Quy tắc xuất xứ hàng hóa có ưu đãi GSP, EU, CEPT

MỤC LỤC I. Quy tắc xuất xứ hàng hóa có ưu đãi GSP 2 1.Tổng quan về quy tắc xuất xứ hàng hóa có ưu đãi GSP 2 1.1. Giới thiệu sơ lược về quy tắc xuất xứ hàng hóa có ưu đãi GSP 2 1.2. Đặc điểm của quy tắc xuất xứ hàng hóa có ưu đãi GSP 3 1.3. Điều kiện để hưởng quy tắc xuất xứ hàng hóa có ưu đãi GSP 4 1.3.1. Tiêu chuẩn xuất xứ 4 1.3.2. Điều kiện vận chuyển 13 1.3.3. Yêu cầu bộ chứng từ 15 1.3.4. Một số quy tắc khác 17 1.4.Các bước xác định hàng hóa ưu đãi theo quy định GSP 20 2. Việt nam và các quy tắc xuất xứ hàng hóa có ưu đãi GSP 23 2.1. Lợi ích của Việt Nam từ quy tắc xuất xứ hàng hóa có ưu đãi GSP 23 2.2. Thực trạng Việt nam thực hiện GSP 23 2.3. Đề xuất giải pháp 26 2.3.1.Về chiến lược kinh tế: 26 2.3.2. Về vấn đề hoàn thiện việc cấp C/O 27 Kết Luận 29 Tài liệu tham khảo 29 I. Quy tắc xuất xứ hàng hóa có ưu đãi GSP 1.Tổng quan về quy tắc xuất xứ hàng hóa có ưu đãi GSP 1.1. Giới thiệu sơ lược về quy tắc xuất xứ hàng hóa có ưu đãi GSP Hệ thống ưu đãi phổ cập GSP (Generalized Systems of Prefrences) là kết quả của cuộc đàm phán liên chính phủ được tổ chức dưới sự bảo trợ của hội nghị Thương mại và Phát triển của Liên hợp quốc (UNCTAD) năm 1986. GSP là chế độ tối huệ quốc đặc biệt, của các nước công nghiệp phát triển dành cho các nước đang phát triển, chậm phát triển khi đưa hàng công nghiệp chế biến vào các nước này được hưởng chế độ ưu đãi bằng cách giảm hoặc miễn thuế. Chế độ ưu đãi được xây dựng trên cơ sở không có sự phân biệt và không đòi hỏi bất kỳ nghĩa vụ nào từ phía các nước đang phát triển.Trên cơ sở của hệ thống GSP, mỗi quốc gia xây dựng một chế độ GSP cho riêng mình với những nội dung, quy định, mức ưu đãi khác nhau. Quy tắc xuất xứ hàng hóa là tập hợp các quy định nhằm xác định quốc gia nào được coi là đã sản xuất ra hàng hóa (nước xuất xứ của hàng hóa).Trong nhiều trường hợp, các nước nhập khẩu cần biết xuất xứ hàng hóa nhập khẩu để xác định quy chế đặc biệt áp dụng cho hàng hóa đó (ví dụ ưu đãi thuế quan, thuế chống bán phá giá, hạn ngạch ). Ngày nay, rất nhiều các sản phẩm được sản xuất theo các công đoạn khác nhau, mỗi công đoạn thực hiện ở một nước nhằm tận dụng những lợi thế liên quan của nước đó (ví dụ nhân công, nguồn nguyên liệu, kỹ thuật ). Vì vậy, cần có quy tắc xuất xứ để xác định doanh nghiệp có được hưởng thuế ưu đãi theo GSP hay không Với việc áp dụng tương đối rộng rãi nguyên tắc ưu đãi thuế quan phổ cập, hàng hóa nhập khẩu vào các nước hiện nay được áp dụng các mức thuế quan và các quy chế nhập khẩu tương tự nhau, không phân biệt hàng hóa đó có xuất xứ từ nước nào. Vì vậy trong nhiều trường hợp việc xác định xuất xứ hàng hóa là không cần thiết. 1.2. Đặc điểm của quy tắc xuất xứ hàng hóa có ưu đãi GSP 1.2.1. Những nước cho hưởng và được hưởng ưu đãi từ quy tắc xuất xứ hàng hóa có ưu đãi GSP Hiện nay, chế độ ưu đãi phổ cập gồm có 16 chế độ ưu đãi khác nhau đang hoạt động tại 28 nước phát triển, bao gồm 15 nước thành viên của EU

doc42 trang | Chia sẻ: thanhnguyen | Lượt xem: 9504 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Quy tắc xuất xứ hàng hóa có ưu đãi GSP, EU, CEPT, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
SP (Generalized Systems of Prefrences) là kết quả của cuộc đàm phán liên chính phủ được tổ chức dưới sự bảo trợ của hội nghị Thương mại và Phát triển của Liên hợp quốc (UNCTAD) năm 1986. GSP là chế độ tối huệ quốc đặc biệt, của các nước công nghiệp phát triển dành cho các nước đang phát triển, chậm phát triển khi đưa hàng công nghiệp chế biến vào các nước này được hưởng chế độ ưu đãi bằng cách giảm hoặc miễn thuế. Chế độ ưu đãi được xây dựng trên cơ sở không có sự phân biệt và không đòi hỏi bất kỳ nghĩa vụ nào từ phía các nước đang phát triển.Trên cơ sở của hệ thống GSP, mỗi quốc gia xây dựng một chế độ GSP cho riêng mình với những nội dung, quy định, mức ưu đãi khác nhau. Quy tắc xuất xứ hàng hóa là tập hợp các quy định nhằm xác định quốc gia nào được coi là đã sản xuất ra hàng hóa (nước xuất xứ của hàng hóa).Trong nhiều trường hợp, các nước nhập khẩu cần biết xuất xứ hàng hóa nhập khẩu để xác định quy chế đặc biệt áp dụng cho hàng hóa đó (ví dụ ưu đãi thuế quan, thuế chống bán phá giá, hạn ngạch…). Ngày nay, rất nhiều các sản phẩm được sản xuất theo các công đoạn khác nhau, mỗi công đoạn thực hiện ở một nước nhằm tận dụng những lợi thế liên quan của nước đó (ví dụ nhân công, nguồn nguyên liệu, kỹ thuật…). Vì vậy, cần có quy tắc xuất xứ để xác định doanh nghiệp có được hưởng thuế ưu đãi theo GSP hay không Với việc áp dụng tương đối rộng rãi nguyên tắc ưu đãi thuế quan phổ cập, hàng hóa nhập khẩu vào các nước hiện nay được áp dụng các mức thuế quan và các quy chế nhập khẩu tương tự nhau, không phân biệt hàng hóa đó có xuất xứ từ nước nào. Vì vậy trong nhiều trường hợp việc xác định xuất xứ hàng hóa là không cần thiết. 1.2. Đặc điểm của quy tắc xuất xứ hàng hóa có ưu đãi GSP 1.2.1. Những nước cho hưởng và được hưởng ưu đãi từ quy tắc xuất xứ hàng hóa có ưu đãi GSP Hiện nay, chế độ ưu đãi phổ cập gồm có 16 chế độ ưu đãi khác nhau đang hoạt động tại 28 nước phát triển, bao gồm 15 nước thành viên của EU. 1. Nhật 6. Hunggary 11. Canada 2. Newzeland 7. Séc 12. Na Uy 3. Thuỵ sỹ 8. Ba lan 13. úc 4. Mỹ 9. Nga 14. Rumania 5. Bungary 10. Các quốc gia trung lập (CIS) Cộng đồng châu âu (EU) bao gồm 15 thành viên: 1. áo 6. Italy 11. Phần lan 2. Bỉ 7. Luc Xăn Bua 12. Tây ban nha 3. Đan mạch 8. Hà lan 13. Thuỵ điển 4. Đức 9. Anh 14. Bồ đào nha 5. Ai len 10. Hy lạp 15. Pháp Nước được hưởng GSP: Bao gồm những nước đang phát triển và những nước kém phát triển. Các nước kém phát triển thường được hưởng một chế độ đặc biệt riêng, có nhiều ưu đãi hơn các nước đang phát triển. Đối với mỗi quốc gia dành ưu đãi, các nước được hưởng được liệt kê trong danh sách ban hành kèm theo chế độ GSP. Danh sách này có thể được sửa đổi bổ sung. 1.2.2.Hàng hoá được hưởng quy tắc xuất xứ hàng hóa có ưu đãi GSP Hàng hoá được hưởng ưu đãi là các sản phẩm công nghiệp. Danh mục hàng hoá được hưởng được các nước cho hưởng ưu đãi ban hành có sửa đổi định kỳ và được xây dựng trên có sở biểu thuế xuất nhập khẩu của nước đó. Việc bổ sung hay loại bỏ một mặt hàng nào đó trong Danh mục được các nước cho hưởng ưu đãi thực hiện dựa trên tình hình sản xuất trong nước mặt hàng đó. 1.2.3.Mức độ ưu đãi của quy tắc xuất xứ hàng hóa có ưu đãi GSP Các nước cho hưởng ưu đãi quy định thuế suất ưu đãi cho chế độ GSP dựa trên mức thuế suất của chế độ đối xử tối huệ quốc (MFN). Nhìn chung, thuế xuất ưu đãi theo chế độ GSP ở mức thấp khoảng vài phần trăm hoặc được miễn hoàn toàn. 1.2.4 Mục đích của quy tắc xuất xứ hàng hóa có ưu đãi GSP Mục đích chính của Quy tắc xuất xứ là đảm bảo là những lợi ích của chế độ ưu đãi thuế quan theo hệ thống ưu đãi phổ cập (GSP) chỉ được dành cho những sản phẩm mà thực sự có được do thu hoạch, sản xuất, gia công hoặc chế biến ở những nước xuất khẩu được hưởng. Một mục đích nữa là những sản phẩm xuất xứ ở một nước thứ ba, ví dụ là một nước không được hưởng, chỉ quá cảnh qua, hoặc đã chỉ trải qua một giai đoạn chế biến không đáng kể hoặc không ảnh hưởng tới thành phần, bản chất của sản phẩm tại một nước được hưởng ưu đãi, sẽ không được hưởng ưu đãi từ chế độ thuế quan GSP. 1.3. Điều kiện để hưởng quy tắc xuất xứ hàng hóa có ưu đãi GSP 1.3.1. Tiêu chuẩn xuất xứ Sản phẩm xuất khẩu từ một nước được chia thành 2 loại xuất xứ: Sản phẩm có xuất xứ toàn bộ hay có xuất xứ GSP, tức là những sản phẩm hoàn toàn sản xuất tại nước được hưởng ưu đãi, không sử dụng các bộ phận hay nguyên phụ liệu nhập khẩu, hoặc không rõ xuất xứ. Sản phẩm có thành phần nhập khẩu là những sản phẩm được sản xuất toàn bộ hoặc một phần từ nguyên liệu, bộ phận hoặc phụ tùng nhập khẩu vào nước hưởng ưu đãi hoặc từ những nguyên liệu nguyên liệu không rõ xuất xứ. Để được hưởng ưu đãi GSP chỉ khi chúng đã được "gia công hoặc chế biến đầy đủ" tại nước xuất khẩu được hưởng. Sản phẩm có xuất xứ toàn bộ Tiêu chuẩn xuất xứ toàn bộ được giải thích một cách tuyệt đối. Một thành phần nhỏ nhất của nguyên liệu, bộ phận hoặc phụ tùng nhập khẩu, hoặc xuất xứ của chúng không xác định được, sẽ làm cho sản phẩm hoàn thành liên quan mất tính chất "xuất xứ toàn bộ". Ví dụ: tượng gỗ làm từ gỗ "xuất xứ toàn bộ" tại một nước hưởng ưu đãi, nhưng được đánh bóng bằng sáp nhập khẩu, không có "xuất xứ toàn bộ" bởi vì đã sử dụng sáp nhập khẩu. Tất cả các nước cho hưởng đều chấp nhận những loại hàng hoá sau đây là có "xuất xứ toàn bộ" ở một nước được hưởng: a. Khoáng sản lấy từ lòng đất hoặc từ đáy biển; hoặc, đối với Bungary, Cộng hoà Séc, Hungary, Ba Lan, Liên bang Nga và Slovakia, khoáng sản khai thác trong lãnh thổ hoặc từ thềm lục địa nước được hưởng. b. Rau quả thu hoạch ở nước được hưởng; c. Động vật sống sinh trưởng ở nước được hưởng; d. Những sản phẩm có được do săn bắn hoặc đánh bắt ở nước được hưởng. f. Những sản phẩm từ đánh bắt xa bờ hoặc những sản phẩm khác lấy từ biển cả bởi tàu thuyền của nước được hưởng; và đối với Bungary, Cộng hoà Séc, Hungary, Ba Lan, Liên bang Nga và Slovakia, bởi tàu thuyền do nước được hưởng thuê . g. Những sản phẩm được làm trên tàu chế biến - chỉ từ những sản phẩm nói tại mục (f) nói trên; và đối với Bungary, Cộng hoà Séc, Hungary, Ba Lan, Liên bang Nga và Slovakia, bởi tàu thuyền do nước được hưởng thuê h. Những sản phẩm đã qua sử dụng thu thập tại nước được hưởng chỉ dùng cho tái chế nguyên liệu thô i. Phế liệu và phế thải từ hoạt động sản xuất diễn ra tại nước được hưởng. k. Những sản phẩm có tại nước được hưởng chỉ từ những sản phẩm nói tại mục (a) đến mục (i) nói trên. Úc nói chung chấp nhận những sản phẩm trong danh sách trên là những sản phẩm có xuất xứ toàn bộ, mặc dù những sản phẩm này không được quy định trong pháp luật của Úc. Mỹ, trong khi không có một danh sách những sản phẩm "xuất xứ toàn bộ" trong pháp luật nước mình, công nhận những sản phẩm nói trên là những ví dụ về việc đáp ứng tiêu chuẩn phần trăm của Mỹ. Sản phẩm có thành phần nhập khẩu Những sản phẩm được coi là xuất xứ tại nước được được hưởng, ngoài sản phẩm có "xuất xứ toàn bộ", còn bao gồm những sản phẩm được chế biến tại một nước được hưởng một cách toàn bộ hoặc một phần từ những nguyên liệu, bộ phận hoặc thành phần nhập khẩu, kể cả những nguyên liệu không xác định được xuất xứ hoặc không được xuất xứ. Những sản phẩm này được coi là có xuất xứ tại nước được hưởng nếu những nguyên liệu, bộ phận, thành phần đó đã được chế biến hoặc gia công đầy đủ tại nước đó. Về nguyên tắc chung, hoạt động chế biến hoặc gia công được coi là đầy đủ nếu chúng thay đổi thực chất tính chất hoặc đặc tính riêng của nguyên liệu đã sử dụng. Khái niệm chung này sẽ được mỗi bước cho hưởng xác định cụ thể. Khái niệm "gia công hoặc chế biến đầy đủ" được định nghĩa theo nhiều cách. Tuy nhiên, có hai tiêu chí chính dùng để xác định, mỗi tiêu chí này được một số nước sử dụng. Đó là "tiêu chuẩn gia công" và "tiêu chuẩn tỷ lệ phần trăm". Tiêu chuẩn gia công Tiêu chuẩn này được áp dụng bởi Cộng đồng Châu Âu, Nhật, Na uy và Thuỵ Sĩ. Theo nguyên tắc chung của tiêu chuẩn này, nguyên liệu, bộ phận hay thành phần nhập khẩu được coi là đã gia công chế biến đầy đủ khi thành phẩm được xếp vào hạng mục HS (1) (Hệ thống hài hoà) 4 số khác với hạng mục của tất cả các nguyên liệu, bộ phận hay thành phần nhập đã sử dụng (thường được gọi là quy tắc "thay đổi hạng mục thuế quan" - CTH rule). Tuy nhiên, có rất nhiều sản phẩm việc thay đổi hạng mục thuế quan thường không đảm bảo đã gia công hoặc chế biến đầy đủ (hoặc, nói cách khác, trong khi việc gia công hoặc chế biến đầy đủ có thể được tiến hành, trong một số trường hợp, chúng không liên quan đến việc thay đổi hạng mục thuế quan). Do vậy, các nước cho hưởng đã đưa ra một danh mục các hoạt động gia công hoặc chế biến phải thực hiện đối với nguyên liệu không có xuất xứ để sản phẩm cuối cùng được coi là có xuất xứ. Danh mục này chỉ bao gồm những sản phẩm mà đối với mỗi sản phẩm một số điều kiện nhất định phải được đáp ứng thay cho yêu cầu về thay đổi hạng mục thuế quan. Sau đây là một số ví dụ: Cộng đồng Châu Âu (EU) Các quy định xuất xứ ưu đãi của Cộng đồng Châu Âu gần đây nhất được quy định trong một Danh mục đơn (Single List). Những điều kiện nêu trong Danh mục đơn này như sau: (a) Yêu cầu những nguyên liệu ban đầu sử dụng trong quá trình sản xuất phải có xuất xứ từ nước xuất khẩu được hưởng. Ví dụ: đối với rau quả ăn được thuộc Chương 8, Danh mục yêu cầu tất cả các nguyên liệu thuộc Chương 7 được sử dụng đều phải có xuất xứ (toàn bộ). (b) Quy định chỉ có một số nguyên liệu đầu vào không có xuất xứ có thể được sử dụng như là nguyên liệu ban đầu; Ví dụ: chế phẩm từ thịt thuộc Chương 16, Danh mục đòi hỏi phải sử dụng động vật thuộc Chương 1 làm nguyên liệu ban đầu, có nghĩa là sử dụng thịt nhập khẩu sẽ khiến sản phẩm cuối cùng bị coi không có xuất xứ. (c) Tổng hợp cả hai điều kiện (a) (b) trên; Ví dụ: chế phẩm từ cá thuộc Chương 16, Danh mục quy định phải sản xuất từ động vật thuộc Chương 1 làm nguyên liệu ban đầu; tuy nhiên, tất cả được sử dụng phải có xuất xứ. (d) Yêu cầu các nguyên liệu đầu vào không có xuất xứ được sử dụng đã phải được chế biến ở mức độ thấp bình thường; Ví dụ; đối với hầu hết các sản phẩm may mặc và đồ phụ trợ, không phải là đan hoặc móc, thuộc Chương 62, Danh mục quy đinh phải sản xuất từ sợi đã xe; điều này có nghĩa là sử dụng vải nhập khẩu sẽ không có được xuất xứ cho sản phẩm cuối cùng. (e) Quy định nguyên liệu đầu vào không có xuất xứ được sử dụng không vượt quá một tỷ lệ phần trăm nhất định so với giá xuất xưởng của thành phẩm; Ví dụ: sản phẩm plastic thuộc các hạng mục 3922 đến 3926, Danh mục quy định phải đựơc làm ra mà trong đó trị giá của các nguyên liệu đầu vào không có xuất xứ được sử dụng không vượt quá 50% trị giá xuất xưởng của sản phẩm. (f) Cho phép sử dụng nguyên liệu đầu vào không có xuất xứ có cùng hạng mục HS với sản phẩm xuất khẩu; Ví dụ: đối với sản phẩm cao su cứng hạng mục 4017, Danh mục cho phép sản xuất từ nguyên liệu cao su cứng như là nguyên liệu ban đầu mà có cùng hạng mục 4017. Đối với điều kiện quy định việc sử dụng nguyên liệu không có xuất xứ không được vượt quá một tỷ lệ nhất định so với giá sản phẩm (xem mục e nói trên), việc tính toán các trị giá có thể tiến hành như sau: - Trị giá nguyên liệu đầu vào không có xuất xứ được xác định là trị giá hải quan tại thời điểm nhập khẩu vào nước cho hưởng hoặc, nếu không biết hoặc không thể xác định được, là giá xác định đầu tiên trả cho chúng tại nước đó; - Trị giá của sản phẩm cuối cùng là giá xuất xưởng của sản phẩm đó (đối với Nhật, là giá F.O.B), trừ đi mọi khoản thuế nội địa được hoàn trả khi sản phẩm được xuất khẩu. Giá này là giá trả cho nơi tiến hành quá trình gia công hoặc chế biến cuối cùng, với điều kiện giá đó bao gồm giá trị của tất cả các nguyên liệu sử dụng. Giá F.O.B bao gồm tất cả các chi phí phát sinh tại nước sản xuất, đặc biệt là chi phí vận chuyển từ nhà máy đến biên giới hoặc cảng và mọi chi phí và lợi nhuận của giao dịch buôn bán trung gian tại nước đó. - Trị giá hải quan là trị giá hải quan xác định theo Hiệp định 1994 về thi hành Điều VII của GATT (Hiệp định WTO về Trị giá Hải quan). Nhật Danh mục đơn của Nhật cũng có những quy định như quy tắc thay đổi hạng mục thuế quan, tiêu chuẩn phần trăm và tiêu chuẩn gia công hoặc chế biến nhất định. Kể từ năm 1993, Nhật đã loại bỏ quy định áp dụng cho sản phẩm thuộc Chương 62, theo đó những sản phẩm này được hưởng GSP thậm chí khi chúng được làm từ vải nhập khẩu. Tiêu chuẩn tỷ lệ phần trăm Tiêu chuẩn này được sử dụng ở các nước Úc, Canada, Niu-Di-Lân, Mỹ, Bungary, Cộng hoà Séc, Hungary, Ba Lan, Liên bang Nga và Slôvakia. Giữa các nước Bungary, Cộng Hoà Séc, Hungary, Ba Lan, Liên bang Nga và Slôvakia, tiêu chuẩn này đã được thống nhất, hài hoà hoá hoàn toàn. Các nước Canada, Bungary, Cộng hoà Séc, Hungary, Ba Lan, Liên bang Nga quy định một tỷ lệ phần trăm tối đa cho trị giá nguyên liệu, bộ phận và thành phần nhập khẩu hoặc không rõ xuất xứ được sử dụng. Các nước Úc, Niu-Di-Lân và Mỹ quy định một tỷ lệ phần trăm tối thiểu cho trị giá nguyên liệu nội địa và chi phí sản xuất khi sản xuất sản phẩm xuất khẩu. Sau đây là một số chi tiết về tiêu chuẩn phần trăm của một số nước. Úc (a) Quá trình sản xuất cuối cùng phải được thực hiện tại nước được hưởng làm ra sản phẩm mà tỷ lệ đó được áp dụng (b) Tối thiểu 50% tổng chi phí gia công hay chế biến sản phẩm phải bao gồm chi phí về nhân công và/hoặc trị giá nguyên liệu xuất xứ từ một hay nhiều nước được hưởng khác (vì mục đích của quy định này, mọi nguyên liệu từ Úc có thể được coi như là nguyên liệu xuất xứ từ nước được hưởng) . (c) Chi phí về sản xuất bao gồm mọi chi phí mà người sản xuất trực tiếp phải gánh chịu trong khi sản xuất sản phẩm, hoặc chi phí phát sinh một cách hợp lý trong khi sản xuất. Nó bao gồm nguyên liệu, nhân công và tổng chi phí. Canada Những sản phẩm được sản xuất tại nước được hưởng từ nguyên liệu, bộ phận hoặc thành phẩm nhập khẩu, không xác định hoặc không rõ xuất xứ sẽ được coi là có xuất xứ tại nước được hưởng đó nếu trị giá thành phần nhập khẩu không vượt quá 40%, đối với các nước kém phát triển, là không vượt quá 60% giá xuất xưởng của sản phẩm được đóng gói gửi sang Canada. Các chi phí sau sẽ không được tính vào thành phần nhập khẩu: - Mọi nguyên liệu được sử dụng để sản xuất ra sản phẩm, có xuất xứ từ các nước được hưởng khác (cộng gộp toàn cầu) hoặc từ Canada (quy tắc nước cho hưởng), và - Mọi chi phí đóng gói phục vụ vận chuyển hàng hoá, nhưng không bao gồm chi phí đóng gói hàng hoá phục vụ bán tiêu dùng trong nước được hưởng. Các thành phần trên được coi là có xuất xứ từ nước được hưởng. Niu-Di-Lân (a) Quá trình sản xuất cuối cùng phải được thực hiện tại nước được hưởng. (b) Tối thiểu một nửa (50%) chi phí sản xuất sản phẩm cuối cùng phải bao gồm: - Trị giá nguyên liệu của nước được hưởng; - Trị giá nguyên liệu của Niu-Di-Lân, và/hoặc - Các chi phí sản xuất khác phát sinh tại nước được hưởng hoặc tại Niu-Di-Lân. Ghi chú: Như vậy, nhằm để tính 50%, mọi nguyên liệu hoặc bộ phận được làm tại Niu-Di- Lân (thành phần nước bảo trợ) hoặc xuất xứ tại nước được hưởng (nguyên tắc cộng gộp đầy đủ và toàn cầu) có thể được cộng gộp lại để đáp ứng yêu cầu tối thiểu Mỹ Tỷ lệ phần trăm phải đáp ứng để sản phẩm cuối cùng có xuất xứ phải bao gồm: (a) Chi phí hoặc trị giá nguyên liệu được làm tại nước được hưởng và chi phí hoặc trị giá của mọi thành phần cấu thành sản phẩm mà được coi là có xuất xứ do đáp ứng tiêu chuẩn "thay đổi cơ bản" đối với các nguyên liệu nhập khẩu thành những sản phẩm thương mại mới và khác. (b) Chi phí trực tiếp của các hoạt động gia công được thực hiện tại nước được hưởng. Thuật ngữ "sản phẩm thương mại mới và khác" được Hải quan Mỹ sử dụng trong việc xếp loại hàng hoá. Ví dụ: (i) Da thô nhập khẩu vào nước được hưởng và được thuộc thành da có thể được coi là nguyên liệu đã được "thay đổi cơ bản" khi sử dụng để sản xuất ra áo da; (ii) Một khung làm từ thỏi vàng nhập khẩu có thể được coi là đã "thay đổi cơ bản" khi được làm thành nhẫn đeo tay tại nước được hưởng; (iii) Da thuộc nhập khẩu từ Phi-li-pin, được cắt thành hình và làm thành găng tay. Những mảnh đã định hình đó được coi là đã "thay đổi cơ bản" và trị giá của chúng có thể được tính vào để đáp ứng tiêu chuẩn 35%; (iv) Sáp nhập từ In-đô-nê-sia vào Singapore, được trộn với các phụ gia (phẩm, chất thơm, axit stiaric) và được làm thành nến. Sáp đã được trộn các phụ gia không được coi là đã được "thay đổi cơ bản" và giá trị của nó không được tính để xác định việc đáp ứng tiêu chuẩn 35%. Tỷ lệ phần trăm nói trên không ít hơn 35% "trị giá xác định" của hàng hoá tại Mỹ. Khi hàng hoá được coi là có xuất xứ theo tiêu chuẩn cộng gộp, có nghĩa là hàng hoá đó xuất xứ tại một nhóm nước xác định mà được coi như là một nước cụ thể vì mục đích của GSP, thì tỷ lệ phần trăm này cũng không được ít hơn 35% của trị giá xác định, nhưng có thể được tính trong bất kỳ nước nào thuộc nhóm đó. A. Thuật ngữ "chi phí hoặc trị giá nguyên liệu" được xác định như sau: (i) Chi phí thực tế về nguyên liệu của nhà sản xuất; (ii) Chi phí về đóng gói, bảo hiểm, vận tải và tất các chi phí khác phát sinh trong việc vận tải nguyên liệu đến nhà máy của người sản xuất, nếu những chi phí náy đã không được tính vào chi phí thực tế về nguyên liệu của nhà sản xuất; (iii) Chi phí thực tế về mất mát hoặc hư hỏng (hao hụt nguyên liệu), trừ đi trị giá phế liệu có thể tái chế; (iv) Lệ phí và/hoặc thuế phải đóng cho nguyên liệu, khi chúng không được hoàn trả khi xuất khẩu. B. Khi nguyên liệu được cung cấp cho nhà sản xuất mà không trả theo hoặc ít hơn giá thị trường, chi phí hoặc trị giá của chúng được xác định là tổng của: (i) tất cả các chi phí phát sinh khi trồng, sản xuất, chế biến hoặc lắp ráp nguyên liệu, bao gồm cả các chi phí chung; (ii) lợi nhuận; và (iii) Chi phí về vận tải, bảo hiểm, đóng gói và các chi phí khác phát sinh trong quá trình vận chuyển nguyên liệu đến nhà máy của người sản xuất. "Chi phí trực tiếp về các hoạt động gia công" là những chi phí mà phát sinh hoặc trực tiếp trong hoặc có thể được xác định hợp lý trong việc nuôi trồng, sản xuất, chế biến hoặc lắp ráp mặt hàng xác định. Những chi phí này bao gồm: (a) Tất cả chi phí về nhân công liên quan trong việc nuôi trồng, sản xuất, chế biến hoặc lắp ráp hàng hoá cụ thể, bao gồm phụ cấp, dạy nghề, và chi phí kỹ thuật, giám sát, kiểm soát chất lượng và chi phí về nhân sự tương tự; (b) Thuốc nhuộm, khuôn, dụng cụ và sự mất giá máy móc mà thiết bị mà xác định được cho hàng hoá cụ thể; (c) Chi phí nghiên cứu, thiết kế phát triển, kỹ thuật và thiết kế xác định được cho hàng hoá cụ thể, và (d) Chi phí kiểm tra và thử hàng hoá cụ thể. Những thứ không bao gồm trong "chi phí trực tiếp về các hoạt động gia công" là những thứ không thể gắn trực tiếp cho sản phẩm cụ thể được hoặc không phải là "những chi phí" sản xuất sản phẩm. Chúng bao gồm chủ yếu: (a) Lợi nhuận; và (b) Chi phí chung về giao dịch buôn bán mà hoặc không xác định được cho hàng hoá nhất định hoặc không liên quan tới việc nuôi trồng, sản xuất, chế biến hoặc lắp ráp hàng hoá đó, như lương hành chính, bảo hiểm tai nạn và trách nhiệm, lương cho quảng cáo và nhân viên bán hàng, tiền hoa hồng và công tác phí. Ví dụ minh hoạ về áp dụng tiêu chuẩn xuất xứ của Mỹ: Giả sử xe đạp có giá xuất xưởng là $500 được sản xuất tại nước được hưởng xuất sang Mỹ. (Ghi chú: giá xuất xưởng sẽ thường là giá xác định) Trường hợp 1: xe đạp này được sản xuất toàn bộ từ các nguyên liệu nội địa. Chúng được coi là sản xuất toàn bộ tại nước được hưởng và đáp ứng tiêu chuẩn xuất xứ. Trường hợp 2: xe đạp này được sản xuất như sau: (i) Líp nhập khẩu và có trong sản phẩm cuối cùng $100 (ii) Nguyên liệu nội địa $150 (iii) Chi phí gia công trực tiếp $100 (iv) Chi phí gián tiếp (tổng phí, lợi nhuận, v.v..) $100 Tổng cộng $500 Sản phẩm cuối cùng được coi là có xuất xứ tại nước được hưởng vì tổng trị giá nguyên liệu nội địa và chi phí gia công trực tiếp, là $250, chiếm 50% giá xuất xưởng, có nghĩa là không nhỏ hơn 35% giá xác dịnh. Trường hợp 3 (i) Líp nhập khẩu $100 (ii) Xích được sản xuất từ thép nhập khẩu (thép nhập khẩu được coi là đã được thay đổi cơ bản) $50 (iii) Yên (làm từ da nhập khẩu) Da nhập khẩu đã được thay đổi cơ bản $25 (iv) Nguyên liệu nội địa $50 (v) Chi phí gia công trực tiếp $75 (vi) Chi phí gia công gián tiếp (tổng phí, lợi nhuận, v.v. $200 Tổng cộng $500 Trong trường hợp này, chi phí nguyên liệu nội địa sẽ bao gồm (ii), (iii) và (iv), bởi xích và yên là những sản phẩm làm từ nguyên liệu nhập khẩu mà đã được thay đổi cơ bản tại nước được hưởng. Do đó, chi phí nguyên liệu nội địa ($200) chiếm 40% giá xuất xưởng ($500), có nghĩa là không nhỏ hơn 35% giá xác định. Do đó, xe đạp này đáp ứng tiêu chuẩn xuất xứ. Trường hợp 4 (i) Nguyên liệu nhập khẩu (líp $100, yên $25, lốp $50) $175 (ii) Nguyên liệu nội địa $75 (iii) Chi phí gia công trực tiếp $50 (iv) Chi phí gián tiếp (tổng phí, lợi nhuận, v.v...) $200 Tổng cộng $500 Trong trường hợp này, tổng nguyên liệu nội địa (mục (ii)) và chi phí gia công (mục (ii)), là $125 giá xuất xưởng, có nghĩa là đã nhỏ hơn 35% giá xác định. Do đó, xe đạp này không đáp ứng tiêu chuẩn xuất xứ của GSP. "Giá xác định" theo hệ thống trị giá của Hải quan Mỹ trong phần lớn các trường hợp là bằng với giá xuất xưởng của sản phẩm xuất khẩu. Ngoài ra, đối với những sản phẩm là bộ, nhóm hay lắp ráp từ những bộ phận , đồ phụ trợ, phụ tùng và dụng cụ kèm theo một thiết bị, máy hoặc xe, các nước như Nhật, Na-Uy và Thuỵ Sĩ có những quy định riêng cho từng đơn vị sản phẩm. 1.3.2. Điều kiện vận chuyển Quy định bắt buộc sản phẩm có xuất xứ phải được vận chuyển thẳng từ nước được hưởng đến nước cho hưởng là một vấn đề quan trọng phổ biến của tất cả các quy tắc xuất xứ GSP trừ của Úc. Mục đích của quy định này là cho phép cơ quan hải quan nước cho hưởng nhập khẩu bảo đảm rằng sản phẩm nhập khẩu chính là những sản phẩm từ nước được hưởng, có nghĩa là chúng không bị tác động, thay thế, gia công chế biến thêm hoặc được đưa vào buôn bán tại bất ký nước thứ ba trung gian nào. Mỗi nước quy định điều kiện về vận tải khác nhau. Dưới đây là quy định của một số nước. Ca-Na-Đa, Cộng đồng Châu Âu, Nhật, Niu-di-lân, na Uy và Thuỵ Sĩ đều quy định: (a) Sản phẩm phải được vận chuyển thẳng mà không đi qua lãnh thổ của một nước khác; (b) Sản phẩm vận chuyển đị qua lãnh thổ của một nước khác, có hoặc không có chuyển tải hoặc lưu kho ở nước đó, với điều kiện sản phẩm đó vận nằm trong sự kiểm soát của hải quan của nước quá cảnh hoặc lưu kho và không được mua bán hoặc được sử dụng tại đó, và không trải qua các hoạt động nào khác ngoài hoạt động dỡ hàng, xếp hàng và các hoạt động bắt buộc để bảo quản sản phẩm trong trạng thái tốt. Ngoài hai nội dung trên, mỗi bước trên lại có thêm quy định riêng khác: Na-Uy và Thuỵ Sĩ quy định lô hàng có thể được chia nhỏ và đóng gói lại, nhưng không được đóng gói để phục vụ bán lẻ. EU quy định vận chuyển qua nước thứ ba phải được chứng minh là do điều kiện địa lý hoặc vì lý do yêu cầu vận tải. Những sản phẩm được vận chuyển bằng đường ống liên tục qua lãnh thổ không phải là lãnh thổ của nước được hưởng xuất khẩu hoặc lãnh thổ của EU, được coi là được vận chuyển thẳng từ nước được hưởng đến EU, và ngược lại. Nhật quy định vận chuyển qua nước thứ ba phải vì lý do địa lý hoặc vì yêu cầu của vận tải. Nhật chấp nhận, trên nguyên tắc, việc chuyển tàu hoặc lưu kho tạm thời dưới sự giám sát của cơ quan hải quan nước quá cảnh. Việc chuyển tàu hoặc lưu kho tạm thời phải được thực hiện tại khu vực ngoại quan hoặc những nơi tương tự. Niu-Di-Lân quy định những sản phẩm của một nước được hưởng được phép đưa vào thương mại tại một nước được hưởng khác mà không mất tiêu chuẩn xuất xứ. Na-Uy không có quy định về vận tải Mỹ quy định: Những sản phẩm phải đến Mỹ sau khi rời khỏi nước sản xuất. Quy tắc riêng áp dụng cho những chuyến đi qua khu vực mậu dịch tự do tại nước được hưởng như sau: (a) Hàng hoá không được đưa vào buôn bán tại nước có khu vực mậu dịch tự do đó; (b) Hàng hoá không được trải qua bất kỳ hoạt động nào khác ngoài: - Lựa chọn, phân loaị, hoặc kiểm tra; - Đóng gói, tháo mở bao bì, thay đổi bao bì, gạn chắt hoặc đóng gói lại vào công ten nơ khác; - Dán hay ghi ký hiệu, nhãn hiệu, hoặc những dấu hiệu hay những điểm hoặc bao bì phân biệt tương tự khác, nếu mang tính trợ giúp cho những hoạt động được phép theo những quy định đặc biệt; hoặc - Những hoạt động cần thiết để bảo đảm việc bảo quản hàng hoá trong tình trạng bình thường khi được đưa vào khu mậu dịch tự do; (c) Hàng hoá có thể được mua và bán lại, không phải là bán lẻ, để xuất khẩu trong khu mậu dịch tự do. Vì mục đích của những quy định đặc biệt này, khu mậu dịch tự do là khu vực hoặc một vùng được xác định trước đã được thông báo hoặc bảo hộ của chính phủ, ở nơi này những hoạt động nhất định có thể được tiến hành đối với hàng hoá, trừ những hàng hoá như vậy nhưng đã đi vào lưu thông thương mại của nước có khu mậu dịch tự do. Bungary, Cộng hoà Séc, Hungary, Ba Lan, Liên bang Nga và Slôvakia. Những nước này áp dụng quy tắc mua thẳng và vận chuyển thẳng. Hàng hoá được coi là được "mua thẳng" nếu người nhập khẩu đã mua chúng từ một công ty đăng ký tại nước được hưởng. Hàng hoá xuất xứ từ nước được hưởng phải được vận chuyển tới nước cho hưởng. Hàng hoá vận chuyển qua lãnh thổ một hoặc nhiều nước ví lý do địa lý, vận tải, kỹ thuật hay lý do kinh tế cũng phải tuân theo quy tắc vận tải thẳng thậm chí nếu chúng được lưu kho tạm thời tại lãnh thổ những nước này, với điều kiện hàng hoá đó vẫn luôn nằm dưới sự kiểm soát của hải quan nước quá cảnh. 1.3.3. Yêu cầu bộ chứng từ Việc đòi ưu đãi từ chế độ GSP phải được chứng minh bằng chứng từ phù hợp về xuất xứ và vận tải. Chứng từ về xuất xứ: Tất cả các nước cho hưởng đều quy định: Sản phẩm có xuất xứ khi nhập khẩu phải có Tờ Khai Tổng Hợp và Giấy chứng nhận Xuất Xứ Mẫu A, đã được điền đầy đủ và ký bởi người xuất khẩu và được chứng nhận bởi một cơ quan có thẩm quyền tại nước xuất khẩu được hưởng. Các nước cho hưởng còn có các quy định thêm khác: Úc, yêu cầu chính là lời khai của người xuất khẩu trên hoá đơn thương mại. Mẫu A có thể được dùng để thay thế, nhưng không yêu cầu phải có chứng nhận. Canada, yêu cầu chính là lời trình bày của người xuất khẩu trên hoá đơn hoặc làm thành bản riêng. Niu-Di-Lân không đòi hỏi người xuất khẩu xuất trình giấy chứng nhận xuất xứ hay tờ khai quy định chính thức, dù người xuất khẩu có thể bị yêu cầu thẩm tra. Nhật chấp nhận giấy chứng nhận xuất xứ được cấp bởi cơ quan chính phủ (ví dụ phòng thương mại) Chứng từ về vận chuyển thẳng: Đối với trường hợp xuất khẩu đến EU, Nhật, Na-Uy và Thuỵ Sĩ, hàng hoá xuất khẩu đi qua lãnh thổ một nước thứ ba, chứng từ chứng minh điều kiện vận chuyển thẳng đã được đáp ứng phải được trình cho cơ quan hải quan nước nhập khẩu bao gồm: (a) Vận đơn suốt cấp tại nước xuất khẩu được hưởng, thể hiện việc đi quan một hay nhiều nước quá cảnh; hoặc (b) Giấy chứng nhận của cơ quan hải quan của một hay nhiều nước quá cảnh: - Thể hiện mô tả chính xác hàng hoá - Ghi ngày dỡ hàng và xếp hàng hoặc ngày lên tàu hoặc xuống tàu, ghi rõ tàu sử dụng; - Xác nhận những tình trạng của sản phẩm trong khi đi qua các nước quá cảnh. (c) Không có các giấy tờ trên, bất kỳ giấy tờ thay thế nào được cho là cần thiết (ví dụ, bản sao lệnh mua hàng, hóa đơn của người cung cấp hàng, vận đơn thể hiện tuyến đường hàng đi) Đối với hàng xuất sang Mỹ, người nhập khẩu có thể phải xuất trình các giấy tờ hàng hải, hoá đơn hoặc các giấy tờ khác làm bằng chứng chứng minh hàng hoá được nhập khẩu thẳng. Cơ quan hải quan Mỹ có thể không đòi hỏi xuất trình chứng từ về vận chuyển thẳng khi cơ quan này biết rõ rằng hàng hoá đáp ứng tiêu chuẩn xuất xứ GSP. Trong trường hợp vận chuyển quá cảnh, hoá đơn, vận đơn và giấy tờ khác liên quan đến vận tải phải được trình cho hải quan Mỹ nơi đến cuối cùng. Trường hợp bị mất, thất lạc hoặc hư hỏng Mẫu A EU, Nhật, Na-Uy, Thuỵ Sĩ và Mỹ đều chấp nhận bản sao cấp lần hai các giấy chứng nhận xuất xứ Mẫu A để đảm bảo rằng người xuất khẩu ở nước được hưởng có thể, trong trường hợp bị mất, thất lạc hoặc bị hỏng, vẫn được hưởng ưu đãi GSP. Mẫu A cấp lần hai theo cách này phải được đóng dấu "DUPLICATE" hoặc "DUPLICATA", tại ô 4. Bản cấp lần hai này phải ghi ngày cấp và số sêri của bản cấp lần 1, sẽ có hiệu lực từ ngày đó. Bungary, Cộng hoà Séc, Hungary, Ba lan, Liên bang Nga và Slôvakia chính thức chấp nhận những bản cấp lần hai có chứng nhận đối với những giấy chứng nhận bị mất. Canada không yêu cầu Mẫu A phải là bản gốc. Trường hợp cấp sau ngày xuất khẩu Nói chung giấy chứng nhận xuất xứ nói chung được cấp vào thời gian xuất khẩu sản phẩm. Canada, EU, Na-Uy, Thuỵ Sĩ và Mỹ chấp nhận giấy chứng nhận xuất xứ Mẫu A (hoặc, đối với Canada, là "Tờ khai xuất xứ của người xuất khẩu") được cấp sau khi vì lý do quên vô ý hay do hoàn cảnh đặc biệt khác đã không yêu cầu cấp giấy chứng nhận xuất xứ tại thời điểm xuất khẩu hàng hoá. Nhật chấp nhận giấy chứng nhận xuất xứ cấp sau khi có những nguyên nhân không thể tránh được, và đã không thể yêu cầu cấp giấy chứng nhận tại thời điểm xuất khẩu. Giấy chứng nhận xuất xứ Mẫu A cấp sau phải có dấu "ISSUED RETROSPECTIVELY" tại ô 4. Trường hợp lô hàng có giá trị nhỏ và hàng bưu phẩm EU, Nhật, Thuỵ Sĩ, Liên bang Nga, Mỹ, Bun-Ga-Ry, Cộng hoà Séc, Ba Lan và Slôvakia đã bãi bỏ yêu cầu về chứng từ đối với những lô hàng có giá trị nhỏ và hàng bưu phẩm. 1.3.4. Một số quy tắc khác Quy tắc thành phần nước bảo trợ : Một số nước cho hưởng ưu đãi áp dụng quy tắc này. Quy tắc cho phép sản phẩm (nguyên liệu, bộ phận và phụ tùng) sản xuất tại nước cho hưởng, nếu được cung cấp cho một nước hưởng ưu đãi và được sử dụng ở đó để gia công chế biến, thì sẽ được coi là sản phẩm có xuất xứ tại nước hưởng ưu đãi nhằm xác định xuất xứ của thành phẩm. Ví dụ: Colombia xuất khẩu dây cách điện sang Canada. Nguyên liệu sử dụng bao gồm thép từ Mỹ (chiếm 20% giá xuất xưởng) và cao su từ Malaysia (chiếm 30%), và 50% là nguyên liệu của Colombia và chi phí nhân công. Dây điện này không được hưởng chế độ GSP bởi vì thành phần nhập khẩu vượt quá 40%. Tuy nhiên, nếu sử dụng thép của Canada, dây diện đó sẽ đáp ứng tiêu chuẩn xuất xứ GSP theo quy tắc thành phần nước bảo trợ bởi vì thành phần nhập khẩu chỉ là 30% giá xuất xưởng. Quy tắc này được áp dụng bởi: EU, Úc, Canada, Nhật, Niu-Di-Lân, Cộng hoà Séc, Bun-ga-ria, Hun-ga-ry, Ba Lan, Slo-va-kia, Liên bang Nga. Trừ Nhật, mọi nước này đều cho mọi thành phẩm được hưởng. Đối với Nhật quy tắc này không được áp dụng cho một số sản phẩm. EU Những sản phẩm xuất xứ từ EU được sử dụng vào sản xuất hay gia công chế biến tại nước được hưởng được coi là có xuất xứ tại nước được hưởng đó. Quy định này mở rộng thêm lựa chọn việc cộng gộp bằng cách cho phép sử dụng những sản phẩm đầu vào hoặc trung gian mà có xuất xứ tại EU. Bằng chứng về xuất xứ của những sản phẩm EU phải được xuất trình hoặc bằng chứng nhận dịch chuyển EUR.1 hoặc bằng một tờ khai hoá đơn. Các quy định của EU về cấp, sử dụng giấy chứng nhận xuất xứ Mẫu A sẽ áp dụng một cách phù hợp cho giấy chứng nhận EUR.1. Quy tắc "thành phần nước bảo trợ" của EU cũng được mở rộng cho những sản phẩm xuất xứ tại Na-Uy và Thuỵ Sĩ, khi hai nước này ban hành những ưu đãi phổ cập và áp dụng cách xác định khái niệm xuất xứ tương ứng với cách xác định trong chế độ của EU. Nhật Nhật yêu cầu chứng từ đặc biệt chứng minh theo quy tắc này. Ngoài giấy chứng nhận xuất xứ Mẫu A bình thường, Quy tắc đòi hỏi phải có chứng từ sau về nguyên liệu nhập khẩu từ Nhật: đó là "Giấy chứng nhận nguyên liệu nhập khẩu từ Nhật cấp bởi cơ quan cấp giấy chứng nhận xuất xứ Mẫu A. Niu-Di-lân Niu-Di-Lân áp dụng quy tắc thành phần nước bảo trợ cho phép những sản phẩm (nguyên liệu, bộ phận hoặc thành phần mà nước này sản xuất hoặc chế biến sẽ được coi là có xuất xứ tại nước được hưởng. Do đó, trong trường hợp sản phẩm xuất khẩu bởi nước được hưởng sang Niu-Di-Lân, nguyên liệu, bộ phận hoặc thành phần có xuất xứ tại Niu-Di-Lân và được nhập khẩu từ Niu-Di-lân và được sử dụng để sản xuất ra sản phẩm khác sẽ được coi là xuất xứ tại nước được hưởng và không được tính là vào thành phần nhập khẩu đối với tiêu chuẩn 50%. Thuỵ Sĩ Từ 1/7/1996, Thuỵ Sĩ đã áp dụng quy tắc thành phần nước bảo trợ. Theo quy tắc này, thành phần nhập khẩu có xuất xứ từ Thuỵ Sĩ trong sản phẩm được hưởng ưu đãi theo chế độ của Thuỵ Sĩ có thể được coi như là chúng được sản xuất chế biến toàn bộ tại nước được hưởng. Khi quy tắc thành phần nước bảo trợ được áp dụng, cơ quan cấp giấy chứng nhận xuất xứ tại nước được hưởng sẽ cấp giấy chứng nhận xuất xứ Mẫu A cuối cùng trên cơ sở giấy chứng nhận dịch chuyển EUR.1, được cấp bởi cơ quan có thẩm quyền tại Thuỵ Sĩ. Quy tắc xuất xứ cộng gộp: Về cơ bản, quy tắc GSP được dựa trên khái niệm xuất xứ một nước đơn nhất, có nghĩa là các tiêu chuẩn xuất xứ phải được tuân thủ đầy đủ tại một nước được hưởng mà đồng thời là nước sản xuất sản phẩm hoàn thiện cuối cùng. Theo các chế độ của một số nước cho hưởng, quy tắc này đã được mở rộng để một số sản phẩm có thể được sản xuất và hoàn thiện tại một nước được hưởng từ các nguyên liệu, bộ phận hoặc thành phần nhập khẩu từ những nước được hưởng nói trên. Do đó, xuất xứ cộng gộp được đưa ra với phạm vi rộng và theo nhiều điều kiện khác nhau. Theo hệ thống cộng gộp, các quá trình gia công và trị giá gia tăng tại nhiều nước được hưởng có thể được cộng vào cùng nhau (hoặc "được cộng gộp") để xác định sản phẩm hoàn thiện xuất khẩu có đáp ứng tiêu chuẩn xuất xứ GSP không. Ví dụ: - Quy định về xuất xứ cho mặt hàng vải quy định giai đoạn xe sợi và dệt phải được tiến hành tại một nước được hưởng. Tuy nhiên, theo một số hệ thống cho phép xuất xứ cộng gộp đầy đủ, giai đoạn đầu xe sợi có thể được tiến hành tại một nước được hưởng và giai đoạn thứ hai (dệt) được thực hiện tại nước được hưởng thứ hai và hàng vải đó sẽ đáp ứng tiêu chuẩn GSP. - Bộ phận lắp ráp phụ cho máy thu sóng phát thanh sản xuất tại nước được hưởng A từ nguyên liệu nhập khẩu có thể được xuất khẩu sang nước được hưởng B nơi những bộ phận này được lắp vào, cùng với các nguyên liệu nhập khẩu khác, máy thu thanh hoàn chỉnh. Trị giá các nguyên liệu và công việc đã làm tại nước A, theo hệ thống cộng gộp toàn cầu, có thể được tính vào công việc đã làm tại nước B để xác định máy thu thanh đó có đáp ứng tiêu chuẩn phần trăm của một số nước không. Theo các chế độ của Úc, Ca-Na-đa, Niu-di-lân, Bun-Ga-Ry, Cộng hoà Séc, Hun-ga-ry, Balan, Liên bang Nga và Slô-va-kia, thì tất cả các nước được hưởng đều được coi là một khu vực duy nhất cho mục đích xác định xuất xứ. Tất cả trị giá gia tăng và/hoặc các quá trình gia công tiến hành tại khu vực này có thể được cộng gộp với nhau để đáp ứng tiêu chuẩn xuất xứ cho sản phẩm xuất khẩu sang bất kỳ nước cho hưởng nói trên. Quy tắc này được gọi là "cộng gộp toàn cầu và đầy đủ". Theo các chế độ của một nước khác như Mỹ, EU...thì quy tắc xuất xứ cộng gộp chỉ được áp dụng cho một số khu vực cụ thể như Hiệp hội các nước Đông Nam Á, Thị trường Chung Trung Mỹ, Khối Andean.... 1.4.Các bước xác định hàng hóa ưu đãi theo quy định GSP Để có thể sử dụng được hệ thống ưu đãi phổ cập như là một lợi thế cạnh tranh trong quá trình đàm phán, giao kết hợp đồng ngoại thương, doanh nghiệp Việt Nam cần phải tiến hành những bước cần thiết sau: Bước 1: Xác định mã số HS trong Biểu Thuế Xuất Nhập khẩu Những sản phẩm được hưởng ưu đãi đều là những sản phẩm được xác định trong Biểu thuế quan. Vì vậy, trước hết cần bắt đầu bằng cách xác định mã số (gồm 4 chữ số) của mặt hàng dự định xuất khẩu trong Biểu thuế quan của nước nhập khẩu của loại hàng hoá dự kiến xuất khẩu sang nước đó. Ghi chú: mặc dù Biểu thuế của các nước là khác nhau, nhưng đa số các nước trên thế giới đều tuân theo Hệ thống Hài hoà (viết tắt là H.S.) để ban hành Biểu thuế quan của mình, ít nhất thì cũng ở mức 4 chữ số đầu. Bước 2: Xác định sản phẩm xuất khẩu có thuộc phạm vi được ưu đãi Lưu ý không phải tất cả các mặt hàng đều được những nước có chế độ GSP cho hưởng ưu đãi. Một số mặt hàng, vì lý do nào đó về chính trị, kinh tế, xã hội, không được cho hưởng ưu đãi. Bước 3: Đánh giá mức lợi thế ưu đãi Cần xác định mức lợi thế ưu đãi (thuế suất ưu đãi) để làm cơ sở đàm phán giá với bên mua hàng. Để xác định mức lợi thế ưu đãi người xuất khẩu phải tham chiếu với Biểu thuế của nước nhập khẩu để tìm ra mức thuế chung (không ưu đãi) và mức thuế ưu đãi GSP áp dụng cho mặt hàng của mình. Sự chênh lệch giữa hai mức thuế chính là mức lợi thế ưu đãi. Mức lợi thế ưu đãi càng lớn thì người xuất khẩu càng có ưu thế cạnh tranh hơn trên thị trường về sản phẩm đó. Bước 4. Kiểm tra hạn ngạch/giới hạn tối đa, giới hạn cạnh tranh cần thiết và danh mục hàng trưởng thành Hiện nay, xu hướng là các nước cho hưởng ưu đãi đang xoá bỏ dần hai biện pháp là hạn ngạch, giới hạn tối đa áp dụng cho các nước được hưởng ưu đãi. Bước 5. Thực hiện đầy đủ các quy định về xuất xứ Đây là bước quan trọng nhất. Bước này thể hiện bản chất bên trong, xuất xứ của hàng hoá xuất khẩu. Điều quan trọng là hàng hoá xuất khẩu phải có xuất xứ Việt Nam thì thuế suất ưu đãi mới được áp dụng cho hàng hoá đó. Bước 6. Kiểm tra các tiêu chuẩn gửi hàng Việc vận chuyển hàng hoá xuất khẩu có xuất xứ Việt Nam phải đáp ứng các quy định trong chế độ GSP về vận tải của nước nhập khẩu. Dù hàng hoá có xuất xứ Việt Nam, nhưng các quy định về vận tải không được đáp ứng thì hàng hóa xuất khẩu không được hưởng thuế ưu đãi Bước 7. Chuẩn bị các chứng từ xác nhận Để chứng minh các quy định về xuất xứ, về vận tải trong chế độ GSP của nước nhập khẩu đã được đáp ứng, doanh nghiệp xuất khẩu phải chuẩn bị các chứng từ chứng minh như giấy chứng nhận xuất xứ Form A, chứng từ vận tải. Mẫu C/O form A do Phòng thương mại Việt Nam 2. Việt nam và các quy tắc xuất xứ hàng hóa có ưu đãi GSP 2.1. Lợi ích của Việt Nam từ quy tắc xuất xứ hàng hóa có ưu đãi GSP Tác dụng của GSP là tạo ra một lợi thế cho các nước đang phát triển và chậm phát triển trong việc nâng cao sức canh tranh của hàng hoá do các nước này xuất khẩu vào các nước cho hưởng ưu đãi nhờ có biện pháp giảm hay miễn thuế cho các hàng hoá đó. Đối với Việt Nam, khi được hưởng hệ thống thuế quan ưu đãi phổ cập GSP thì hàng hóa Việt Nam vào các thị trường lớn như EU, Mỹ, Nhật,…. tăng đáng kể. Những lợi thế khi Việt Nam được hưởng chế độ ưu đãi thuế quan phổ cập GSP: Việt Nam sẽ được hưởng mức thuế quan giảm đáng kể. ví dụ: Thuế quan hàng hóa được hưởng chế độ GSP vào Mỹ giảm đáng kể, có thể chỉ còn từ mức 50% - 0%. Do đó, sẽ giúp các doanh nghiệp Việt Nam mở rộng thị trường, tăng kim ngạch xuất khẩu, đặc biệt là những mặt hàng tiềm năng (nông sản, dệt may…) thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Hàng hóa và dịch vụ của VN được đối xử bình đẳng hơn trên thị trường của các thành viên cho hưởng quy chế MFN, GSP… Khắc phục tình trạng phân biệt đối xử, tạo dựng thế và lực trong thương mại quốc tế. Tạo điều kiện cải cách chính sách, thể chế luật pháp: Hệ thống chính sách minh bạch, ổn định và dễ dự đoán sẽ giúp tăng cường thu hút đầu tư nước ngoài, tạo môi trường thuận lợi cho đầu tư trong nước và nước ngoài. 2.2. Thực trạng Việt nam thực hiện GSP Thực trạng để hàng hóa Việt Nam được hưởng hệ thống ưu đãi thuế quan phổ cập thì Việt Nam phải tuân thủ 1 số quy định, tiêu chuẩn nghiêm ngặt như mức thuế suất với từng loại mặt hàng hay quy tắc xuất xứ mà vấn đề chủ yếu ở đây là việc cấp bộ chứng từ phù hợp cho từng loại mặt hàng. Trong thời gian qua, nhu cầu xin cấp C/O của các doanh nghiệp để thực hiện hợp đồng xuất khẩu, thanh toán tiền và nộp thuế...ngày càng tăng. Những loại C/O thường được xin cấp liên tục là: - C/O form A cấp cho hàng hóa xuất khẩu sang hầu hết các nước cho hưởng GSP với điều kiện về tiêu chuẩn xuất xứ phải đáp ứng đúng, đủ. Do có C/O form A nên việc xâm nhập thị trường để giới thiệu sản phẩm và tăng khối lượng hàng bán của các doanh nghiệp Việt nam được dễ dàng hơn. - C/O form T cấp cho sản phẩm dệt, may mặc theo Hiệp định về hàng dệt, may giữa Chính phủ Việt nam và Cộng đồng Châu âu - EU (gồm 15 nước). Các sản phẩm xuất khẩu sang các nước này có thể là các sản phẩm không đạt tiêu chuẩn xuất xứ để cấp form A. Hàng năm Bộ Thương mại sẽ phân bổ hạn ngạch cho các doanh nghiệp Việt nam, các công ty liên doanh kinh doanh trong lĩnh vực dệt may, khi xin cấp C/O form T doanh nghiệp phải xuất trình bản cấp hạn ngạch này. - Form hàng dệt thủ công cấp cho hàng dệt thủ công xuất khẩu sang EU theo Nghị định thư D bổ sung Hiệp định mua bán hàng dệt may giữa Việt nam và EU. - Form O cấp cho cà phê xuất khẩu sang các nước là thành viên của Hiệp hội cà phê quốc tế - ICO. Việt nam thường xuất cà phê sang 15 nước trong số 21 nước thường nhập cà phê là Bỉ, Đức, ý, Anh, Pháp,Tây ban nha, Bồ đào nha, Hà lan, áo, Phần lan, Thụy điển, Mỹ, Thụy sỹ, Nhật, úc. Việt nam cũng là thành viên của ICO. - Form B cấp cho hàng hóa không thuộc loại được hưởng các form đã nêu trên. Dấu hiệu để phân biệt các mẫu C/O là thông qua màu sắc của mẫu. Ngoài ra trên mẫu đều có ghi chú tên mẫu. Phòng Thương Mại và Công nghiệp Việt nam là Cơ quan được ủy quyền cấp các loại C/O trừ C/O form D và C/O form A cấp cho mặt hàng giày dép là do Bộ Thương Mại cấp. Sau hơn môt thập kỷ chuyển hướng, nền kinh tế nước ta đã bắt đầu ổn định và tăng trưởng, các doanh nghiệp sản xuất xuất nhập khẩu của Việt nam đã có nhiều năm cọ xát với kinh tế thị trường, kinh doanh trực tiếp với các nhà nhập khẩu của nhiều nước, họ nhận thấy rằng muốn tồn tại và phát triển được họ phải cạnh tranh trên thị trường thế giới mà cuộc cạnh tranh này lại hết sức gay gắt và khốc liệt. Tuy nhiên với hơn 15 năm làm quen với kinh tế thị trường, các doanh nghiệp Việt nam chưa thể tích lũy được nhiều kinh nghiệm, có những doanh nghiệp chưa hiểu rõ tác dụng và ý nghĩa của C/O, họ không biết hàng hóa của mình có đủ tiêu chuẩn xuất xứ để xin cấp form A hay form D hay không, do đó không nắm được mức ưu đãi thuế quan mà nước nhập khẩu đã dành cho những sản phẩm đó. Điều này sẽ kéo theo rất nhiều bất lợi cho doanh nghiệp như: - Thứ nhất, hàng hoá xuất khẩu đã đáp ứng được tiêu chuẩn xuất xứ để được cấp C/O form A hoặc fom D nhưng doanh nghiệp không nắm được nên khi chào giá hoặc đàm phán với khách hàng, giá chào bán sẽ không cạnh tranh được với giá của cùng mặt hàng đó của các nước khác hoặc không giới thiệu được với khách hàng là hàng hóa của mình khi xuất khẩu sang nước bạn sẽ được hưởng chế độ ưu đãi thuế quan. Vì vậy dễ bị lỡ cơ hội bán được hàng. Ví dụ: đối với mặt hàng giày dép xuất khẩu sang EU, qui định của EU là mã số của nguyên phụ liệu nhập khẩu để sản xuất giày dép không được trùng với mã số của sản phẩm - đó là mã số HS 6406 - nhưng trên thực tế nhiều doanh nghiệp không nắm được qui định này nên đã chấp nhận đề nghị của nhà nhập khẩu sẽ cung cấp C/O form A khi xuất hàng đối với những lô hàng gia công có đế giày nhập khẩu với mã số HS 6406. Chắc chắn là Cơ quan cấp C/O sẽ từ chối việc cấp C/O form A cho doanh nghiệp này khi họ đến xin C/O cho lô hàng đó vì hàng không đủ tiêu chuẩn xuất xứ. Như vậy doanh nghiệp sẽ không thực hiện được hợp đồng đã ký với khách hàng và sẽ bị khiếu nại. Thiệt hại không nhỏ sẽ xảy ra cho doanh nghiệp như: * Nếu doanh nghiệp đã sản xuất hàng theo đúng hợp đồng nhưng khi bị từ chối cấp C/O sẽ không xuất được hàng, quá trình sản xuất sẽ bị dừng lại, không có việc làm cho công nhân. * Trong trường hợp hàng đã xuất nhưng bộ chứng từ chưa có C/O thì ngân hàng hoặc người nhập khẩu sẽ từ chối thanh toán tiền hàng. - Thứ hai, Khi khai C/O, thường khai không chính xác, không đầy đủ. Không biết khai khi sản phẩm có xuất xứ cộng gộp, khai thiếu trọng lượng lô hàng, ngày lập hóa đơn sau ngày xin cấp C/O, kết quả là khi đến xin cấp C/O phải sửa lại lời khai đôi khi phải mang về khai lại. Ngoài ra còn có tình trạng doanh nghiệp cố tình gian lận, sử dụng sai form gây mất thời gian cho cơ quan cấp C/O. Ví dụ: Do Trung quốc bị cắt không được nằm trong danh sách các nước được hưởng GSP của EU cho một số mặt hàng, các sản phẩm giày dép từ Trung quốc nhập khẩu vào Việt nam lại được các doanh nghiệp Việt nam tìm cách xác nhận có xuất xứ tại Việt nam rồi xuất sang EU. Rõ ràng các nhà sản xuất, xuất khẩu Trung quốc muốn lợi dụng C/O của Việt nam để được hưởng ưu đãi thuế, còn các doanh nghiệp của Việt nam vì lý do tư lợi nên cố tình lập chứng từ giả để xin cấp C/O form A. Hải quan EU đã phát hiện và đã yêu cầu nhà nhập khẩu phải nộp thuế theo biểu thuế thông thường. Mặt khác họ đã khiếu nại tới Cơ quan cấp C/O của Việt nam để giải quyết. Nếu hiện tượng này còn tái diễn rất có thể EU sẽ cắt vĩnh viễn ưu đãi dành cho Việt nam. Nguyên nhân xảy ra tình trạng trên đó là: 1-Sự sai sót của cán bộ cấp C/O; 2-Sự lỏng lẻo quản lý trong việc cấp C/O nên đã vô tình tiếp tay cho bọn gian lận làm C/O giả; 3-Tính trung thực trong việc khai C/O của nhà xuất khẩu vì cơ quan cấp C/O chỉ căn cứ trên bộ chứng từ khai của doanh nghiệp mà không tiến hành kiểm tra xuất xứ hàng hóa tại nơi sản xuất. 2.3. Đề xuất giải pháp 2.3.1.Về chiến lược kinh tế: Việt Nam là nước đang phát triển nên hiển nhiên được hưởng hệ thống thuế quan ưu đãi phổ cập GSP. Vì vậy, Việt Nam cần “đẩy mạnh xuất khẩu, coi xuất khẩu là hướng ưu tiên và là trọng điểm của kinh tế đối ngoại. Nâng sức cạnh tranh của hàng xuất khẩu trên thị trường, tạo thêm các mặt hàng xuất khẩu chủ lực. Giảm tỷ trọng sản phẩm thô và sơ chế, tăng tỷ trọng sản phẩm chế biến sâu và tinh trong hàng xuất khẩu, tăng nhanh xuất khẩu dịch vụ. nâng cao tỷ trọng phần giá trị gia tăng trong trị giá hàng xuất khẩu. Giảm dần nhập siêu, ưu tiên việc nhập khẩu để sản xuất phục vụ xuất khẩu...” Theo TS. Nguyễn Xuân Dũng - Nhà xuất bản Khoa học xã hội, CÔNG NGHIỆP VIỆT NAM TRONG TIẾN TRÌNH HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ “Chủ động tham gia vào cộng đồng thương mại thế giới, các diễn đàn, các tổ chức, các định chế quốc tế một cách có chọn lọc, với bước đi thích hợp..” 2.3.2. Về vấn đề hoàn thiện việc cấp C/O 2.3.2.1.Đối với doanh nghiệp Hiện nay, doanh nghiệp xin cấp C/O vẫn thường mắc phải các lỗi như: khai sai, khai không chính xác, khai thiếu, sử dụng sai loại tờ khai hoặc không biết khai như thế nào là đúng. Để tránh tình trạng trên các doanh nghiệp cần có các cán bộ chuyên môn nắm chắc các vấn đề về C/O, vì vậy doanh nghiệp bỏ ra 1 phần chi phí đào tạo nhân viên chuyên trách về C/O. Việc đào tạo nhân viên chuyên trách này sẽ giúp cho doanh nghiệp tránh được việc khai sai, khai thiếu C/O. Hơn nữa, việc am hiểu C/O giúp cho doanh nghiệp có kế hoạch sản xuất “khôn ngoan” để được hưởng ưu đãi mức thuế quan cao hơn. Ví dụ, cùng 1 loại hàng, nhưng mã số HS khác nhau sẽ có mức thuế quan khác nhau, vì vậy, doanh nghiệp sẽ biết khai mặt hàng đó tên gì để hưởng mức thuế thấp hơn. Doanh nghiệp cũng phải am hiểu rõ về mức ưu đãi thuế quan GSP và cách tính thuế quan thông thường để nâng giá bán của mình lên mà không sợ vi phạm luật bán phá giá để nâng cao tính cạnh tranh. Các doanh nghiệp Việt Nam nên mở rộng quan hệ mua bán với các đối tác hơn nữa, đặc biệt là các nước cho hưởng ưu đãi. Đồng thời, đối với các nước cho phép sử dụng tiêu chuẩn xuất xứ bảo trợ thì doanh nghiệp nên tận dụng điều kiện này để có được những nguyên phụ liệu từ những nước này nhằm giảm tỷ lệ phần trăm nguyên phụ liệu nhập khẩu. Quan hệ kinh doanh với các doanh nghiệp của các nước trong nhóm ASEAN sẽ giúp doanh nghiệp Việt nam sử dụng tiêu chuẩn xuất xứ cộng gộp. Doanh nghiệp nên đầu tư vốn, công nghệ sâu rộng, tự sản xuất được các thành phần nhập khẩu để tăng tỷ lệ thành phần nội địa của sản phẩm lên để đáp ứng tiêu chuẩn xuất xứ được cấp C/O form A, D, để hưởng mức ưu đãi thuế quan GSP ở mức có lợi cho doanh nghiệp. 2.3.2.2. Đối với cơ quan cấp C/O Phòng thương mại và công nghiệp các chi nhánh cần phải có đội ngũ cán bộ chuyên trách, cán bộ kỹ thuật có năng lực, kinh nghiệm kiểm tra tính xác thực của xuất xứ hàng hóa. Các cán bộ cấp C/O không những phải nắm vững quy chế cấp C/O ở Việt nam cũng như các nước cho hưởng ưu đãi mà còn phải có những hiểu biết cơ bản về những mặt hàng được mô tả trong danh mục hàng hóa xuất khẩu và mã số của những hàng hoá đó để đối chiếu với những lời khai trên mẫu xin C/O. Ngoài ra cũng cần phải đi kiểm tra thực tế dây chuyền sản xuất của một số mặt hàng. Nguyên nhân dẫn đến những thiếu sót nêu trên là do các kiến thức về C/O chưa được phổ cập rộng rãi cho các doanh nghiệp trên cả nước. Vì vậy, cơ quan cấp C/O nên có những buổi tập huấn cho doanh nghiệp. Phải có quan hệ mật thiết với các Cơ quan đại diện của Việt nam ở nước ngoài cũng như quan hệ trực tiếp với các Cơ quan liên quan của các nước cho hưởng ưu đãi để cập nhật thông tin mới được nhanh chóng, chính xác và thông báo lại cho các doanh nghiệp tại Việt nam để thực hiện thông qua các lớp bồi dưỡng cho các doanh nghiệp. Khi có khiếu nại của Cơ quan Hải quan nước nhập khẩu về bất kỳ một loại form nào, cơ quan cấp C/O cần nhanh chóng tiến hành kiểm tra và trả lời khiếu nại ngay để xác định tính chân thực, chính xác của C/O do mình cấp và cũng để giải tỏa mối nghi ngờ về tính xuất xứ của hàng hóa. Bộ thương mại tăng cường các mối quan hệ ngoại giao, kinh tế - chính trị, văn hóa - xã hội giữa Chính phủ Việt nam và Chính phủ các nước cho hưởng ưu đãi nói riêng và các nước trên thế giới nói chung. Các mối quan hệ bền chặt đó một mặt sẽ giúp Việt nam nắm bắt được các thông tin chính sách thay đổi thường xuyên của chế độ GSP mặt khác sẽ đưa Việt nam vào vị trí và lợi thế thương mại quốc tế tốt hơn trên chính trường thế giới. Trên cơ sở đó, Chính phủ sẽ đề ra được đường lối phát triển đúng đắn trong quan hệ đó cũng như sẽ ban hành các văn bản hướng dẫn, sửa đổi kịp thời để hỗ trợ các cơ quan quản lý, cơ quan cấp C/O và các doanh nghiệp trong công việc chuyên môn của họ. Kết Luận Việt nam đã gia nhập vào cộng đồng kinh tế thế giới như WTO, AFTA...các quan hệ thương mại giữa Việt nam và các nước trên thế giới ngày càng phát triển phức tạp hơn nhiều. Việt nam ở vào vị thế kinh thế còn thấp kém, sản phẩm của Việt nam có chất lượng chưa cao hoặc chất lượng cao nhưng chưa có tiềm lực cạnh tranh với sản phẩm hàng hóa của các nước phát triển khác. Vì vậy với Việt nam, việc nghiên cứu và áp dụng một cách tối ưu nhất Hệ thống GSP và các Hệ thống ưu đãi thuế quan khác là điều rất cần thiết cho quá trình hội nhập vào nền kinh tế thế giới. Tài liệu tham khảo Theo tài liệu phòng công nghiệp và thương mại Việt Nam

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docquy_tac_xuat_xu_hang_hoa_co_uu_dai_gsp_7095.doc
Tài liệu liên quan