi chung là điều cần thiết đối với
các doanh nghiệp trong nước nói riêng và nền kinh tế Việt
Nam nói chung. Các quy định về bảo hộ quyền sở hữu công
nghiệp, trong đó có nhãn hiệu đã được quy định trong Luật
SHTT 2005, song vẫn còn thiếu những quy định về bảo hộ
nhãn hiệu phi truyền thống, đòi hỏi sớm nghiên cứu, hoàn
thiện nhằm đáp ứng yêu cầu chung của các chủ thể tham gia
nền kinh tế.
Khái quát về nhãn hiệu phi truyền thống
Hiệp hội nhãn hiệu quốc tế (INTA) phân loại nhãn
hiệu thành 2 loại chính: nhãn hiệu truyền thống (conventional
trademark) và nhãn hiệu phi truyền thống (non-conventional
trademark). Hiệp định TRIPs tuy quy định tương đối rộng
về nhãn hiệu nhưng không trực tiếp đề cập đến khái niệm
nhãn hiệu phi truyền thống. Năm 1994, khi xây dựng Hiệp
ước luật nhãn hiệu, WIPO đã đề cập đến nhãn hiệu phi
truyền thống, tuy nhiên quy định còn tương đối đơn giản,
chỉ đề cập đến một số vấn đề về thủ tục đăng ký nhãn hiệu
màu sắc và nhãn hiệu ba chiều.
Dù không nêu cụ thể thế nào là nhãn hiệu phi truyền
thống nhưng pháp luật của một số quốc gia phát triển đã đề
cập đến âm thanh, mùi hương - những dấu hiệu được xem là
phi truyền thống. Ví dụ như trong Bộ luật SHTT Cộng hòa
Pháp quy định tại Điều L.711-1: những dấu hiệu âm thanh
như: âm thanh, câu nhạc, những dấu hiệu hình như: hình
vẽ, nhãn hiệu, con dấu, biên vải (lisière), hình nổi (relief),
hình ảnh ba chiều (hologramme), logo, hình ảnh tổng hợp,
hình dáng, kể cả hình dáng của sản phẩm hoặc hình dáng
bao bì đóng gói hoặc dịch vụ, cách sắp xếp màu sắc, phối
hợp màu sắc hoặc phối hợp sắc thái màu sắc1 [1]. Cũng
cần lưu ý rằng, Bộ luật SHTT Cộng hòa Pháp đã được sửa
đổi ngày 13/11/2019, có hiệu lực từ ngày 13/12/2019 (nội
dung không thay đổi so với bản tiếng Anh đã trích dẫn ở
trên)2. Từ những quy định trên, có thể khái quát về nhãn
hiệu phi truyền thống như sau: nhãn hiệu phi truyền thống là
Quy định về bảo hộ nhãn hiệu
phi truyền thống của một số quốc gia
và kinh nghiệm cho Việt Nam
Trần Cao Thành*
Tóm tắt:
Trên thế giới, nhãn hiệu phi truyền thống đã được thừa nhận và bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp. Đối với Việt Nam,
mặc dù Luật Sở hữu trí tuệ 2005, sửa đổi bổ sung năm 2009, 2019 (Luật SHTT 2005) đã đề cập đến các dấu hiệu
phi truyền thống như dấu hiệu hình ba chiều và dấu hiệu màu trong điều kiện đối với nhãn hiệu được bảo hộ nhưng
trên thực tế vẫn còn một số bất cập trong việc bảo hộ những dấu hiệu này. Trên cơ sở tham khảo kinh nghiệm của
một số quốc gia và pháp luật quốc tế, bài viết phân tích, bình luận những bất cập trong quy định của pháp luật Việt
Nam, từ đó đưa ra kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật SHTT Việt Nam trong lĩnh vực bảo hộ nhãn hiệu, trong đó
có nhãn hiệu phi truyền thống.
Từ khóa: bảo hộ nhãn hiệu, nhãn hiệu, nhãn hiệu phi truyền thống.
Chỉ số phân loại: 5.5
*Email: thanhtc@hul.edu.vn
1Nguyên văn bản dịch tiếng Anh: A trademark or service mark is a sign capable
of graphic representation which serves to distinguish the goods or services
of a natural or legal person. The following, in particular, may constitute
such a sign: a) Denominations in all forms, such as: words, combinations of
words, surnames and geographical names, pseudonyms, letters, numerals,
abbreviations; b) Audible signs such as: sounds, musical phrases; c) Figurative
signs such as: devices, labels, seals, selvedges, reliefs, holograms, logos,
synthesized images; shapes, particularly those of a product or its packaging, or
those that identify a service; arrangements, combinations or shades of color”.
2Nguyên văn Điều L711-1 như sau:
“La marque de produits ou de services est un signe servant à distinguer les
produits ou services d’une personne physique ou morale de ceux d’autres
personnes physiques ou morales.
Ce signe doit pouvoir être représenté dans le registre national des marques de
manière à permettre à toute personne de déterminer précisément et clairement
l’objet de la protection conférée à son titulaire” [Code de la Propriété
Intellectuelle, Article L711-1 (Modifié par Ordonnance n°2019-1169 du 13
novembre 2019 - art.3)].
Trường Đại học Luật, Đại học Huế
Ngày nhận bài 20/5/2020; ngày chuyển phản biện 22/5/2020; ngày nhận phản biện 26/6/2020; ngày chấp nhận đăng 30/6/2020
45
Khoa học Xã hội và Nhân văn
62(10) 10.2020
bất kỳ loại nhãn hiệu mới nào không thuộc danh mục nhãn
hiệu thông thường đã có từ trước (ví dụ: bao gồm các chữ
cái, chữ số, từ, logo, hình ảnh, biểu tượng hoặc kết hợp của
một hoặc nhiều yếu tố này) nhưng vẫn có thể đáp ứng được
điều cần thiết của nhãn hiệu là khả năng phân biệt. Căn cứ
vào dấu hiệu nhận biết bằng thị giác, có thể phân loại nhãn
hiệu phi truyền thống thành 2 loại sau: nhãn hiệu phi truyền
thống có thể nhận biết bằng thị giác (bao gồm nhãn hiệu
ba chiều, nhãn hiệu màu, nhãn hiệu động) và nhãn hiệu phi
truyền thống không nhận biết được bằng thị giác (bao gồm
nhãn hiệu âm thanh, nhãn hiệu mùi, nhãn hiệu nhận biết
bằng vị giác và nhãn hiệu nhận biết bằng xúc giác).
Quy định về bảo hộ nhãn hiệu phi truyền thống trong các
điều ước quốc tế và một số quốc gia trên thế giới
Quy định trong các điều ước quốc tế
Hiệp định TRIPS 1994 về các khía cạnh liên quan tới
thương mại của quyền SHTT ra đời đã nêu rõ khái niệm
nhãn hiệu theo Điều 15.1 như sau: “Bất kỳ một dấu hiệu,
hoặc tổ hợp dấu hiệu nào, có khả năng phân biệt hàng hóa
hoặc dịch vụ của các doanh nghiệp khác đều có thể làm
nhãn hiệu hàng hóa. Các dấu hiệu đó, đặc biệt là các từ, kể
cả tên riêng, các chữ cái, chữ số, các yếu tố hình họa và tổ
hợp các sắc màu cũng như tổ hợp bất kỳ của các dấu hiệu
đó phải có khả năng được đăng ký là nhãn hiệu hàng hóa”.
Định nghĩa không hạn chế các loại dấu hiệu có thể cấu thành
nhãn hiệu, chỉ yêu cầu dấu hiệu cấu thành nhãn hiệu phải có
“khả năng phân biệt”. Hiệp định TRIPS cũng cho phép các
thành viên có thể quy định về nhãn hiệu không phải là dấu
hiệu nhìn thấy được, có nghĩa là các dấu hiệu cấu thành nên
nhãn hiệu có thể là các loại dấu hiệu nhận biết được bằng
các giác quan khác ngoài thị giác.
Tổ chức SHTT thế giới (WIPO) đưa ra khái niệm về nhãn
hiệu như sau3: “Nhãn hiệu được hiểu là một dấu hiệu đặc
trưng để chỉ rõ một loại hàng hóa hay một loại dịch vụ nào
đó được một cá nhân hay doanh nghiệp nhất định sản xuất
hay cung cấp” [2]. Theo định nghĩa này, WIPO cho rằng
nhãn hiệu ngoài chức năng là phân biệt các loại hàng hóa hay
dịch vụ thì còn là dấu hiệu xác định nhà sản xuất hay cung
cấp loại dịch vụ đó.
Hiệp ước Luật Nhãn hiệu (TLT: Trademark Law Treaty)
của WIPO được ký ngày 17/10/1994 và có hiệu lực từ ngày
1/8/1998 là điều ước quốc tế đầu tiên đề cập đến việc bảo hộ
một trong số các loại nhãn hiệu phi truyền thống. Tại Khoản
1 Điều 2 Hiệp ước Luật Nhãn hiệu quy định rõ hiệp ước này
áp dụng cả đối với nhãn hiệu ba chiều, tuy nhiên, chỉ những
nước có quy định về nhãn hiệu ba chiều mới áp dụng điều
ước này cho nhãn hiệu ba chiều [3]. Ngoài ra, Hiệp ước Luật
Nhãn hiệu quy định phạm vi áp dụng là các dấu hiệu nhìn
Provision on the protection
of non-conventional trademark
in some countries and experiences
for Vietnam
Cao Thanh Tran*
University of Law, Hue University
Received 20 May 2020; accepted 30 June 2020
Abstract:
In the world, the non-conventional trademark has been
recognised and protected industrial property rights.
While in Vietnam, although Intellectual Property Law
2005 - amended in 2009, 2019 (IP Law 2005) - referred
to non-conventional signs such as holographic signs and
color signs in protected trademark conditions, in the
fact that there are some inadequacies in this protection.
Based on the reference experiences of some countries
and international laws, the article analysed and
commented on the inadequacies of Vietnam law, thereby
making some solutions to improve Vietnam Intellectual
Property Law on trademark protection, including non-
conventional trademarks.
Keywords: non-conventional trademark, trademark,
trademark protection.
Classification number: 5.5
3Nguyên văn là: a trademark is a sign capable of distinguishing the goods or
services of one enterprise from those of other enterprises.
46
Khoa học Xã hội và Nhân văn
62(10) 10.2020
thấy được, điều này có nghĩa là ngoài nhãn hiệu ba chiều ra,
các loại nhãn hiệu khác như nhãn hiệu màu, nhãn hiệu động
cũng thuộc phạm vi điều chỉnh của Hiệp ước, điều này có
nghĩa là Hiệp ước đã đồng thời loại trừ các dấu hiệu không
nhìn thấy được như âm thanh, mùi, vị, dấu hiệu nhận biết
bằng xúc giác ra khỏi phạm vi điều chỉnh.
Hiệp ước Singapore về Luật Nhãn hiệu (Singapore Treaty
on the Law of Trademarks) được thông qua tại Singapore
ngày 27/3/2006 của WIPO đã áp dụng cho tất cả các loại
dấu hiệu có thể đăng ký làm nhãn hiệu của các bên ký kết.
Chi tiết hướng dẫn thi hành Hiệp ước này quy định các loại
nhãn hiệu có thể được đăng ký bảo hộ bao gồm nhãn hiệu
ba chiều, nhãn hiệu màu sắc, nhãn hiệu hologram, nhãn hiệu
động, nhãn hiệu vị trí và các loại nhãn hiệu không nhận biết
bằng thị giác [4]. Các loại nhãn hiệu không nhận biết bằng
thị giác thường là nhãn hiệu âm thanh và nhãn hiệu mùi vị.
Hiệp ước quy định cho phép các bên ký kết đăng ký nhãn
hiệu là tất cả các loại dấu hiệu không bị cấm trong Công
ước Paris, ngoài ra “Các quy định theo Hiệp ước Singapore
về Luật Nhãn hiệu” còn liệt kê cụ thể 6 loại nhãn hiệu phi
truyền thống được áp dụng. Hiệp ước này cũng không bắt
buộc các bên ký kết phải thực hiện nghĩa vụ bảo hộ tất cả
các loại nhãn hiệu phi truyền thống, mà tại Điều 29 của Hiệp
ước quy định, bất kỳ quốc gia hay tổ chức phi chính phủ nào
cũng có thể áp dụng quy định về bảo lưu phạm vi bảo hộ các
loại nhãn hiệu phi truyền thống. Như vậy, có thể thấy pháp
luật quốc tế đã có những phát triển trong nhận thức đối với
vấn đề nhãn hiệu phi truyền thống.
Quy định trong các Hiệp định đa phương mà Việt Nam
là thành viên
Tại Hiệp định đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái
Bình Dương (CPTPP), Chương 18 có quy định về nhãn hiệu
thương mại (tương đương với nhãn hiệu, tên thương mại
theo pháp luật Việt Nam) dưới góc độ đối tượng được bảo
hộ nội dung sau: ngoài các đối tượng truyền thống, CPTPP
còn mở rộng ra cả âm thanh, và khuyến khích các nước bảo
hộ cả mùi; đối với tất cả các đối tượng được bảo hộ, không
bắt buộc phải là dấu hiệu nhìn thấy được. Khác với quy định
của Hiệp định TRIPs, Hiệp định CPTPP yêu cầu các quốc
gia tham gia không thể chỉ giới hạn phạm vi bảo hộ đối với
các dấu hiệu có thể nhìn thấy mà đòi hỏi tối thiểu là phải bảo
hộ đối với nhãn hiệu âm thanh. Còn nhãn hiệu mùi hương
được xem như sự khuyến khích bảo hộ và không bắt buộc
đối với các quốc gia thành viên do việc bảo hộ nhãn hiệu
mùi hương đòi hỏi những yêu cầu cao hơn, khó khăn hơn so
với việc bảo hộ nhãn hiệu âm thanh [5].
Về việc phải bảo hộ nhãn hiệu thương mại dưới hình
thức âm thanh, Việt Nam chỉ phải thực hiện nghĩa vụ này
sau 3 năm kể từ ngày CPTPP có hiệu lực. Vì vậy, Việt Nam
sẽ phải điều chỉnh một số điều trong Luật Sở hữu trí tuệ để
phù hợp với Hiệp định CPTPP. Về thời gian bảo hộ, CPTPP
yêu cầu các nước thành viên phải bảo hộ nhãn hiệu thương
mại tối thiểu là 10 năm, và có thể được gia hạn nhiều lần,
tương tự như pháp luật Việt Nam hiện hành.
Quy định của một số quốc gia trên thế giới
Pháp luật Hoa Kỳ:
Hoa Kỳ là quốc gia đi tiên phong trong việc thừa nhận
nhãn hiệu, bao gồm cả những dấu hiệu phi truyền thống.
Đạo luật Lanham (Lanham Act) được ban hành vào năm
1946 với mục đích bảo vệ các thương gia chống lại các hình
thức phổ biến nhất của vi phạm bản quyền và cạnh tranh
không lành mạnh, đánh lừa hoặc giả mạo và quảng cáo sai
sự thật đã đưa ra định nghĩa về nhãn hiệu tại Điều 45 như
sau: “Nhãn hiệu bao gồm bất kỳ từ, tên gọi, biểu tượng
hay hình vẽ hoặc sự kết hợp giữa chúng được sử dụng bởi
một người hoặc được người đó có ý định chân thành là sử
dụng nó trong thương mại và xin đăng ký theo quy định tại
luật này, để mặc định và phân biệt hàng hóa của người đó,
bao gồm cả hàng hóa đặc chủng với những hàng hóa cùng
loại được sản xuất hoặc được bán bởi người khác để chỉ
rõ nguồn gốc đó và không có nhãn hiệu hàng hóa nào có
khả năng phân biệt hàng hóa của người nộp đơn với những
hàng hóa của những người khác lại bị từ chối đăng ký vào
sổ đăng ký”. Theo quy định này, bất kỳ dấu hiệu nào thỏa
mãn khả năng phân biệt được hàng hóa hay dịch vụ của chủ
thể kinh doanh này với hàng hóa hay dịch vụ của chủ thể
kinh doanh khác đều sẽ được coi là nhãn hiệu. Khái niệm
này có tính mở ở chỗ: đối với các dấu hiệu phi truyền thống
như dấu hiệu ba chiều, màu, âm thanh, mùi cũng sẽ được
bảo hộ dưới hình thức nhãn hiệu. Theo tinh thần của điều
này, trên thực tế đã có rất nhiều trường hợp được bảo hộ
nhãn hiệu phi truyền thống ở Mỹ như mùi hoa cỏ tươi gợi
hương hoa Plimeria đã được cấp bảo hộ cho mặt hàng chỉ
may và sợi thêu năm 1990, hay nhãn hiệu âm thanh của
chủ sở hữu là Yahoo!, Inc được bảo hộ nhãn hiệu chứa âm
thanh là giọng người đang hát từ âm trầm ngân lên âm cao
từ “Yahoo”.
Để đăng ký nhãn hiệu tại Hoa Kỳ, các cá nhân, doanh
nghiệp có thể nộp trực tiếp tại Cơ quan Sáng chế và Nhãn
hiệu Hoa Kỳ (United States Patent and Trademark Office
- USPTO) hoặc nộp thông qua Hệ thống Madrid (Madrid
System) có chỉ định Hoa Kỳ. USPTO cũng chấp nhận các
ứng dụng cho các nhãn hiệu phi truyền thống như mùi
hương và âm thanh [6].
Cũng theo theo pháp luật của Hoa Kỳ, cần lưu ý, nhãn
hiệu mùi hương khi đăng ký cần được chứng minh chỉ có
một chức năng duy nhất là chỉ định nguồn gốc của sản
phẩm, chứ không phải chỉ dẫn đến đặc điểm của sản phẩm
gắn liền với mùi hương [7]. Một dấu hiệu mùi hương sẽ
không được bảo hộ nếu có tính chức năng, nghĩa là, một
dấu hiệu mùi hương sẽ bị từ chối bảo hộ nếu mùi này trùng
với mùi tự nhiên của sản phẩm. Ví dụ: mùi hương quả vải
sẽ không được đăng ký bảo hộ cho sản phẩm quả vải. Cụ
thể, để xác định một mùi hương có tiềm năng được bảo hộ
47
Khoa học Xã hội và Nhân văn
62(10) 10.2020
dưới dạng nhãn hiệu, mùi hương này cần phải thỏa mãn ba
điều kiện. Thứ nhất, dấu hiệu mùi hương phải được sử dụng
như một nhãn hiệu gắn liền với một sản phẩm, dịch vụ. Sản
phẩm ở đây được hiểu là hàng hóa, dịch vụ thương mại cụ
thể. Ví dụ: nhãn hiệu mùi hoa đại có thể được sử dụng cho
sợi dùng để may vá, sợi thêu vì loại sợi này là một loại hàng
hóa cụ thể được đưa vào thương mại. Thứ hai, mùi hương
muốn được bảo hộ dưới dạng nhãn hiệu phải có khả năng
phân biệt, thông qua chứng minh tính phi chức năng của dấu
hiệu và vai trò như một nhãn hiệu của mùi hương. Thứ ba,
dấu hiệu mùi hương trên không được gây nhầm lẫn với các
nhãn hiệu khác [8].
Pháp luật Liên minh châu Âu:
Theo Điều 4 Quy định số 40/1994 ngày 20/12/1993 của
Hội đồng châu Âu thì khái niệm nhãn hiệu được định nghĩa:
“Một nhãn hiệu công cộng có thể bao gồm bất kỳ dấu hiệu
nào được trình bày một cách rõ ràng và chi tiết, đặc biệt
là các từ, bao gồm tên riêng, các phác họa hình ảnh, từ
ngữ, các chữ số, hình dáng của hàng hóa hoặc của bao bì
hàng hóa mà các dấu hiệu đó có khả năng phân biệt hàng
hóa, dịch vụ của chủ thể kinh doanh này với hàng hóa, dịch
vụ của chủ thể kinh doanh khác”. Theo đó, nhãn hiệu theo
pháp luật EU có thể là bất kỳ dấu hiệu nào có khả năng hiện
hữu dưới dạng đồ họa, các chữ cái, tên riêng, các phác họa
hình ảnh, từ ngữ, các chữ số, hình dáng của hàng hóa và
các dấu hiệu này phải có khả năng phân biệt. Điều kiện “bất
kỳ dấu hiệu nào” làm cho định nghĩa về nhãn hiệu được mở
rộng, có thể bao hàm được cả những dấu hiệu phi truyền
thống như âm thanh, mùi vị, hình ba chiều miễn là những
dấu hiệu đó có khả năng phân biệt và được trình bày rõ ràng,
chi tiết. Việc xây dựng khái niệm mang tính mở đã được
các quốc gia thành viên thừa nhận và ứng dụng rộng rãi.
Tuy nhiên yêu cầu dấu hiệu phải thể hiện được trình bày chi
tiết và rõ ràng tạo nên khó khăn khi bảo hộ dấu hiệu mùi để
được bảo hộ là nhãn hiệu cộng đồng. Ngay cả khi chủ nhãn
hiệu nộp kèm đơn đăng ký cả mẫu chứa mùi, bản mô tả cũng
như công thức mùi thì vẫn khó đáp ứng điều kiện nêu trên.
Theo Điều 2 của Chỉ thị châu Âu và theo Đạo luật
Thương hiệu Vương quốc Anh năm 1994, ba yêu cầu chính
để được đăng ký làm nhãn hiệu như sau4:
(a) Nhãn hiệu phải là một dấu hiệu hoặc bất cứ thứ gì có
thể truyền đạt thông tin.
(b) Dấu hiệu phải có khả năng phân biệt các sản phẩm
hoặc dịch vụ của một cam kết với một sản phẩm khác. Đây
rõ ràng là một yêu cầu về tính khác biệt của nhãn hiệu.
(c) Nhãn hiệu có khả năng đại diện đồ họa [9].
Khả năng đại diện đồ họa của nhãn hiệu là một trong ba
yêu cầu nhằm mục đích nhận dạng chính xác hơn nhãn hiệu
trong đơn đăng ký nhãn hiệu. Một nhãn hiệu có đồ họa rõ
ràng và chính xác sẽ đảm bảo về quyền và trách nhiệm pháp
lý cho chủ sở hữu theo Đạo luật nêu trên.
Tại Điều L.711-1 Bộ luật SHTT năm 1996 của Cộng
hòa Pháp quy định khái niệm về nhãn hiệu như sau: “Nhãn
hiệu hàng hóa hoặc nhãn hiệu dịch vụ là dấu hiệu có thể
được thể hiện dưới dạng chữ viết dùng để phân biệt sản
phẩm hoặc dịch vụ của thể nhân hoặc pháp nhân. Những
dấu hiệu có thể cấu thành nhãn hiệu chủ yếu là những dấu
hiệu sau: a. Tên gọi được thể hiện dưới bất kỳ hình thức
nào như: từ, tập hợp từ, tên người, tên địa lý, biệt hiệu, bút
danh, chữ cái, chữ số, chữ viết tắt; b. Dấu hiệu âm thanh
như: âm thanh, lời nhạc; c. Dấu hiệu hình ảnh như: hình vẽ,
nhãn sản phẩm, con dấu, đường viền, hình nổi, hình ảnh ba
chiều, biểu tượng, hình ảnh tổng hợp, hình thức, đặc biệt là
hình thức sản phẩm, hình thức bao bì sản phẩm, hình thức
đặc trưng của dịch vụ, cách bố trí kết hợp màu sắc, sắc thái
màu”. Từ quy định trên, khái niệm nhãn hiệu được Bộ luật
quy định một cách chi tiết nội hàm của nhãn hiệu, gồm ba
loại dấu hiệu chủ yếu có thể cấu thành nhãn hiệu: dấu hiệu
tên gọi, dấu hiệu âm thanh và dấu hiệu hình ảnh, điều này
bao quát cả những dấu hiệu phi truyền thống. Bộ luật cũng
đã nêu một cách cụ thể rằng dấu hiệu âm thanh cũng có thể
là nhãn hiệu và có thể được đăng ký bảo hộ. Đây là quy
định tiến bộ, phù hợp với thực tiễn kinh doanh, trên thực
tế, ngày 4/11/1994, tiếng gầm của sư tử mở đầu cho phim
của hãng Metro Goldwyn Mayer (Hoa Kỳ) đã được Cộng
hòa Pháp cho đăng ký bảo hộ tại Pháp. Bên cạnh quy định
về khái niệm nhãn hiệu, Bộ luật nước này còn quy định về
điều kiện để một dấu hiệu được bảo hộ nhãn hiệu. Cụ thể,
để một dấu hiệu được bảo hộ là nhãn hiệu thì: dấu hiệu đó
phải mang tính phân biệt (Điều L.711-2); dấu hiệu được lựa
chọn không vi phạm các quyền sở hữu trí tuệ đã được bảo
hộ, đồng thời không được trái với chính sách và đạo đức và
không được gây hiểu lầm cho công chúng (Điều L.711-3)
[1].
Pháp luật Nhật Bản:
Trước đây, theo quy định tại Luật Nhãn hiệu 1959 của
Nhật Bản (Trademark Act) thì nhãn hiệu là các chữ cái, con
số, dấu hiệu, hình họa ba chiều, hoặc bất kỳ sự kết hợp nào
của chúng hoặc sự kết hợp của chúng với màu sắc, được sử
dụng cho hàng hóa và dịch vụ, thỏa mãn một trong hai điều
kiện: thứ nhất, đối với nhãn hiệu gắn lên hàng hóa, nó phải
được sử dụng đối với hàng hóa mà một người sản xuất, xác
nhận hay đem vào lưu thông; thứ hai, đối với nhãn hiệu dịch
vụ, nó được sử dụng đối với dịch vụ mà một người cung cấp
hay xác nhận trong quá trình thương mại (Điều 2) [10]. Cho
đến khi Nhật Bản ban hành Luật Nhãn hiệu sửa đổi, bổ sung
2015, dấu hiệu màu và âm thanh mới được nhắc đến trong
khái niệm nhãn hiệu [11].
1Nguyên bản: (a) The trademark should be a sign or anything that can convey
information; (b) The sign should be capable of distinguishing products or
services of one undertaking from that of another. This is clearly a requirement
of distinctiveness of trademarks;(c) The trademark is capable of graphical
representation.
48
Khoa học Xã hội và Nhân văn
62(10) 10.2020
Trong Luật Nhãn hiệu 2015, với mục đích xác định đầy
đủ bản chất và phạm vi bảo hộ, đơn đăng ký nhãn hiệu sau
phải có một mục cho biết đó là loại nhãn hiệu gì. Để các
loại nhãn hiệu mới được thể hiện trong một đơn đăng ký,
Văn phòng Sáng chế Nhật Bản yêu cầu đưa ra mô tả chi tiết
về đối tượng muốn bảo hộ làm nhãn hiệu. Đối với các loại
nhãn hiệu mới, cần phải có mô tả chi tiết về nhãn hiệu cần
đăng ký để xác định phạm vi bảo hộ của nhãn hiệu (Khoản
4, Điều 5, Luật Nhãn hiệu). Thông tin chi tiết về các yêu cầu
cho các mô tả đó sẽ được cung cấp trong Pháp lệnh của Bộ
Kinh tế. Ngoài ra, liên quan đến dấu hiệu âm thanh, việc gửi
đối tượng (ví dụ: tệp âm thanh được ghi âm) sẽ được yêu
cầu, điều này cũng sẽ được quy định trong Pháp lệnh. Để
xác định phạm vi của nhãn hiệu đã đăng ký, bản mô tả chi
tiết về đối tượng đó là bắt buộc với ý nghĩa nhằm giải thích
chi tiết cho nhãn hiệu được thể hiện trong đơn (Khoản 1,
Điều 27) [11].
Đối với nhãn hiệu âm thanh, các âm thanh sau không thể
được đăng ký do về cơ bản chúng không có sự khác biệt: âm
thanh thường được tạo ra bởi hàng hóa (ví dụ: tiếng “fizz”
của đồ uống có ga; một âm thanh đơn; âm thanh tương tự
như âm thanh tự nhiên (ví dụ: âm thanh của nước chảy); âm
thanh được nhận dạng là âm nhạc (ví dụ: BGM - nhạc nền)
[12].
Một số bất cập trong quy định của pháp luật Việt Nam về bảo
hộ nhãn hiệu phi truyền thống
Thứ nhất, bất cập trong định nghĩa về nhãn hiệu
Định nghĩa về nhãn hiệu được quy định tại Khoản 16
Điều 4 Luật SHTT 2005 như sau: “Nhãn hiệu là dấu hiệu
dùng để phân biệt hàng hoá, dịch vụ của các tổ chức, cá
nhân khác nhau”. Theo cách định nghĩa này, bất kỳ dấu
hiệu nào có chức năng phân biệt hàng hóa, dịch vụ của cá
nhân, tổ chức này với các cá nhân, tổ chức khác thì đều
được xem là nhãn hiệu. tuy nhiên, để các dấu hiệu này được
đăng ký bảo hộ dưới hình thức là nhãn hiệu thì phải đáp ứng
đủ các điều kiện quy định tại Điều 72 Luật SHTT 2005, cụ
thể: “Nhãn hiệu được bảo hộ nếu đáp ứng các điều kiện sau
đây: 1. Là dấu hiệu nhìn thấy được dưới dạng chữ cái, từ
ngữ, hình vẽ, hình ảnh, kể cả hình ba chiều hoặc sự kết hợp
các yếu tố đó, được thể hiện bằng một hoặc nhiều màu sắc;
2. Có khả năng phân biệt hàng hoá, dịch vụ của chủ sở hữu
nhãn hiệu với hàng hoá, dịch vụ của chủ thể khác”.
Theo đó, nhãn hiệu là dấu hiệu có thể dùng để phân biệt
hàng hóa, dịch vụ giữa các tổ chức, cá nhân khác nhau,
nhưng dấu hiệu này phải là dấu hiệu nhìn thấy được và được
thể hiện dưới dạng chữ cái, từ ngữ, hình vẽ, hình ảnh, kể cả
hình ba chiều hoặc sự kết hợp các yếu tố đó, được thể hiện
bằng một hoặc nhiều màu sắc; đồng thời dấu hiệu đó phải có
khả năng phân biệt hàng hóa, dịch vụ của chủ sở hữu nhãn
hiệu với hàng hoá, dịch vụ của chủ thể khác. Do đó những
dấu hiệu nào không đáp ứng hai điều kiện trên sẽ không
được xem là nhãn hiệu và không được đăng ký bảo hộ nhãn
hiệu theo quy định của pháp luật Việt Nam. Khi so sánh đối
chiếu với thực tế cũng như quy định trong pháp luật quốc tế
và một số quốc gia, định nghĩa tại Luật SHTT năm 2005 về
nhãn hiệu chỉ quy định về những dấu hiệu có thể nhìn thấy
được, tức là những dấu hiệu dùng thị giác để phân biệt, một
số dấu hiệu khác cũng có chức năng phân biệt hàng hóa,
dịch vụ của các tổ chức, cá nhân khác nhau nhưng được cảm
nhận bằng các giác quan khác của con người thì vẫn không
được thừa nhận là nhãn hiệu và không được đăng ký bảo hộ,
như các dấu hiệu phi truyền thống.
Thứ hai, bất cập trong điều kiện bảo hộ
Chức năng cơ bản và quan trọng nhất của nhãn hiệu là
khả năng phân biệt, do đó bất kỳ dấu hiệu nào muốn được
bảo hộ là nhãn hiệu thì trước tiên phải đáp ứng điều kiện về
khả năng phân biệt. Khoản 1 Điều 74 Luật SHTT năm 2005
đã giải thích rõ: “Nhãn hiệu được coi là có khả năng phân
biệt nếu được tạo thành từ một hoặc một số yếu tố dễ nhận
biết, dễ ghi nhớ hoặc từ nhiều yếu tố kết hợp thành một tổng
thể dễ nhận biết, dễ ghi nhớ và không thuộc các trường
hợp quy định tại khoản 2 Điều này”. Khoản 2 Điều 74 Luật
SHTT năm 2005 quy định về những trường hợp nhãn hiệu
được coi là không có khả năng phân biệt, trong đó, dấu hiệu
hình bị loại trừ không được bảo hộ là nhãn hiệu khi “hình
và hình hình học đơn giản” hay “dấu hiệu, biểu tượng quy
ước, hình vẽ hoặc tên gọi thông thường của hàng hóa”. Như
vậy, pháp luật SHTT Việt Nam mặc dù thừa nhận những dấu
hiệu có thể nhìn thấy được bằng thị giác nhưng chưa hoàn
toàn có quy định về khả năng phân biệt của các dấu hiệu đó,
như dấu hiệu hình ba chiều, màu, hình động, điều này dẫn
đến những khó khăn nhất định trong việc bảo hộ nhãn hiệu
nếu chủ sở hữu muốn lựa chọn những dấu hiệu như hình ba
chiều, hình động để bảo hộ nhãn hiệu.
Đối với những dấu hiệu không thể nhận biết được bằng
thị giác như dấu hiệu mùi, vị, âm thanh, xúc giác, pháp luật
Việt Nam vẫn chưa có quy định cụ thể về những dấu hiệu
này cũng như khả năng phân biệt của chúng. Do đó những
dấu hiệu này không được bảo hộ tại Việt Nam trong thời
gian này.
Thứ ba, bất cập trong trình tự, thủ tục xác lập quyền
sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu phi truyền thống
Hiện nay, pháp luật Việt Nam mới chỉ đề cập đến dấu
hiệu ba chiều và dấu hiệu màu có thể dùng làm nhãn hiệu.
Trong vấn đề xác lập quyền sở hữu công nghiệp đối với
nhãn hiệu hình ba chiều, Điều 37 Thông tư số 16/2016/TT-
BKHCN hướng dẫn về đơn đăng ký nhãn hiệu nói chung,
trong đó Điều 37.5 về yêu cầu đối với mẫu nhãn hiệu quy
định: “b) Đối với nhãn hiệu là hình ba chiều thì mẫu nhãn
hiệu phải kèm theo ảnh chụp hoặc hình vẽ thể hiện hình phối
cảnh và có thể kèm theo mẫu mô tả ở dạng hình chiếu”. Quy
định này được xem là hướng dẫn quan trọng cho thủ tục
đăng ký dấu hiệu hình ba chiều. Tuy nhiên, pháp luật Việt
Nam chưa có những cơ sở pháp lý cho thủ tục đăng ký cũng
49
Khoa học Xã hội và Nhân văn
62(10) 10.2020
như thực thi quyền sở hữu công nghiệp liên quan đến các
nhãn hiệu ba chiều và nhãn hiệu màu, nhất là trong việc thể
hiện những dấu hiệu này trong đơn đăng ký, điều này dẫn
đến những khó khăn nhất định trong việc thẩm định đối với
loại nhãn hiệu phi truyền thống này.
Đối với các dấu hiệu phi truyền thống khác như hình
động, âm thanh, mùi, vị, xúc giác, pháp luật Việt Nam cũng
chưa quy định hành lang pháp lý về thủ tục xác lập quyền
khi chủ sở hữu muốn lựa chọn những dấu hiệu này làm nhãn
hiệu. Nếu chủ thể kinh doanh muốn đăng ký những dấu hiệu
này làm nhãn hiệu, việc diễn giải những dấu hiệu này vào
đơn cũng gặp nhiều khó khăn vì không có quy định phải
diễn giải như thế nào cho từng loại dấu hiệu nêu trên. Trong
khi các nước phát triển đã quy định rõ các thủ tục cần thiết
cho việc đăng lý các dấu hiệu phi truyền thống này làm nhãn
hiệu thì pháp luật Việt Nam vẫn chưa có quy định cụ thể để
giải quyết trong trường hợp muốn bảo hộ những loại nhãn
hiệu phi truyền thống.
Một số kiến nghị
Từ những phân tích ở trên, tác giả kiến nghị nên quy
định về khái niệm nhãn hiệu vừa theo hướng mở, vừa theo
hướng liệt kê để có thể vừa làm rõ được điều kiện cụ thể
để một dấu hiệu được xem là nhãn hiệu, vừa không giới
hạn các dấu hiệu khác cũng có thể được xem là nhãn hiệu.
Sự thay đổi này sẽ dẫn đến việc thừa nhận những dấu hiệu
không nhìn thấy được như dấu hiệu âm thanh, mùi, vị có thể
cảm nhận được thông qua các giác quan khác vẫn có thể trở
thành nhãn hiệu. Cụ thể, sửa đổi khái niệm về nhãn hiệu tại
Khoản 16 Điều 4 Luật SHTT như sau: “Nhãn hiệu là dấu
hiệu có thể nhận biết được thông qua các giác quan của con
người, có thể được thể hiện dưới các dạng nhìn thấy được:
chữ cái, từ ngữ, hình vẽ, hình ảnh, kể cả hình ba chiều hoặc
sự kết hợp các yếu tố đó, được thể hiện bằng một hoặc nhiều
màu sắc; hoặc dưới dạng không nhìn thấy được: âm thanh,
mùi, vị hoặc các dạng khác và phải có khả năng phân biệt
giữa các hàng hóa, dịch vụ khác nhau”. Với khái niệm này,
một dấu hiệu trở thành nhãn hiệu khi đáp ứng các điều kiện
sau: Thứ nhất, nhãn hiệu trước hết phải là dấu hiệu. Các dấu
hiệu này được thể hiện dưới các dạng: chữ cái, từ ngữ, hình
vẽ, hình ảnh, kể cả hình ba chiều hoặc sự kết hợp các yếu tố
đó, được thể hiện bằng một hoặc nhiều màu sắc; âm thanh;
mùi; vị hoặc các dạng khác. Thứ hai, dấu hiệu đó phải được
con người cảm nhận được thông qua một hoặc một số giác
quan khác nhau. Thứ ba, dấu hiệu đó phải có khả năng phân
biệt hàng hóa, dịch vụ của chủ thể kinh doanh này với hàng
hóa, dịch vụ của chủ thể kinh doanh khác. Mặt khác, khái
niệm này đã liệt kê cụ thể các cách thức thể hiện của dấu
hiệu so với trước đây, không chỉ có chữ cái, từ ngữ, hình
vẽ, hình ảnh, kể cả hình ba chiều hoặc sự kết hợp các yếu tố
đó, được thể hiện bằng một hoặc nhiều màu sắc mà còn bổ
sung thêm các dấu hiệu về âm thanh, mùi, vị hoặc các dạng
khác nhằm đáp ứng sự đổi mới, sáng tạo của các chủ thể
kinh doanh, phù hợp với nhu cầu của thực tiễn xã hội cũng
như luật pháp quốc tế. Bên cạnh đó, điều này cũng góp phần
quan trọng trong việc đề ra các quy định cho phép đăng ký
bảo hộ nhãn hiệu đối với các dấu hiệu phi truyền thống, giúp
các chủ thể quyền có thể tiếp cận và khai thác tốt hơn những
loại dấu hiệu mới này.
Kết luận
Trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, dưới tác động
ngày càng sâu động của xu hưởng toàn cầu hóa, việc hoàn
thiện hệ thống pháp luật về nhãn hiệu nói chung, đặc biệt
là nhãn hiệu phi truyền thống nói riêng là yêu cầu cấp bách
hiện nay. Có thể thấy Nhà nước đã và đang đóng vai trò
quan trọng trong việc xây dựng và vận hành cơ chế bảo hộ
đối với nhãn hiệu. Vai trò này không chỉ được thể hiện thông
qua việc ban hành pháp luật mà còn thể hiện ở việc thiết lập
và vận hành hiệu quả hệ thống thực thi bảo hộ trên thực tế.
Tuy nhiên để phù hợp với yêu cầu của thực tiễn trong nền
kinh tế thị trường và yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế, pháp
luật Việt Nam nên đẩy mạnh phát triển nhãn hiệu phi truyền
thống, giúp các doanh nghiệp tiếp cận gần hơn và tạo điều
kiện để các doanh nghiệp tham gia bảo hộ các nhãn hiệu
này.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] French Intellectual Property Code (Act No.94-361 of 10 May 1994).
[2] WIPO (2004), Intellectual Property Handbook: policy, law and use,
WIPO Publication, pp.68.
[3] Cục Sở hữu trí tuệ (2020), Tổng quan về nhãn hiệu phi truyền thống.
[4] WIPO (2011), Singapore treaty on the law of trademarks, WIPO
Publication, pp.53-54.
[5] Phạm Thu Hà (2019), Yêu cầu, thực trạng và giải pháp bảo hộ nhãn
hiệu phi truyền thống tại Việt Nam, Luận văn thạc sĩ, Trường Đại học Luật
Hà Nội.
[6] United States Trademark Law 2013 (Revision Act of 1988).
[7] Adam Brookman (2019), Trademark Law: protection, enforcement
and licensing., pp.2-13.
[8] Nguyễn Hồ Bích Hằng, Nguyễn Xuân Mỹ Hiền, Huỳnh Thanh
Thịnh (2017), “Chế định đăng ký nhãn hiệu mùi hương theo pháp luật Hoa
Kỳ”, Tạp chí Khoa học Pháp lý, 5(108), tr.27.
[9] Neha Mishra (2008), Registration of non-traditional trademarks,
National University of Singapore, pp.43-50.
[10]
=04&re=01.
[11] Trademark Act of Japan Act No.55 of 2015 (Effective
April 1, 2016),
pdf?fbclid=IwAR02JSpECs6qk7wAtVCX61tjlM47Y8VLhGF91rXeGP
MGUOqCoXc8KvtbSUY.
[12] Kamikura Hanako (2015), New types of trademark now registrable
in Japan, https://www.yuasa-hara.co.jp/english/lawinfo/1015/.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- quy_dinh_ve_bao_ho_nhan_hieu_phi_truyen_thong_cua_mot_so_quo.pdf