Kết luận và kiến nghị
Quy định về CĐSL của công ty cổ phần
là một nội dung quan trọng trong pháp luật
doanh nghiệp Việt Nam cũng như pháp luật
doanh nghiệp tại nhiều quốc gia khác trên
thế giới. Theo quy định tại Luật Doanh
nghiệp năm 2014, việc trở thành CĐSL của
CTCP tại Việt Nam được xác lập dựa trên sự
thỏa thuận giữa các nhà đầu tư tại thời điểm
thành lập công ty, chỉ cần 1 công ty cổ phần
đảm bảo ít nhất 3 CĐSL là được, không nhất
thiết toàn bộ tất cả các nhà đầu tư tham gia
thành lập công ty, thông qua điều lệ của công
ty cổ phần đều là CĐSL theo quan điểm
truyền thống trước đây. Quy định này trao
quyền tự quyết cho nhà đầu tư trong việc họ
trở thành CĐSL hay không trên cơ sở cân
nhắc các lợi ích mà họ có thể có được từ tư
cách CĐSL này. Mặc dù pháp luật nhiều
quốc gia trên thế giới có những quy định
khác nhau về số lượng CĐSL tối thiểu của 1
công ty cổ phần tại thời điểm thành lập,
nhưng nhìn chung, pháp luật doanh nghiệp
một số quốc gia như Thái Lan, Italia, Đức
đều quy định các CĐSL phải sở hữu ít nhất
từ 5% cho đến 25% tổng số cổ phần được
quyền phát hành của CTCP tại thời điểm
thành lập. Và những hạn chế về chuyển
nhượng cổ phần của CĐSL trong giai đoạn
đầu thành lập CTCP cũng là những quy định
tương đồng có thể được tìm thấy trong Luật
Doanh nghiệp năm 2014 của Việt Nam và
pháp luật doanh nghiệp ở nhiều quốc gia
khác trên thế giới. Tuy nhiên, dù có những
điểm khác biệt nhất định nhưng vai trò, vị trí
của CĐSL trong CTCP là không thể thiếu
trong thực tiễn kinh tế thị trường cũng như
pháp luật thực định của các quốc gia có nền
kinh tế thị trường gắn với quyền tự do kinh
doanh của doanh nghiệp.
8 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 19/01/2022 | Lượt xem: 307 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Quy định về cổ đông sáng lập trong pháp luật Việt Nam và pháp luật ở một số quốc gia trên thế giới, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
55Số 4(404) - T2/2020
NGHIÊN CỨU
LẬP PHÁP
KINH NGHIỆM QUỐC TẾ
1. Quy định về cổ đông sáng lập trong
pháp luật Việt Nam
Theo quy định tại khoản 2 Điều 4 Luật
Doanh nghiệp năm 2014 thay thế Luật
Doanh nghiệp năm 2005, có hiệu lực thi hành
từ ngày 01/07/2015, khái niệm cổ đông và cổ
đông sáng lập (CĐSL) được hiểu như sau:
Cổ đông là cá nhân, tổ chức sở hữu ít
nhất một cổ phần của công ty cổ phần
(CTCP). Còn CĐSL là cổ đông sở hữu ít nhất
một cổ phần phổ thông và ký tên trong danh
sách cổ đông sáng lập CTCP. Theo đó, khái
niệm CĐSL được hiểu ở các góc độ sau:
Một là, khái niệm CĐSL là cổ đông chỉ
tồn tại trong mô hình CTCP, không tồn tại ở
các loại hình công ty khác. Bởi lẽ, đặc thù
của CTCP là vốn điều lệ của công ty phải
được chia ra thành nhiều phần bằng nhau gọi
là cổ phần và nhà đầu tư (cá nhân, tổ chức)
sở hữu cổ phần tại CTCP được gọi là cổ
đông, còn chủ thể sáng lập công ty được gọi
là CĐSL. Trong khi ở các loại hình công ty
khác như công ty trách nhiệm hữu hạn
quy định về cỔ đÔng Sáng LẬp trong pháp LuẬt việt naM
vÀ pháp LuẬt Ở MỘt Số quốc gia trÊn thế giỚi
Trần Huỳnh Thanh Nghị*
* TS. Giảng viên Khoa luật, Trường Đại học Kinh tế TP. Hồ Chí Minh.
Thông tin bài viết:
Từ khóa: Cổ phần, Cổ đông sáng lập, công
ty cổ phần, luật doanh nghiệp, luật công ty.
Lịch sử bài viết:
Nhận bài : 20/08/2019
Biên tập : 26/08/2019
Duyệt bài : 27/08/2019
Article Infomation:
Key words: shares; founding shareholders;
joint stock companies; law on enterprise,
corporate law.
Article History:
Received : 20 Aug. 2019
Edited : 16 Aug. 2019
Approved : 27 Aug. 2019
Tóm tắt:
Bài viết phân tích một số quy định tương đồng và khác biệt
trong pháp luật Việt Nam và pháp luật một số quốc gia khác
trên thế giới về cổ đông sáng lập. Qua đó, cung cấp những
thông tin pháp lý quan trọng giúp cho các nhà lập pháp Việt
Nam có thể tham khảo để hoàn thiện quy định về cổ đông sáng
lập trong thời gian tới.
Abstract:
This article provides analysis of similarities and differences
from the laws of Vietnam and the ones of some other countries
on the founding shareholders. Thereby, it is to provide
important legal information that Vietnamese lawmakers may
get consultation to improve the regulations on founding
shareholders in the coming time.
Số 4(404) - T2/202056 NGHIÊN CỨULẬP PHÁP
KINH NGHIỆM QUỐC TẾ
(TNHH) hai thành viên hoặc công ty hợp
danh, nhà đầu tư góp vốn thành lập các
công ty này được gọi là thành viên công ty
và người sáng lập ra các công ty này được
gọi là thành viên sáng lập, không đồng nhất
với khái niệm CĐSL ở mô hình CTCP. Sở
dĩ có sự khác biệt trên là do cấu trúc vốn
điều lệ của CTCP phải được chia thành các
cổ phần có mệnh giá bằng nhau (theo quy
định của pháp luật chứng khoán thì mệnh
giá cổ phần trong các CTCP đều bằng nhau
là 10.000 đồng/cổ phần), điều này không
diễn ra trong mô hình công ty TNHH hoặc
công ty hợp danh.
Hai là, CĐSL cũng chỉ là cổ đông phổ
thông. Bởi lẽ, hiểu theo quy định tại khoản
2 Điều 14 Luật Doanh nghiệp năm 2014,
điều kiện bắt buộc để trở thành CĐSL là nhà
đầu tư đó phải sở hữu tối thiểu 1 cổ phần phổ
thông – loại cổ phần bắt buộc phải có trong
mọi CTCP tại Việt Nam (khác với các loại
cổ phần ưu đãi không nhất thiết phải có
trong CTCP). Từ đó, có thể suy luận rằng,
thực chất CĐSL cũng chỉ là cổ đông phổ
thông do họ có nắm giữ cổ phần phổ thông.
CĐSL có đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của
cổ đông phổ thông như quyền chuyển
nhượng cổ phần, quyền tham dự họp, phát
biểu, biểu quyết tại Đại hội đồng cổ đông,
quyền được ưu tiên mua cổ phần mới phát
hành, quyền được hưởng cổ tức từ hoạt động
kinh doanh của công ty, nếu họ nắm giữ từ
10% cổ phần phổ thông trong thời hạn liên
tục ít nhất 6 tháng (hoặc tỷ lệ nhỏ hơn quy
định tại Điều lệ công ty) thì họ còn có quyền
đề cử người vào Hội đồng quản trị, Ban
kiểm soát Các quyền này có thể không có
ở một số cổ phần ưu đãi. Chẳng hạn, cổ đông
sở hữu cổ phần ưu đãi biểu quyết thì không
được chuyển nhượng cổ phần này do quy
định cấm đoán tại Luật Doanh nghiệp năm
2014. Trong khi cổ đông ưu đãi hoàn lại và
cổ đông ưu đãi cổ tức thì lại không được
tham dự họp, biểu quyết tại Đại hội đồng cổ
đông, không có quyền đề cử người vào Hội
đồng quản trị, Ban kiểm soát của công ty
theo quy định tại Luật Doanh nghiệp năm
2014, kể cả tại Luật Doanh nghiệp năm 2005
trước đó.
Ba là, CĐSL có thể là cá nhân, tổ chức.
Bản chất của CTCP là công ty đối vốn, có
quyền phát hành cổ phiếu để huy động vốn
trong công chúng để phục vụ cho hoạt động
đầu tư, kinh doanh của doanh nghiệp. Vì
vậy, pháp luật doanh nghiệp tại nhiều quốc
gia trên thế giới đều có quy định thông
thoáng về chủ thể tham gia CTCP theo
hướng không đặt điều kiện nhà đầu tư đó
phải là một cá nhân hoặc một tổ chức nhất
định. So sánh với mô hình công ty hợp danh
thì tư cách của nhà đầu tư tham gia công ty
có sự khác biệt lớn. Do bản chất pháp lý của
công ty hợp danh là công ty đối nhân nên các
sáng lập viên của công ty này là thành viên
hợp danh phải là cá nhân, không thể là pháp
nhân. Trong khi CĐSL tham gia CTCP rất
đa dạng, không giới hạn phải là cá nhân hoặc
là tổ chức. Thực tế, có những CTCP mà
thành phần chủ thể tham gia thành lập chỉ
bao gồm nhà đầu tư cá nhân hoặc chỉ gồm
nhà đầu tư tổ chức (các quỹ đầu tư, các ngân
hàng thương mại, các công ty kinh doanh
chứng khoán, các công ty góp vốn vào
CTCP nhằm mục đích tìm kiếm lợi nhuận)
hoặc cũng có những CTCP có sự cộng
hưởng giữa nhà đầu tư cá nhân và nhà đầu
tư tổ chức là điều thường thấy trên thị trường
chứng khoán. Tuy nhiên, theo quy định tại
khoản 2 Điều 18 Luật Doanh nghiệp năm
2014, để trở thành CĐSL của CTCP thì nhà
đầu tư cá nhân phải có đầy đủ năng lực hành
vi dân sự và không thuộc các trường hợp bị
cấm thành lập, cấm quản lý doanh nghiệp
theo quy định tại khoản 2 Điều 18 Luật
Doanh nghiệp năm 2014. Ngoài ra, đối với
nhà đầu tư là tổ chức muốn tham gia thành
lập CTCP thì tổ chức đó phải có tư cách
pháp nhân (pháp nhân phải hội đủ 4 điều
57Số 4(404) - T2/2020
NGHIÊN CỨU
LẬP PHÁP
KINH NGHIỆM QUỐC TẾ
1 Điều 4 Luật Doanh nghiệp năm 2005.
kiện quy định tại Điều 74 Bộ luật Dân sự
năm 2015)
Bốn là, CĐSL phải sở hữu cổ phần đạt
mức tối thiểu luật định.
Theo quy định tại đoạn 1 khoản 2 Điều
4 Luật Doanh nghiệp năm 2014: để trở thành
cổ đông của CTCP, nhà đầu tư phải sở hữu
ít nhất 1 cổ phần. Và cổ phần đó có thể là cổ
phần phổ thông hoặc cổ phần ưu đãi (có thể
là cổ phần ưu đãi biểu quyết, cổ phần ưu đãi
hoàn lại, cổ phần ưu đãi cổ tức hoặc cổ phần
ưu đãi khác được quy định tại Điều lệ công
ty cổ phần). Song, để trở thành CĐSL, theo
quy định tại đoạn 2 khoản 2 Điều 4 Luật
Doanh nghiệp năm 2014 thì nhà đầu tư phải
sở hữu ít nhất 1 cổ phần phổ thông - đây là
cổ phần được CTCP bán đại trà trên thị
trường và cũng là cổ phần quan trọng nhất,
phải có trong mọi CTCP tại Việt Nam. Hiểu
theo quy định trên tại Luật Doanh nghiệp
năm 2014, điều kiện cơ bản nhất để một nhà
đầu tư trở thành CĐSL là họ phải nắm giữ
cổ phần phổ thông, chứ không phải sở hữu
bất kỳ cổ phần nào trong CTCP. Điều đó có
nghĩa là nếu cổ đông không sở hữu cổ phần
phổ thông mà chỉ sở hữu cổ phần ưu đãi thì
họ không thể trở thành CĐSL của CTCP.
Năm là, CĐSL phải ký tên vào danh
sách CĐSL của CTCP. Nếu như trước thời
điểm tháng 07/2015, để trở thành CĐSL thì
nhà đầu tư phải ký tên vào điều lệ của CTCP.
Song, từ ngày 01/07/2015, theo quy định tại
khoản 2 Điều 4 Luật Doanh nghiệp năm
2014, nhà đầu tư chỉ cần ký tên vào danh
sách CĐSL của CTCP là trở thành CĐSL.
Như vậy, không phải cổ đông nào có sở hữu
cổ phần phổ thông hoặc tham gia vào quá
trình thành lập CTCP, có ký tên vào bản điều
lệ của công ty đều là CĐSL. Thực chất, chỉ
những cổ đông tự nguyện chấp nhận trở
thành CĐSL bằng việc họ trực tiếp ký vào
danh sách CĐSL do công ty lập theo mẫu do
Bộ Kế hoạch và Đầu tư quy định thì mới
chính thức trở thành CĐSL của CTCP. Quy
định mới nêu trên về CĐSL tại Luật Doanh
nghiệp năm 2014 thể hiện sự linh hoạt cho
nhà đầu tư theo hướng Nhà nước tôn trọng
quyền tự chủ kinh doanh, tự quyết định
quan hệ nội bộ của CTCP nhiều hơn so với
quy định tại Luật Doanh nghiệp năm 2005
trước đó. Vì vậy, không phải nhà đầu tư nào
tham gia thành lập CTCP đều phải là CĐSL
mà điều quan trọng là nhà đầu tư đó tự quyết
định họ có muốn trở thành CĐSL hay không.
Với cách tiếp cận này, nhà làm luật chỉ đặt
ra yêu cầu “mềm” áp dụng đối với CTCP là
chỉ cần CTCP đảm bảo số lượng CĐSL tối
thiểu là 3, không buộc nhà đầu tư tham gia
thành lập công ty, xây dựng, thông qua điều
lệ công ty đều là CĐSL như quy định tại
Luật Doanh nghiệp năm 20051.
2. Quy định về cổ đông sáng lập của công
ty cổ phần tại một số quốc gia trên thế giới
2.1. Về khái niệm cổ đông sáng lập
Hoa Kỳ là một nhà nước liên bang và có
nền kinh tế lớn nhất thế giới, cấu thành bởi
trên 50 tiểu bang trải dài từ Tây sang Đông,
với 2 hệ thống hiến pháp và pháp luật cùng
tồn tại song hành nên quy định của pháp luật
tại các tiểu bang của Hoa Kỳ về hình sự, dân
sự, đầu tư, doanh nghiệp có thể không đồng
nhất. Dù đã có một đạo luật thống nhất về
thương mại ban hành năm 1990 (UCC 1990)
song Hoa Kỳ không có một đạo luật công ty
thống nhất cho cả liên bang. Pháp luật tại các
tiểu bang của Hoa Kỳ cũng có những cách
tiếp cận khác nhau ở các quy định về CTCP
nói chung và khái niệm về CĐSL nói riêng.
Cụ thể: Luật Công ty của Tiểu bang Texas
hoàn toàn không nêu khái niệm CĐSL mà
chỉ có khái niệm cổ đông. Theo đó, cổ đông
là người mà tên của họ được ghi trên cổ phần
Số 4(404) - T2/202058 NGHIÊN CỨULẬP PHÁP
KINH NGHIỆM QUỐC TẾ
phát hành của công ty, được đăng ký trong
hồ sơ chuyển nhượng cổ phần và được lưu
trữ bởi công ty2. Theo quy định của pháp luật
tiểu bang California, CĐSL được hiểu đơn
giản là những người có ký tên vào bản điều
lệ của CTCP3.
Ở Đan Mạch, Luật Công ty cổ phần năm
2000 không nêu định nghĩa về khái niệm
CĐSL, mà quy định một CTCP được thành
lập bởi một hoặc nhiều CĐSL; các CĐSL
phải ký vào bản điều lệ của CTCP4. Pháp
luật New Zealand không quy định trực tiếp
về CĐSL, mà chỉ xác định cổ đông là người
mà tên của họ được ghi trên ít nhất một cổ
phần đăng ký của công ty. Trước khi ghi tên
vào cổ phần đăng ký của công ty thì tên của
nhà đầu tư đó được ghi trong hồ sơ đăng ký
doanh nghiệp tại thời điểm đăng ký doanh
nghiệp5. Tại Canada, CĐSL là người ký tên
vào điều lệ của CTCP6. Trong khi đó, ở
Cộng hòa liên bang Đức, những cổ đông
tham gia xây dựng điều lệ CTCP đều được
gọi là CĐSL7. Pháp luật Ấn Độ quy định
CĐSL là người hội đủ 3 tiêu chí sau: 1) Là
người có tên trong bản cáo bạch hoặc báo
cáo thường niên của công ty; 2) Là người
kiểm soát hoạt động của công ty một cách
trực tiếp hoặc gián tiếp với tư cách là cổ
đông, giám đốc công ty hoặc chức danh
khác; 3) Là người có thể đưa ra định hướng
và chỉ đạo cho hoạt động của Hội đồng quản
trị. Pháp luật Cambodia cũng có quy định
tương đồng như tại tiểu bang California
(Hoa Kỳ) khi định nghĩa CĐSL là cá nhân
ký tên vào bảng điều lệ của CTCP8. Luật
Công ty của Liên bang Nga không định
nghĩa trực tiếp CĐSL mà chỉ quy định:
CĐSL là những công dân hoặc thực thể pháp
lý đã thông qua quyết định thành lập CTCP9.
2.2. Về số lượng cổ đông sáng lập
Theo quy định của pháp luật Thái Lan,
để thành lập một CTCP thì cần ít nhất 15 cổ
đông là thể nhân, có điều lệ công ty và tuân
thủ các quy định khác tại Luật CTCP10. Pháp
luật Australia quy định, các công ty nói
chung và CTCP nói riêng khi thành lập thì
chỉ cần ít nhất 1 nhà đầu tư11. Tại Đài Loan,
để thành lập CTCP thì cần 1 hoặc từ 2
CĐSL12. Luật Công ty Thụy Điển năm 2005
quy định, các công ty TNHH lẫn CTCP phải
2 Xem: Mục 69, section 2 Luật Công ty Ấn Độ năm 2013;
CompaniesAct2013.pdf.
3 Xem: Mục 1 Phần 1 Luật Công ty thương mại California 2005, sửa đổi, bổ sung 2011;
https://law.justia.com/codes/california/2005/corp.html.
4 Xem: Mục 3 Phần I Luật Công ty cổ phần Đan Mạch 2000;
5 Xem: Điều 96, Phần VII Luật Công ty Newzealand 1993; pub-
lic/1993/0105/latest/whole.html.
6 Xem: Mục 2 Phần 1 Luật Công ty Thương mại Canada 2015;
7 Xem: Điều 28 Luật Công ty cổ phần CHLB Đức 1965, được sửa đổi, bổ sung ngày 09/09/2010;
8 Xem : Khoản 6 Điều 88 Luật Doanh nghiệp thương mại Cambodia 2006;
commercial-enterprises-of-the-kingdom-of-cambodia/
9 Xem: Điều 10 Luật Công ty cổ phần CHLB Nga 1995; https://www.wto.org/english/thewto_e/acc_e/rus_e/
WTACCRUS58_LEG_394.pdf
10 Xem: Section 16 Luật Công ty cổ phần Thái Lan 2009;
nid=3932.
11 Xem: Section 114 Phần II Luật Công ty Australia 2001; https://www.legislation.gov.au/Details/
C2018C00031.
12 Xem: Điều 128 Luật Công ty Đài Loan Trung Quốc 2009;
20132/1793.html.
59Số 4(404) - T2/2020
NGHIÊN CỨU
LẬP PHÁP
KINH NGHIỆM QUỐC TẾ
có ít nhất 1 CĐSL hoặc nhiều hơn tại thời
điểm thành lập, nhưng CĐSL phải là 1 thể
nhân hoặc 1 pháp nhân có nơi cư trú hoặc có
trụ sở tại khu vực kinh tế Âu Châu hoặc tại
Thụy Điển; nếu là một cá nhân người Thụy
Điển thì phải có năng lực pháp lý13. Pháp
luật Cộng hoa liên bang Đức và Cộng hòa
liên bang Nga cho phép một CTCP có thể
được thành lập bởi 1 hoặc nhiều cổ đông.
Việc thành lập CTCP tại Nga đòi hỏi phải
thông qua một Hội nghị thành lập bao gồm
nhiều CĐSL (nếu chỉ có 1 CĐSL thì cổ đông
này tự ra quyết định thành lập). Tại Hội nghị
thành lập này, các CĐSL sẽ biểu quyết theo
tỷ lệ ¾ để bầu ra các cơ quan quản trị của
CTCP14. Tại Nhật Bản, khi thành lập CTCP
thì các cổ đông sáng lập phải có trách nhiệm
chuẩn bị điều lệ công ty và ký tên, ghi rõ họ
tên (kể cả đóng dấu nếu có) vào bản điều lệ
của công ty15.
2.3. Tỷ lệ nắm giữ cổ phần của cổ đông
sáng lập khi thành lập công ty
Tại Thái Lan, CTCP thành lập phải có ít
nhất 15 CĐSL và các CĐSL phải mua được
ít nhất 5% số vốn đăng ký của CTCP tại thời
điểm thành lập16. Luật Công ty năm 2005
của Thụy Điển yêu cầu tất cả các CĐSL phải
góp đủ cổ phần tại thời điểm thành lập công
ty17. Tại Italia, các nhà đầu tư sáng lập CTCP
phải thanh toán đủ tiền mua cổ phần với tỷ
lệ ít nhất 25% trước khi thành lập công ty18.
Theo quy định của pháp luật Đài Loan,
CĐSL không bị bắt buộc mua một tỷ lệ cổ
phần tối thiểu tại thời điểm thành lập CTCP,
Luật Công ty Đài Loan chỉ yêu cầu CĐSL
sau khi thanh toán đủ tiền mua cổ phần lần
đầu phát hành của công ty tại thời điểm
thành lập là được19. Tại Nga, tối thiểu 50%
cổ phần phát hành rộng rãi ra bên ngoài tại
thời điểm thành lập CTCP phải được thanh
toán đủ trong thời hạn 3 tháng kể từ ngày
đăng ký thành lập. Đối với cổ phần của
CĐSL sẽ không có quyền biểu quyết nếu
CĐSL không thánh thoán đủ tiền mua cổ
phần, trừ trường hợp điều lệ công ty có quy
định khác20. Tại Trung Quốc, trước ngày
01/03/2014, theo quy định tại Luật Công ty
năm 2005, các công ty khi đăng ký thành lập
phải đăng ký tối thiểu 30.000 tệ và số vốn
góp ban đầu của các CĐSL phải tối thiểu
20% vốn đăng ký, đồng thời số vốn góp ban
đầu của cổ đông phải được thanh toán đủ tại
thời điểm thành lập công ty, còn số vốn góp
còn lại thì thanh toán trong thời hạn 2 năm,
13 Xem: Section 1, Chương 2 Luật Công ty Thụy Điển 2005;
institutter/erhvervsjuridiskinstitut-skjultforgoogle/EMCA/NationalCompaniesActsMemberStates/Sweden/
THE_SWEDISH_COMPANIES_ACT.pdf.
14 Xem: Điều 9 Luật Công ty cổ phần CHLB Nga 1995; https://www.wto.org/english/thewto_e/acc_e/rus_e/
WTACCRUS58_LEG_394.pdf.
15 Xem: Điều 26 Luật Cộng ty Nhật Bản năm 2005;
id=2052&vm=04&re=02
16 Xem: Điều 16 và Điều 17 Luật Công ty cổ phần Thái Lan 2009;
ewt_news.php?nid=3932.
17 Nguồn:
18 Xem: “A review of UK and Italian and UK Company Law” A joint study by Consiglio Nazionale dei
Dotteri Commercialisti a degli Esperti Contabili and The Association of Chartered Certified Accountants
Published by the Certified Accountants Educational Trust, London July, 2009, tr. 22.
19 Xem: Điều 131 Luật Công ty Đài Loan Trung Quốc 2009; news/20132
/1793.html.
20 Xem: Điều 34 Luật Công ty cổ phần CHLB Nga 1995; https://www.wto.org/english/thewto_e/acc_e/rus_e/
WTACCRUS58_LEG_394.pdf.
Số 4(404) - T2/202060 NGHIÊN CỨULẬP PHÁP
KINH NGHIỆM QUỐC TẾ
kể từ ngày thành lập công ty. Ngoài ra, số
vốn góp bằng tiền mặt của cổ đông phải tối
thiểu bằng 30% số vốn góp đăng ký của
công ty. Tuy nhiên, ngày 28/12/2013, Trung
Quốc đã sửa đổi Luật Công ty năm 2005 thì
từ ngày 01/03/2014 tất cả những quy định về
vốn pháp định và số vốn góp tối thiểu của
nhà đầu tư khi thành lập công ty tại Trung
Quốc đều bị bãi bỏ21. Tại Đức, cổ đông phải
thanh toán tiền mặt cho công ty tối thiểu là
25% giá cổ phần phát hành và phải góp đủ
tại thời điểm thành lập. Nếu góp vốn mà cổ
đông phải chuyển quyền sở hữu tài sản cho
công ty thì nghĩa vụ này phải hoàn thành
trong vòng 5 năm từ thời điểm đăng ký22.
Tại Việt Nam, trước thời điểm năm
2000, theo quy định tại Điều 32 Luật Công
ty năm 1990 thì các sáng lập viên phải cùng
nhau đăng ký mua ít nhất 20% số cổ phiếu
dự tính phát hành của công ty. Và nếu các
sáng lập viên không đăng ký mua tất cả cổ
phiếu công ty, thì họ phải công khai gọi vốn
từ những người khác.
Hiện tại, theo quy định tại khoản 2 Điều
119 Luật Doanh nghiệp năm 2014 thì các
CĐSL phải cùng nhau đăng ký mua ít nhất
20% tổng số cổ phần phổ thông được quyền
chào bán tại thời điểm đăng ký doanh
nghiệp. Đồng thời, Điều 112 Luật Doanh
nghiệp năm 2014 cũng xác định trách nhiệm
của các cổ đông nói chung và CĐSL nói
riêng phải thanh toán đủ số cổ phần đã đăng
ký mua trong thời hạn 90 ngày, kể từ ngày
CTCP được cấp Giấy chứng nhận đăng ký
doanh nghiệp, trừ trường hợp điều lệ công
ty hoặc hợp đồng đăng ký mua cổ phần quy
định một thời hạn khác ngắn hơn. Và nếu
sau thời hạn 90 ngày nêu trên mà có cổ
đông chưa thanh toán hoặc chỉ thanh toán
được một phần số cổ phần đã đăng ký mua
thì xử lý theo một trong các hướng sau: 1)
Cổ đông chưa thanh toán số cổ phần đã
đăng ký mua sẽ không còn là cổ đông của
công ty và họ cũng không được chuyển
nhượng quyền mua cổ phần đó cho người
khác; 2) Cổ đông chỉ thanh toán một phần
số cổ phần đã đăng ký mua sẽ có quyền
biểu quyết, nhận lợi tức và các quyền khác
tương ứng với số cổ phần đã thanh toán. Họ
không được chuyển nhượng quyền mua số
cổ phần chưa thanh toán cho người khác.
Trong trường hợp này, CTCP phải đăng ký
điều chỉnh vốn điều lệ bằng giá trị mệnh giá
số cổ phần đã được thanh toán đủ và thay
đổi CĐSL trong thời hạn 30 ngày, kể từ
ngày kết thúc thời hạn phải thanh toán đủ
số cổ phần đã đăng ký mua.
Bên cạnh Luật Doanh nghiệp năm 2014,
một số luật chuyên ngành tại Việt Nam có
quy định đặc thù về tỷ lệ sở hữu cổ phần của
CĐSL khác biệt với Luật Doanh nghiệp năm
2014. Chẳng hạn, theo quy định tại khoản 5
Điều 55 Luật Các tổ chức tín dụng năm 2010
thì trong thời hạn 05 năm, kể từ ngày được
cấp Giấy phép thành lập tổ chức tín dụng,
các CĐSL phải nắm giữ số cổ phần tối thiểu
bằng 50% vốn điều lệ của tổ chức tín dụng,
các CĐSL là pháp nhân phải nắm giữ số cổ
phần tối thiểu bằng 50% tổng số cổ phần do
các cổ đông sáng lập nắm giữ.
2.4. Các hạn chế đối với cổ đông
sáng lập
Tại Việt Nam, trong giai đoạn từ năm
1990 – 1999, theo quy định tại khoản 3 Điều
21 Xem: Luật Công ty sửa đổi của Trung Quốc ban hành ngày 28/12/2013, có hiệu lực thực thi từ ngày
01/03/2014;
22 Xem: Điều 36a Luật Công ty cổ phần CHLB Đức 1965, được sửa đổi, bổ sung năm 2010;
tonrosefulbright.com/files/german-stock-corporation-act-147035.pdf.
61Số 4(404) - T2/2020
NGHIÊN CỨU
LẬP PHÁP
KINH NGHIỆM QUỐC TẾ
30 Luật Công ty năm 1990 thì cổ phiếu trong
CTCP được phát hành có thể là cổ phiếu có
ghi tên hoặc cổ phiếu không có ghi tên. Cổ
phiếu của sáng lập viên, của thành viên Hội
đồng quản trị phải là những cổ phiếu có ghi
tên. Cổ phiếu không ghi tên được tự do
chuyển nhượng, còn cổ phiếu có ghi tên chỉ
được chuyển nhượng, nếu được sự đồng ý
của HĐQT. Hiểu theo nghĩa trên tại Luật
Công ty năm 1990 thì các CĐSL trong
CTCP tại Việt Nam trong giai đoạn 1990 -
1999 bị một hạn chế khá lớn trong việc định
đoạt tài sản thuộc sở hữu của mình. Họ buộc
phải sở hữu loại cổ phần có phần đặc biệt so
với các cổ đông khác, đó là cổ phần có ghi
tên và loại cổ phần này không thể chuyển
nhượng tự do mà việc chuyển nhượng phải
dựa trên ý chí của Hội đồng quản trị (khi đó
phải được ít nhất ¾ tổng số thành viên Hội
đồng quản trị chấp thuận). Từ năm 2000 –
30/06/2015, thực hiện Luật Doanh nghiệp
năm 1999 và Luật Doanh nghiệp năm 2005,
việc bắt buộc phải ghi tên CĐSL trên loại cổ
phần mà họ sở hữu đã bị loại bỏ, thay vào
đó, CĐSL tại Việt Nam chỉ bị hạn chế
chuyển nhượng cổ phần đối với người nhận
chuyển nhượng không phải là cổ đông (theo
Luật Doanh nghiệp năm 1999) và không
phải là cổ đông sáng lập (theo Luật Doanh
nghiệp năm 2005) trong thời hạn 3 năm đầu
thành lập CTCP với điều kiện phải được Đại
hội đồng cổ đông – cơ quan quyền lực cao
nhất trong CTCP chấp thuận.
Từ ngày 01/07/2015, theo quy định tại
khoản 2 và khoản 3 Điều 119 Luật Doanh
nghiệp năm 2014, các CĐSL trong CTCP tại
Việt Nam phải cùng nhau đăng ký mua ít
nhất 20% tổng số cổ phần phổ thông được
quyền chào bán tại thời điểm đăng ký doanh
nghiệp. Và trong thời hạn 03 năm, kể từ
ngày công ty được cấp Giấy chứng nhận
đăng ký doanh nghiệp, CĐSL có quyền tự
do chuyển nhượng cổ phần của mình cho
CĐSL khác và chỉ được chuyển nhượng cổ
phần phổ thông của mình cho người không
phải là CĐSL nếu được sự chấp thuận của
Đại hội đồng cổ đông. Tuy nhiên, các hạn
chế đối với cổ phần phổ thông của CĐSL
được bãi bỏ sau thời hạn 03 năm, kể từ ngày
công ty được cấp Giấy chứng nhận đăng ký
doanh nghiệp. Các hạn chế của quy định này
không áp dụng đối với cổ phần mà CĐSL có
thêm sau khi đăng ký thành lập doanh
nghiệp và cổ phần mà CĐSL chuyển nhượng
cho người khác không phải là CĐSL của
công ty.
Bên cạnh Luật Doanh nghiệp năm 2014,
khoản 4 Điều 56 Luật Các tổ chức tín dụng
năm 2010 cũng có quy định đặc thù riêng về
hạn chế đối với CĐSL trong các ngân hàng
thương mại cổ phần (bản chất pháp lý vẫn là
CTCP hoạt động theo Luật Doanh nghiệp
năm 2014) đó là: Trong thời hạn 05 năm, kể
từ ngày được cấp Giấy phép, CĐSL chỉ được
phép chuyển nhượng cổ phần cho các CĐSL
khác với điều kiện bảo đảm các tỷ lệ sở hữu
cổ phần quy định tại Điều 55 Luật Các tổ
chức tín dụng năm 2010. Từ các quy định
trên, có thể rút ra một nhận xét chung là pháp
luật doanh nghiệp Việt Nam chỉ áp dụng sự
hạn chế cơ bản đối với CĐSL khi buộc họ
phải nắm giữ một tỷ lệ tối thiểu cổ phần tại
thời điểm thành lập công ty và quyền chuyển
nhượng cổ phần của họ bị giới hạn khó hơn
so với các cổ đông phổ thông khác trong
CTCP, không quy định tiêu chí họ phải cư
trú (hoặc thường trú) tại Việt Nam.
Ở đây, nếu so sánh với quy định tại pháp
luật doanh nghiệp một số nước, chúng ta
thấy có những điểm tương đồng và khác
biệt. Khoản 2 và khoản 3 Điều 17 Luật Công
ty cổ phần Thái Lan 2009 quy định ít nhất ½
số lượng CĐSL phải thường trú tại Thái Lan
và phải góp vốn mua cổ phần, thanh toán
tiền mua cổ phần ít nhất là 5% số vốn đăng
ký của công ty. Tại Thái Lan, các cổ phần
mà CĐSL góp vốn mua tại thời điểm thành
lập công ty (ít nhất 5%) sẽ bị hạn chế chuyển
Số 4(404) - T2/202062 NGHIÊN CỨULẬP PHÁP
KINH NGHIỆM QUỐC TẾ
nhượng trong thời hạn 2 năm đầu kể từ ngày
thành lập công ty, trừ trường hợp phải được
sự chấp thuận của ĐHCĐ23. Quy định của
Đan Mạch yêu cầu ít nhất 1 CĐSL phải cư
trú tại Đan Mạch24.
3. Kết luận và kiến nghị
Quy định về CĐSL của công ty cổ phần
là một nội dung quan trọng trong pháp luật
doanh nghiệp Việt Nam cũng như pháp luật
doanh nghiệp tại nhiều quốc gia khác trên
thế giới. Theo quy định tại Luật Doanh
nghiệp năm 2014, việc trở thành CĐSL của
CTCP tại Việt Nam được xác lập dựa trên sự
thỏa thuận giữa các nhà đầu tư tại thời điểm
thành lập công ty, chỉ cần 1 công ty cổ phần
đảm bảo ít nhất 3 CĐSL là được, không nhất
thiết toàn bộ tất cả các nhà đầu tư tham gia
thành lập công ty, thông qua điều lệ của công
ty cổ phần đều là CĐSL theo quan điểm
truyền thống trước đây. Quy định này trao
quyền tự quyết cho nhà đầu tư trong việc họ
trở thành CĐSL hay không trên cơ sở cân
nhắc các lợi ích mà họ có thể có được từ tư
cách CĐSL này. Mặc dù pháp luật nhiều
quốc gia trên thế giới có những quy định
khác nhau về số lượng CĐSL tối thiểu của 1
công ty cổ phần tại thời điểm thành lập,
nhưng nhìn chung, pháp luật doanh nghiệp
một số quốc gia như Thái Lan, Italia, Đức
đều quy định các CĐSL phải sở hữu ít nhất
từ 5% cho đến 25% tổng số cổ phần được
quyền phát hành của CTCP tại thời điểm
thành lập. Và những hạn chế về chuyển
nhượng cổ phần của CĐSL trong giai đoạn
đầu thành lập CTCP cũng là những quy định
tương đồng có thể được tìm thấy trong Luật
Doanh nghiệp năm 2014 của Việt Nam và
pháp luật doanh nghiệp ở nhiều quốc gia
khác trên thế giới. Tuy nhiên, dù có những
điểm khác biệt nhất định nhưng vai trò, vị trí
của CĐSL trong CTCP là không thể thiếu
trong thực tiễn kinh tế thị trường cũng như
pháp luật thực định của các quốc gia có nền
kinh tế thị trường gắn với quyền tự do kinh
doanh của doanh nghiệp.
Qua tham khảo quy định của pháp luật
về CĐSL tại một số quốc gia trên thế giới
cũng như qua thực tiễn thi hành Luật Doanh
nghiệp năm 2014 tại Việt Nam thời gian qua,
Tác giả kiến nghị sửa đổi Luật Doanh nghiệp
năm 2014 ở hai nội dung sau:
Một là, sửa đổi Điều 112 Luật Doanh
nghiệp 2014 theo hướng bỏ quy định cho
phép CĐSL có thời hạn 90 ngày để thanh
toán tiền đăng ký mua cổ phần khi thành lập
CTCP. Thay vào đó, tất cả CĐSL đều phải
thanh toán đủ tiền mua cổ phần ngay tại thời
điểm thành lập công ty tương ứng với số
lượng cổ phần mà họ đăng ký mua. Việc sửa
đổi này là cần thiết nhằm đảm bảo cho vốn
điều lệ của CTCP tại thời điểm thành lập có
tính thực chất hơn, hạn chế tình trạng “vốn
ảo” của CTCP trong giai đoạn đầu thành lập,
đồng thời giảm bớt chi phí tài chính phát
sinh cho CTCP do phải thực hiện các thủ tục
hành chính về thay đổi vốn điều lệ với cơ
quan đăng ký kinh doanh trong trường hợp
có vi phạm việc thanh toán tiền mua cổ phần
của CĐSL như thời gian vừa qua.
Hai là, bổ sung quy định CTCP phải có
ít nhất một CĐSL cư trú tại Việt Nam tại thời
điểm thành lập công ty, thay cho quy định
hiện hành không có yêu cầu bắt buộc. Quy
định mới này nhằm đảm bảo hiệu lực quản
lý nhà nước đối với CTCP hiệu quả hơn,
tăng cường trách nhiệm của CĐSL đối với
các doanh nghiệp đối tác và hạn chế các tiêu
cực phát sinh trong quá trình thành lập, hoạt
động của CTCP về sau n
23 Xem: Section 57 Luật Công ty cổ phần Thái Lan 2009;
nid=3932.
24 Xem: Mục 3 Phần 2 Luật Công ty cổ phần Đan Mạch 2000;
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- quy_dinh_ve_co_dong_sang_lap_trong_phap_luat_viet_nam_va_pha.pdf