Quy tắc tăng trưởng kép và phép mầu trở thành nước có thu nhập cao

Việt Nam đang đứng trước bước ngoặt của cải cách và phát triển. Thời cơ và thuận lợi rất lớn, nhưng thách thức và khó khăn cũng không hề nhỏ. Đối với một quốc gia có thu nhập trung bình thấp, để đảm bảo tăng trưởng bao trùm và bền vững hơn, thách thức đặt ra với Việt Nam là quá trình quá độ sang mô hình tăng trưởng mới dựa vào tăng trưởng năng suất nhanh chóng, đổi mới, gia tăng giá trị cao và thúc đẩy khả năng cạnh tranh quốc tế để mang lại nhiều công ăn việc làm cho phần lớn người dân Việt Nam. Để đạt được khát vọng 2035, lựa chọn duy nhất của Việt Nam là thực hiện những cải cách toàn diện và sâu rộng về thể chế và thị trường nhằm thúc đẩy mạnh mẽ những động lực phát triển, tạo nền tảng cho một nền kinh tế thu nhập cao vào năm 2036.

pdf6 trang | Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 14/01/2022 | Lượt xem: 343 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Quy tắc tăng trưởng kép và phép mầu trở thành nước có thu nhập cao, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
➢➢➢ 14 TS. Phạm Đăng Quyết* Tóm tắt: Trong kinh tế học, quy tắc 70 có nghĩa là nếu một đại lượng nào đó tăng với tốc độ X%/năm thì sau khoảng thời gian là 70/X năm thì giá trị của đại lượng đó sẽ tăng lên gấp đôi. Vận dụng quy tắc này, tác giả phân tích tăng trưởng tống thu nhập quốc gia (GNI) và thu nhập bình quân đầu người của Việt Nam GNI/người trong những năm đổi mới và dự báo Việt Nam sẽ trở thành nước có thu nhập trung bình cao vào năm 2024 và là nước có thu nhập cao vào năm 2036. 1. Quy tắc 70 Quy tắc 70 (có người gọi là quy tắc 72) được Luca Pacioli (1445-1514) viết lần đầu tiên trong cuốn Summa de arithmetica (Venice, 1494. Fol.181, n.44), ông trình bày quy tắc này tại một cuộc thảo luận liên quan đến việc ước tính thời gian nhân đôi của một khoản đầu tư1. Quy tắc 70 như sau: Đặt Yt = Tổng thu nhập quốc gia GNI năm t. Giả sử tốc độ tăng GNI là g: Yt + 1 = (1 + g) Yt. Đặt log(x) biểu thị logarit tự nhiên, hoặc log cơ số e, của x (log(x) đôi khi cũng được ký hiệu là ln(x)). Một thực tế hữu ích: log(ax) = log(a) + log(x). Một xấp xỉ hữu ích: log(1 + g) ≈ g nếu g gần bằng 0. * Hội Thống kê Việt Nam 1 https://en.wikipedia.org/wiki/Rule_of_72 Cũng có người cho rằng quy tắc 70 đã có từ trước do Pacioli không giải thích được rõ ràng. Một dẫn xuất đơn giản: log(𝑌𝑡+1) = log((1 + 𝑔)𝑌𝑡) = log(1 + 𝑔) + log(𝑌𝑡) ≈ 𝑔 + log⁡(𝑌𝑡) ⇒ log(𝑌𝑡+1) − log⁡(𝑌𝑡) ≈ 𝑔 Sự khác biệt trong log là (xấp xỉ) bằng với tốc độ tăng. Câu hỏi: Nếu GNI tăng trưởng với tốc độ không đổi g, thì phải mất bao lâu để GNI tăng gấp đôi? Ta đặt năm gốc là năm 0. Sau đó: 𝑌1 = (1 + 𝑔)𝑌0 𝑌2 = (1 + 𝑔)𝑌1 = (1 + 𝑔) 2𝑌0 𝑌3 = (1 + 𝑔)𝑌2 = (1 + 𝑔) 2𝑌1 = (1 + 𝑔) 3𝑌0 • Công thức chung là: 𝑌𝑡 = (1 + 𝑔) 𝑡𝑌0 • Lấy log của cả hai vế: 𝑙𝑜𝑔(𝑌𝑡) = 𝑙𝑜𝑔⁡((1 + 𝑔) 𝑡𝑌0 = 𝑙𝑜𝑔((1 + 𝑔)𝑡) + 𝑙𝑜𝑔(𝑌0) = 𝑡𝑙𝑜𝑔(1 + 𝑔) + 𝑙𝑜𝑔(𝑌0) ≈ 𝑙𝑜𝑔(𝑌0) + 𝑔𝑡 Nếu GNI tăng trưởng với tốc độ không đổi, thì log của GNI, được biểu thị theo thời gian t, là một đường thẳng có độ dốc bằng với tốc độ tăng g (Hình 1).  15 Hình 1: Log (GNI) giai đoạn 1989-2017 Nguồn: World Development Indicators và tính toán của tác giả • Giả sử GNI tăng gấp đôi trong đúng T năm: YT = 2Y0 Chúng ta muốn giải T theo phương trình: (1 + g)T = 2 • Lấy log của cả hai vế: log((1 + 𝑔)𝑇) = log(2) ≈ 0,693 • Ngoài ra: log((1 + 𝑔)𝑇) = 𝑇𝑙𝑜𝑔(1 + 𝑔) ≈ 𝑇𝑔 • Kết quả: 𝑇 ≈ 0,693 𝑔 (hoặc 𝑇 ≈ 70 100𝑔 ) Quy tắc 70 như sau: Tốc độ tăng hàng năm của GNI Thời gian nhân đôi 1% 2% 3% 5% 6% 70 năm 35 năm 23 năm 14 năm 12 năm • Đạo lý: Những thay đổi nhỏ về tốc độ tăng có tác động lâu dài đáng kể. Hình 2: GNI và tốc độ tăng GNI năm 1990-2018 Nguồn: World Development Indicators Hình 2 cho thấy lịch sử tăng trưởng GNI của Việt Nam từ 1990 đến 2018. GNI đã tăng gấp đôi trong khoảng thời gian từ 1990 đến 1995: 6 năm. Tốc độ tăng GNI trung bình trong giai đoạn này: 70/6 ≈ 11,7%. GNI đã tăng gấp đôi một lần nữa trong khoảng thời gian từ năm 1995 đến 2002: 8 năm. Tốc độ tăng GNI trung bình trong giai đoạn này: 70/8 ≈ 8,8%. 0.0 2.0 4.0 6.0 8.0 10.0 12.0 14.0 1 9 8 9 1 9 9 1 1 9 9 3 1 9 9 5 1 9 9 7 1 9 9 9 2 0 0 1 2 0 0 3 2 0 0 5 2 0 0 7 2 0 0 9 2 0 1 1 2 0 1 3 2 0 1 5 2 0 1 7 8528 18480 36889 71581 156269 225882 -50.0 -40.0 -30.0 -20.0 -10.0 0.0 10.0 20.0 30.0 40.0 0 50000 100000 150000 200000 250000 1 9 9 0 1 9 9 1 1 9 9 2 1 9 9 3 1 9 9 4 1 9 9 5 1 9 9 6 1 9 9 7 1 9 9 8 1 9 9 9 2 0 0 0 2 0 0 1 2 0 0 2 2 0 0 3 2 0 0 4 2 0 0 5 2 0 0 6 2 0 0 7 2 0 0 8 2 0 0 9 2 0 1 0 2 0 1 1 2 0 1 2 2 0 1 3 2 0 1 4 2 0 1 5 2 0 1 6 2 0 1 7 2 0 1 8 GNI (triệu US$) Tốc độ tăng (%) ➢➢➢ 16 GNI đã tiếp tục tăng gấp đôi một lần nữa trong khoảng thời gian từ năm 2002 đến 2007: 6 năm. Tốc độ tăng GNI trung bình trong giai đoạn này: 70/6 ≈ 11,7%. Cuối cùng, GNI đã tăng gấp đôi một lần nữa trong khoảng thời gian từ năm 2007 đến 2013: 7 năm. Tốc độ tăng GNI trung bình trong giai đoạn này: 70/7 ≈ 10%. Tốc độ tăng GNI trung bình hàng năm giai đoạn 1990-2018 là 10,9%. Trung bình cứ 7 năm GNI của Việt Nam tăng lên gấp đôi với tốc độ tăng trung bình là 10,5%. Điều chúng ta thực sự quan tâm là GNI bình quân đầu người (hoặc thu nhập bình quân đầu người). Xác định: Nt = dân số trong năm t. Giả sử tốc độ tăng dân số là n: Nt + 1 = (1 + n) Nt. Hình 3: Dân số và tốc độ tăng dân số giai đoạn 1990-2018 Nguồn: World Development Indicators Hình 3 cho thấy quy mô dân số và tốc độ tăng dân số hàng năm từ 1990 đến 2018. Quy mô dân số đã tăng gấp đôi trong khoảng thời gian từ 1960 đến 1995: 36 năm. Tốc độ tăng dân số trung bình trong giai đoạn này: 70/36 ≈ 1,9%. Quy mô dân số đã tiếp tục tăng gấp đôi trong khoảng thời gian từ năm 1974 đến 2018: 45 năm. Tốc độ tăng dân số trung bình trong giai đoạn này: 70/45 ≈ 1,5%. Tốc độ tăng dân số trung bình hàng năm giai đoạn 1990-2018 là 1,2%. GNI bình quân đầu người trong năm t là: Yt/Nt. Tăng trưởng GDP bình quân đầu người (xấp xỉ): log ( 𝑌𝑡+1 𝑁𝑡+1 ) - log ( 𝑌𝑡 𝑁𝑡 ) = log (𝑌𝑡+1) - log (𝑌𝑡) - (log (𝑁𝑡+1) - log (𝑁𝑡)) ≈ g-n Tốc độ tăng GNI bình quân đầu người hàng năm kể từ năm 1990: 10,9% - 1,2% = 9,7%. Thời gian nhân đôi = 70/9,7 ≈ 7 năm. 32670 47658 74910 95540 0.0 0.5 1.0 1.5 2.0 2.5 3.0 3.5 0 20000 40000 60000 80000 100000 120000 Dân số (nghìn người) Tốc độ tăng DS (%)  17 Hình 4: GNI bình quân đầu người ở Việt Nam giai đoạn 1989-2018 Nguồn: World Development Indicators Hình 4 cho thấy thu nhập bình quân đầu người của Việt Nam từ năm 1990 đến 2018. Cùng với sự tăng trưởng của GNI, GNI/người đã tăng gấp đôi trong khoảng thời gian từ 1990 đến 1995: 6 năm. Tốc độ tăng GNI/người trung bình trong giai đoạn này: 70/6 ≈ 11,7%. GNI/người đã tăng gấp đôi một lần nữa trong khoảng thời gian từ năm 1995 đến 2003: 9 năm. Tốc độ tăng GNI/người trung bình trong giai đoạn này: 70/9 ≈ 7,7%. GNI/người đã tiếp tục tăng gấp đôi một lần nữa trong khoảng thời gian từ năm 2003 đến 2009: 7 năm. Tốc độ tăng GNI/người trung bình trong giai đoạn này: 70/7 ≈ 10%. Cuối cùng, GNI/người đã tăng gấp đôi một lần nữa trong khoảng thời gian từ năm 2009 đến 2016: 8 năm. Tốc độ tăng GNI/người trung bình trong giai đoạn này: 70/8 ≈ 8,7%. Tốc độ tăng GNI/người trung bình hàng năm giai đoạn 1990-2018 là 9,6%. Trung bình cứ 7,5 năm GNI/người của Việt Nam tăng lên gấp đôi với tốc độ tăng trung bình là 9,5%. Từ những phân tích trên có thể kết luận trung bình khoảng 7 năm thu nhập bình quân đầu người của Việt Nam sẽ tăng gấp đôi với tốc độ tăng trung bình là 9,7%. 2. Mục tiêu trở thành nước có thu nhập cao vào giữa Thế kỷ XXI Ngân hàng Thế giới phân loại các nước dựa trên thu nhập bình quân đầu người (GNI/người) thành bốn nhóm: 1- Nước có thu nhập thấp; 2- Nước có thu nhập trung bình thấp; 3- Nước có thu nhập trung bình cao; 4- Nước có thu nhập cao. Đối với năm tài chính 2020, các nền kinh tế có thu nhập thấp được xác định là những nền kinh tế có GNI bình quân đầu người, được tính toán bằng phương pháp Atlas của Ngân hàng Thế giới2, từ 1.025 đô la trở xuống 2 Hệ số chuyển đổi Atlas cho bất kỳ năm nào là trung bình của tỷ giá hối đoái của một quốc gia trong năm đó và tỷ giá hối đoái của hai năm trước đó, được điều chỉnh theo chênh lệch giữa tỷ lệ lạm phát trong nước và lạm phát quốc tế; Mục tiêu của việc điều chỉnh là giảm bất kỳ thay đổi nào đối với tỷ giá hối đoái do lạm phát. 130 250 500 1010 2080 2360 0 500 1000 1500 2000 2500 1 9 8 9 1 9 9 0 1 9 9 1 1 9 9 2 1 9 9 3 1 9 9 4 1 9 9 5 1 9 9 6 1 9 9 7 1 9 9 8 1 9 9 9 2 0 0 0 2 0 0 1 2 0 0 2 2 0 0 3 2 0 0 4 2 0 0 5 2 0 0 6 2 0 0 7 2 0 0 8 2 0 0 9 2 0 1 0 2 0 1 1 2 0 1 2 2 0 1 3 2 0 1 4 2 0 1 5 2 0 1 6 2 0 1 7 2 0 1 8 ➢➢➢ 18 vào năm 2018; các nền kinh tế có thu nhập trung bình thấp là những nền kinh tế có GNI bình quân đầu người trong khoảng từ 1.026 đô la đến 3.995 đô la; các nền kinh tế có thu nhập trung bình cao là những nền kinh tế có GNI bình quân đầu người trong khoảng từ 3.996 đô la đến 12.375 đô la; các nền kinh tế có thu nhập cao là những nền kinh tế có GNI bình quân đầu người từ 12.376 đô la trở lên. Hiện nay, Việt Nam thuộc nhóm nước có thu nhập trung bình thấp. Trong quá trình chuẩn bị các văn kiện Đại hội XIII của Đảng thời gian vừa qua, sau nhiều cuộc hội thảo, trao đổi, thảo luận của các chuyên gia, cơ quan khoa học và tiếp thu ý kiến của các cơ quan, lãnh đạo các ban, bộ, ngành, đến nay, mục tiêu phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa đến năm 2025, 2030 đã bước đầu được xác định: đến năm 2025 cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại, có thu nhập trung bình cao; đến năm 2030 trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại, thuộc nhóm trên của các nước có thu nhập trung bình cao. Tầm nhìn về phát triển đất nước đến giữa thế kỷ XXI (năm 2045) là trở thành nước phát triển, có thu nhập cao3. Từ năm 2009 trở về trước Việt Nam có GNI/người dưới 1025 đô la, là nước có thu nhập thấp; từ năm 2010 đến nay GNI/người của Việt Nam tăng từ 1.250 đô la lên gần gấp đôi 2.360 đô la, thuộc nhóm nước có thu nhập trung bình thấp (Hình 4). Để trở thành nước có thu nhập trung bình cao GNI/người của Việt Nam phải đạt ít nhất 4.000 đô la, tức là phải tăng gấp đôi so với GNI/người của năm 2016, có nghĩa là sau 7 năm hay là vào năm 2024. Hình 5: So sánh GNI/người và GDP/người và dự báo tới năm 2037 Nguồn: World Development Indicators và tính toán của tác giả Hình 5 so sánh GNI bình quân đầu người và GDP bình quân đầu người giai đoạn 1989- 2018 và dự báo đến năm 2037 với giả thiết GNI/người tăng trưởng với tốc độ tăng không đổi 9,7%. Theo quy tắc 70 và trên cơ sở dự báo, ta thấy thu nhập bình quân đầu người của Việt Nam năm 2024 xấp xỉ 4.113 đô la, Việt Nam trở thành nước có thu nhập trung bình cao; mục tiêu đến năm 2025 cơ bản trở thành 2010, 1250 2024, 4113 2036, 12492 2010, 1318 2023, 4104 2035, 12507 0 5000 10000 15000 20000 25000 30000 35000 GNI/người GDP/người  19 nước công nghiệp theo hướng hiện đại, có thu nhập trung bình cao là đạt được. Sau 7 năm sau nữa, nếu vẫn giữ tốc độ tăng GNI/người trung bình hàng năm 9,7%, thu nhập bình quân đầu người của Việt Nam sẽ tăng gấp đôi đạt 7.168 đô la vào năm 2030; điều này cảnh báo mục tiêu đến năm 2030 Việt Nam trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại, thuộc nhóm trên của các nước có thu nhập trung bình cao (trên 10.000 đô la) là khó khả thi. Nhưng 7 năm tiếp sau năm 2030, nếu Việt Nam vẫn giữ tốc độ tăng GNI/người trung bình hàng năm 9,7%, thu nhập bình quân đầu người của Việt Nam tiếp tục tăng đạt 13.704 đô la, Việt Nam có thể trở thành nước có thu nhập cao vào năm 2036 chứ không phải chờ đến giữa thế kỷ XXI (năm 2045) mới trở thành nước phát triển, có thu nhập cao. Việt Nam đang đứng trước bước ngoặt của cải cách và phát triển. Thời cơ và thuận lợi rất lớn, nhưng thách thức và khó khăn cũng không hề nhỏ. Đối với một quốc gia có thu nhập trung bình thấp, để đảm bảo tăng trưởng bao trùm và bền vững hơn, thách thức đặt ra với Việt Nam là quá trình quá độ sang mô hình tăng trưởng mới dựa vào tăng trưởng năng suất nhanh chóng, đổi mới, gia tăng giá trị cao và thúc đẩy khả năng cạnh tranh quốc tế để mang lại nhiều công ăn việc làm cho phần lớn người dân Việt Nam. Để đạt được khát vọng 2035, lựa chọn duy nhất của Việt Nam là thực hiện những cải cách toàn diện và sâu rộng về thể chế và thị trường nhằm thúc đẩy mạnh mẽ những động lực phát triển, tạo nền tảng cho một nền kinh tế thu nhập cao vào năm 2036. Tài liệu tham khảo: 1. PGS, TS. Nguyễn Văn Thạo, Tầm nhìn của Đảng về phát triển đất nước đến giữa thế kỷ XXI, Hội đồng Lý luận Trung ương, Tạp chí Cộng sản ngày 17/02/2020; 2. World Bank, The World Bank Atlas method - detailed methodology, https://datahelpdesk.worldbank.org/knowled gebase/articles/378832-what-is-the-world- bank-atlas-method. ------------------------------------------------------ Tiếp theo trang 9 10. Nguyen.H, Kathleen B. Aviso, Dien Quang Le, and Akihiro Tokai. (2018). Main Drivers of Carbon Dioxide Emissions in Vietnam Trajectory 2000-2011: An Input- Output; 11. Panayotou, T. (1993), Empirical tests and policy analysis of environmental degradation at different stages of economic development, Technical report, International Labour Organization; 12. Shafik N., Bandyopadhyay S. (1992), Economic growth and environmental quality: time-series and cross-country evidence, World Bank Publications, vol. 904; 13. Susmita Dasgupta, Benoit Laplante, Hua Wang and David Wheeler (2002), ‘Confronting the Environmental Kuznets Curve’, Journal of Economic Perspectives, Volume 16, Number 1-Winter 2002, Pages 147-168; 14. To TrungThanh, Nguyen, V. P. and Bui, T. (2016), ‘Some comparisons between the vietnam and china‟s economic structure, policy implications’, Advances in Management & Applied Economics, 6(3): 153-66.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfquy_tac_tang_truong_kep_va_phep_mau_tro_thanh_nuoc_co_thu_nh.pdf
Tài liệu liên quan