Nếu như trong việc HĐCS, Quốc hội nói
chung và các ĐBQH nói riêng đóng vai trò
chính, thì công việc PTCS lại cần có sự tham
gia tích cực của đội ngũ chuyên viên, các cơ
quan phục vụ cho hoạt động của Quốc hội.
Các Vụ (thuộc Văn phòng Quốc hội) phục
vụ các Uỷ ban của Quốc hội, các Văn phòng
Đoàn ĐBQH nên có bộ phận chuyên môn về
chính sách công để đảm bảo chất lượng
PTCS, hỗ trợ hoạt động thẩm tra, hoặc đề
nghị xây dựng pháp luật từ các ĐBQH. Văn
phòng Quốc hội và Viện Nghiên cứu Lập
pháp41 cũng có thể thành lập Vụ Chính sách
(hoặc Vụ Chính sách công) để đảm nhiệm
chuyên trách các công việc thuộc lĩnh vực
nghiên cứu, phân tích chính sách công, hỗ trợ
cho ĐBQH và các cơ quan thẩm tra. Đây là
tiền đề cần thiết để góp phần nâng cao năng
lực chính sách cho đội ngũ chuyên viên phục
vụ Quốc hội.
Thêm nữa, hoạt động nghiên cứu chính
sách và PTCS có phạm vi rất rộng và đòi hỏi
kiến thức đa ngành42 mà các chuyên viên
không thể đảm trách tất cả. Do đó, một phần
việc quan trọng là xây dựng được mạng lưới
các chuyên gia trong nhiều lĩnh vực cùng
cộng tác. Các cơ quan phục vụ đóng vai trò
kết nối, chuyển tải các nghiên cứu chuyên
sâu về chính sách và PTCS đến với các
ĐBQH. Đồng thời, các hoạt động nghiên
cứu, xuất bản ấn phẩm khoa học, hội thảo
chuyên đề liên quan đến lĩnh vực chính sách
công sẽ góp phần thúc đẩy sự hợp tác, liên
kết giữa các cơ quan phục vụ, viện nghiên
cứu, trường đại học, các chuyên gia với
ĐBQH. Làm tốt công việc này thì các hoạt
động thẩm tra, QĐCS, thông qua dự luật sẽ
nâng cao chất lượng, hiệu quả, từ đó nâng
cao vai trò và tính thực quyền của Quốc hội.
11 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 20/01/2022 | Lượt xem: 241 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Quy trình chính sách và phân tích chính sách trong hoạt động lập pháp ở Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
QUY TRÒNH CHÑNH SAÁCH VAÂ PHÊN TÑCH CHÑNH SAÁCH
TRONG HOAÅT ÀÖÅNG LÊÅP PHAÁP ÚÃ VIÏåT NAM
NGUYỄN ANH PHƯƠNG*
1. Lý luận chung về quy trình hoạch định
chính sách và phân tích chính sách
1.1 Định nghĩa
Trên thế giới có rất nhiều định nghĩa
khác nhau về chính sách và chính sách công1.
Chính sách liên quan đến những tuyên bố,
hành động mang tính quyền lực nhà nước,
dựa trên giả thuyết về nguyên nhân và kết
quả, nhằm mục tiêu giải quyết các vấn đề
công, hay thúc đẩy các giá trị ưu tiên2.
Quy trình hoạch định chính sách (Policy
making process), hay còn được gọi là quy
trình chính sách (QTCS), hoặc chu trình
chính sách (policy cycle), diễn tả logic quá
trình hình thành, phát triển của chính sách
công, cùng với vai trò và mối quan hệ của
các chủ thể tham gia quá trình này3.
Phân tích chính sách (Policy analysis) có
thể được hiểu là một quá trình xử lý thông
tin bằng các công cụ phân tích, nhằm đề ra
các phương án lựa chọn giải quyết một vấn
đề công4.
* Viện Nghiên cứu Lập pháp.
1 Trong bài viết này, chính sách và chính sách công có thể dùng thay thế cho nhau.
2 Tham khảo thêm các định nghĩa phổ biến, như của Lasswell (Xem: Lasswell (1951), The policy orientation, in Lerner &
Lasswell (eds), The Policy Sciences, pp. 3-15, Stanford University Press); Anderson (Anderson (1994), Public policymaking,
Princeton); Considine (Considine (1994), Public policy: A critical approach, Macmillan, Melbourne), Dye (Dye (1972), Un-
derstanding public policy, Prentice-Hall).
3 Tham khảo thêm Kraft, M & Furlong, S (2015), Public policy: politics, analysis, and alternatives, 5th ed, CQ Press.
4 Tham khảo thêm các định nghĩa như của Dye, Fischer, Dunn, Weimer và Vining (Xem: Dunn (2012), Public policy analysis:
an introduction, Pearson; Weimer & Vining (2011), Policy Analysis: Concepts and Practice, Pearson).
80 NGHIÏN CÛÁULÊÅP PHAÁP Söë 02+03 (306+307) T1+T2/2016
CHÑNH SAÁCH
So sánh, đối chiếu các quy định của pháp luật liên quan và thực tiễn
hoạch định chính sách (HĐCS), phân tích chính sách (PTCS) ở Quốc hội
Việt Nam cho thấy, Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật (VBQPPL)
năm 2015 được thông qua đã góp phần khẳng định vai trò quan trọng của
HĐCS và PTCS trong hoạt động lập pháp. Tuy nhiên, một số điều luật vẫn
cần được giải thích rõ hơn hoặc điều chỉnh trong thời gian tới để thúc đẩy,
nâng cao năng lực chính sách, đặc biệt đối với vai trò quyết định chính
sách (QĐCS) cơ bản của Quốc hội nước ta.
1.2 Quy trình hoạch định chính sách
Khoa học chính sách hiện tại cũng chưa
có được một quy trình HĐCS thống nhất,
chuẩn mực. Điều này có thể lý giải bởi sự
khác biệt thể chế chính trị và cách thức tổ
chức quyền lực nhà nước giữa các quốc gia,
dẫn tới sự khác nhau trong QTCS5. Bên cạnh
đó, vẫn còn những hoài nghi trong nghiên
cứu lý luận về QTCS6, ví dụ như QTCS là
một lý thuyết khoa học được kiểm định, hay
chỉ mang tính kinh nghiệm7, mô tả quá trình.
Mặc dù vậy, việc nhận thức khái quát về một
quy trình logic với các giai đoạn của nó vẫn
đóng vai trò quan trọng, làm cơ sở cho việc
tiếp cận nghiên cứu và thực hành chính sách.
Quá trình chính sách thường bao gồm
các giai đoạn chính, theo trình tự thời gian
là: Lập chương trình nghị sự; Hình thành
chính sách; Thông qua chính sách; Thực thi
chính sách; Đánh giá chính sách. Ngoài ra,
có thể phân chia thành các giai đoạn nhỏ
hơn, đưa vào một số bước phân tích, hoặc
thêm một số giai đoạn, như: Xác định vấn
đề công, điều chỉnh chính sách (thay đổi
chính sách), sự thành công của chính sách,
và kết thúc chính sách. Dưới đây khái quát
một số giai đoạn chính trong một quá trình
HĐCS truyền thống:
- Lập chương trình (Agenda setting):
Các cá nhân và tổ chức, cơ quan chức năng
tham gia làm chính sách trình vấn đề công
ra thảo luận, và xem xét đưa vào chương
trình chính thức. Trên thực tế, có những vấn
đề chính sách dễ dàng mở “cánh cửa cơ
hội”8 xuất hiện trong chương trình nghị sự;
trong khi nhiều vấn đề khác lại bị trì hoãn lâu
dài.
- Hình thành chính sách9 (Policy
formulation, bao gồm việc thiết kế chính
sách - policy design): Chính thức đề xuất các
phương án (biện pháp thay thế)10 nhằm mục
tiêu giải quyết vấn đề chính sách. Giải pháp
thay thế trong các đề xuất chính sách có thể
thể hiện dưới dạng dự thảo các quy định
pháp lý của chính phủ, tòa án hoặc dự luật
của Quốc hội.
- Thông qua chính sách (Policy adoption):
Chính sách được chính thức thông qua bởi
đa số, hay được hợp pháp hoá (legitimation).
Nói chung, chính sách có thể được thông qua
bởi Quốc hội, Chính phủ và Tòa án trong
phạm vi luật định11.
- Thực thi chính sách (Policy implementation):
Một chính sách được thông qua sẽ được
chuyển đến cơ quan hành pháp để huy động
các nguồn lực tài chính, nhân lực triển khai
thực hiện. Đây là giai đoạn quan trọng mà
chính sách công thực sự tác động đến xã hội
nhằm đạt được các mục tiêu nhà nước đã đề
ra; và cũng có thể dẫn tới những tác động
không mong muốn, thậm chí ngoài dự đoán
phân tích ban đầu.
- Đánh giá chính sách (Policy evaluation):
Trong giai đoạn này, các đơn vị chức năng
như thanh tra, kiểm toán xác định xem các
cơ quan thực thi chính sách có đáp ứng yêu
cầu, tuân thủ quy định pháp lý, và đạt được
các mục tiêu của chính sách không. Theo
nghĩa này thì đánh giá chính sách là một giai
đoạn trong QTCS. Bên cạnh đó, đánh giá
5 Knoepfel, P, Larrue, C, Varone, F & Hill, M (2007), Public policy analysis, The Policy Press, University of Bristol, p.117.
6 Tiêu biểu như phê bình trong cuốn sách của Sabatier, P (2007), Theories of the Policy process, Westview Press.
7 Smith, K, Larimer, C (2009), The Public policy theory primer, Westview Press.
8 Kingdon, J (2011), Agendas, Alternatives, and Public Policies, 2nd ed., New York: Pearson.
9 Một số bài viết nghiên cứu ở Việt Nam gọi giai đoạn này là “hoạch định chính sách”; vì thế, cần phân biệt với quá trình
hoạch định chính sách nói chung.
10 Từ tiếng Anh là Alternatives - Rất khó để dịch sang một từ tiếng Việt chuẩn tương đương, có thể hiểu theo nghĩa là những
phương án lựa chọn, hay các biện pháp, giải pháp (có thể thay thế cho nhau) nhằm giải quyết vấn đề công cộng.
11 Bài viết này chủ yếu đề cập đến quá trình các chính sách được thông qua trong hoạt động lập pháp.
81NGHIÏN CÛÁULÊÅP PHAÁPSöë 02+03 (306+307) T1+T2/2016
chính sách trong nghiên cứu chính sách còn
được hiểu là một phương pháp phân tích
chương trình, chính sách, thông qua việc sử
dụng các công cụ phân tích.
Có nhiều yếu tố dùng để đánh giá các kết
quả chính sách (policy outcomes), và chất
lượng của quy trình HĐCS. Trong đó, ngoài
các tiêu chí phổ biến như hiệu suất và hiệu
quả, còn có các tiêu chí khác, như tính hợp
pháp, dân chủ, công bằng xã hội, minh bạch,
trách nhiệm giải trình, cùng các giá trị khác
mà chính sách mang lại, và chúng có thể mâu
thuẫn với nhau12.
Một điểm lưu ý, là quy trình HĐCS được
xem là một quá trình liên tục, mà đằng sau
nó là hoạt động PTCS. Việc “kết thúc” một
chính sách thường là khởi đầu cho một giai
đoạn mới, với các vấn đề công cộng mới nảy
sinh, cần tiếp tục được phát hiện, phân tích,
giải quyết và đánh giá13. Vì thế, các giai đoạn
của QTCS thường được biểu diễn trong một
vòng tròn, mang ý nghĩa một chu trình tiếp
nối liên tục - chu trình chính sách. Trong đó,
việc PTCS nói chung diễn ra ở hầu hết, nếu
không nói là tất cả, các giai đoạn của quá
trình chính sách14. Do vậy, nghiên cứu về chu
trình chính sách cần hiểu được vai trò của
PTCS và vận dụng PTCS phù hợp trong từng
giai đoạn.
1.3 Phân tích chính sách
Có thể chia ra hai nhánh phát triển chính
của khoa học chính sách là nghiên cứu chính
sách (policy research), và PTCS. Đối với
PTCS, lại có hai cách tiếp cận: Thứ nhất,
PTCS có thể liên quan đến lĩnh vực nghiên
cứu chính sách khi so sánh về phạm vi
nghiên cứu, phân tích nguyên nhân hình
thành một chính sách công (phát hiện và giải
quyết vấn đề công), hay việc điều chỉnh
chính sách. Từ góc độ này, PTCS rất gần với
nghiên cứu chính sách, ở chỗ kết quả phân
tích có thể chỉ là những khuyến nghị chính
sách gián tiếp, mà không tập trung vào việc
thiết kế, đề xuất các hành động chính sách
(policy actions). Thứ hai, là cách tiếp cận
PTCS dựa trên mục đích phân tích. Chuyên
gia phân tích căn cứ vào các kết quả phân
tích để đưa ra những đề xuất, “lời khuyên”
thuyết phục cho các nhà hoạch định chính
sách15. Ở đây, PTCS nghiêng về thực hành,
với những đòi hỏi cao về kỹ năng phân tích,
thiết kế chính sách, vừa là khoa học, cũng
vừa là nghệ thuật.
Phân tích chính sách không chỉ nghiên
cứu về quá trình chính sách, mà còn can dự,
tham gia tích cực vào quá trình này. Để thực
hiện tốt vai trò là một “dịch vụ” cung cấp tư
vấn chính sách16, thường được nhấn mạnh
trong giai đoạn phát hiện vấn đề và lập
chương trình, PTCS cũng bao gồm các bước
tuần tự cơ bản như: (1) phát hiện, lựa chọn
vấn đề cần giải quyết; (2) lựa chọn sử dụng
các công cụ phân tích thích hợp, ví dụ phân
tích chi phí - lợi ích, phân tích chi phí - hiệu
quả, đánh giá tác động đối với dự án luật; (3)
hình thành, đề xuất các giải pháp giải quyết
vấn đề; (4) xác định các tiêu chí đánh giá;
và (5) trình bày dưới dạng văn bản mẫu, kể
lại “câu chuyện”17 tìm kiếm, hình thành các
lời khuyên hợp lý, thuyết phục người làm
12 Thissen, W & Walker, W (2013), Public Policy Analysis: New Developments, Springer, New York, p.3.
13 Xem: Kraft, M & Furlong, S (2015), Public policy: politics, analysis, and alternatives, 5th ed, CQ Press.
14 Phạm vi PTCS có thể khác nhau: một số nhấn mạnh vào vai trò PTCS trong giai đoạn hình thành chính sách; quan điểm
khác rộng hơn, cho rằng PTCS diễn ra ở tất cả các giai đoạn trong QTCS.
15 Thissen, W & Walker, W (2013), Public Policy Analysis: New Developments, Springer, New York, p.13.
16 Weimer, D & Vining, A (2011), Policy Analysis: Concepts and Practice, Pearson.
17 Bardach, E (2012), A practical guide for policy analysis: The eightfold path to more effective problem solving, CQ Press.
82 NGHIÏN CÛÁULÊÅP PHAÁP Söë 02+03 (306+307) T1+T2/2016
CHÑNH SAÁCH
chính sách. Một số nhóm hành vi chính trong
PTCS bao gồm: nghiên cứu và phân tích,
thiết kế và khuyến nghị, làm sáng tỏ các giá
trị và lập luận, tư vấn chiến lược, dân chủ
hóa, và trung gian. Trong mỗi tình huống
thực tiễn, chuyên gia phân tích có thể sử
dụng kết hợp các hành vi này, nhưng thường
không bao gồm tất cả18.
Mục tiêu của PTCS là đóng góp nâng
cao chất lượng và kết quả đạt được của quá
trình HĐCS, hay còn được ví là giúp làm ra
những “chính sách thông minh”19 hơn. Thực
tế là, các cách tiếp cận PTCS khác nhau, từ
các lĩnh vực nghiên cứu khác nhau có thể
đưa ra đề xuất giải pháp khác nhau cho cùng
một vấn đề, hoặc tập trung vào những giá trị
đặc thù20. Vì thế, PTCS cần giải quyết vấn đề
trong điều kiện thích ứng với tình huống có
nhiều chủ thể làm chính sách công, với
những giá trị đa dạng. Điều này được thể
hiện rõ, ngay từ giai đoạn lập chương trình
nghị sự trong hoạt động Quốc hội, bởi tính
chất đại diện cho nhiều nhóm khác nhau, với
những lợi ích và mối quan tâm khác nhau
trong xã hội.
Như vậy, có thể nhận thấy, nếu như
chính sách chính là sự lựa chọn21: lựa chọn
các mục tiêu; lựa chọn lý do cho hành động,
hoặc không hành động của nhà nước; lựa
chọn các nguồn lực để nhằm đạt được các
mục tiêu trên22, thì PTCS chính là quá trình
tìm kiếm, đưa ra những lời khuyên hữu ích
và hợp lý để làm cơ sở cho quyết định hình
thành, lựa chọn chính sách. Đương nhiên,
không phải lời khuyên nào cũng có thể trở
thành chính sách.
Về mối quan hệ giữa quy trình HĐCS,
quy trình lập pháp (QTLP) và PTCS: Hiểu
theo nghĩa rộng thì QTCS bao hàm trong nó
QTLP. Trong khi đó, đối với QTLP, một số
quốc gia xem PTCS như là một giai đoạn
tiền lập pháp trong quy trình này. Bởi vì,
PTCS đóng vai trò quan trọng trong việc xác
định vấn đề công cộng và đề ra giải pháp
chính sách, mà thông thường, rất nhiều giải
pháp chính sách cần được luật hóa. Chính vì
thế, PTCS (theo nghĩa hẹp, với các bước đã
nêu ở trên) có thể được xem như là một giai
đoạn23, hay đúng hơn là một trong những yêu
cầu công việc quan trọng đầu tiên trong
QTCS và QTLP. Đưa PTCS thành một giai
đoạn, hay một yêu cầu bắt buộc trong một
giai đoạn của QTLP, là để khẳng định tầm
quan trọng của PTCS tiền lập pháp. Nhìn
chung, không nên hiểu PTCS chỉ xuất hiện,
hay chỉ là một giai đoạn riêng rẽ, không cần
thiết ở các giai đoạn sau trong QTLP và
QTCS. Các bước PTCS cũng khác với quy
trình HĐCS ở chỗ, PTCS được thực hiện để
trả lời sáng tỏ câu hỏi nhà nước nên làm gì?
còn quy trình HĐCS cho biết chính sách
được làm ra như thế nào, và tại sao?
Ngoài ra, một số nghiên cứu cũng phân
biệt giữa PTCS với đánh giá chính sách (theo
nghĩa là phương pháp phân tích chương
trình) ở chỗ: PTCS là để cân nhắc nên làm
gì, trong khi đánh giá chính sách là để xem
xét, đánh giá những gì đã được làm24. Còn ở
cách tiếp cận rộng hơn, PTCS được xem là
bao gồm một số phương pháp, trong đó có
18 Thissen, W & Walker, W (2013), Public Policy Analysis: New Developments, Springer, New York, p.43.
19 Mintrom, M (2012), Contemporary policy analysis, Oxford University Press.
20 Xem chú thích 15, Thissen & Walker (2013), p.3.
21 Kay, A (2006), The Dynamics of Public Policy: Theory and Evidence, in New horizons in public policy, Edward Elgar.
22 Bridgman, P & Davis, G (2004), Australian Policy Handbook, 2nd ed., Sydney: Allen and Unwin.
23 Như trên.
24 Xem chú thích 7: Smith, Larimer (2009).
83NGHIÏN CÛÁULÊÅP PHAÁPSöë 02+03 (306+307) T1+T2/2016
đánh giá chính sách. PTCS, vì thế, diễn ra cả
ở giai đoạn trước, và sau của một quá trình
chính sách25. Một chính sách, một dự luật cần
được phân tích, đánh giá trong suốt quá trình
của nó. PTCS không dừng lại ở việc đưa ra
khuyến nghị, hay lựa chọn giải pháp giải
quyết vấn đề kinh tế xã hội. Nó còn cung cấp
các công cụ cần thiết để phân tích, đánh giá
kết quả của phương án chính sách đã được
thông qua, quá trình thực thi và hiệu quả đạt
được của chính sách đó26.
2. Thực tiễn ở Việt Nam
2.1 Bối cảnh chung
Trước hết, có quan điểm phổ biến cho
rằng, hoạt động PTCS và HĐCS chủ yếu
diễn ra, hay được thực hiện bởi Chính phủ,
thay vì Quốc hội27. Một số lý do là công chức
trong các cơ quan Chính phủ và hệ thống
hành chính có nhiều kinh nghiệm trong công
tác điều hành, có chuyên môn sâu trong việc
phân tích cũng như thực thi chính sách;
Chính phủ, các bộ ngành thường là nơi khởi
điểm đề xuất xây dựng các dự thảo luật, pháp
lệnh28. Quan điểm này ảnh hưởng không nhỏ
đến việc xác định đúng vị trí, vai trò PTCS
và HĐCS trong giai đoạn Quốc hội. Trong
khi đó, xét cả lý thuyết và thực tế, Quốc hội
đóng vai trò rất quan trọng, nếu không nói là
quan trọng nhất, khi so sánh với các chủ thể
tham gia làm chính sách khác, trong việc
QĐCS29. Bởi lẽ, đa số các chính sách được
thể hiện dưới dạng văn bản luật do Quốc hội
thông qua. Ví dụ tham khảo ở Hoa Kỳ, Nghị
viện mới thực sự là trung tâm quyết định các
vấn đề chính sách30.
Trong hoạt động của Quốc hội nước ta,
PTCS vẫn chưa được áp dụng rộng rãi,
chuyên nghiệp và hiệu quả để nâng cao chất
lượng QĐCS. Trên thực tế, có một số hoạt
động thuộc phạm vi PTCS, hay cần có những
phân tích hỗ trợ, được diễn ra ở các giai đoạn
khác nhau trong quy trình xây dựng luật,
pháp lệnh, ví dụ như trong giai đoạn xây
dựng dự thảo, giai đoạn thẩm tra dự án luật,
pháp lệnh, nghị quyết của Quốc hội31. Thêm
nữa, thông tin dữ liệu và kết quả phân tích
cũng được các đại biểu Quốc hội (ĐBQH) sử
dụng ở các phiên chất vấn, hội nghị ĐBQH
chuyên trách (mặc dù thiên về phân tích định
tính; nhiều tình huống thực chất là bình luận
chính sách). Tuy nhiên, chưa có nhiều những
báo cáo PTCS đầy đủ, hoàn thiện, và thực
hiện với một quy trình chuyên nghiệp, bắt
buộc, hay theo đơn đặt hàng của các ĐBQH
trong việc xây dựng chương trình, dự thảo
luật, pháp lệnh.
Nhìn chung, việc thiếu vắng những quy
định về trình tự, thủ tục hoạch định và PTCS
có thể dẫn tới các hành động phối hợp không
ăn khớp; những nỗ lực thực hiện các chính
sách không có sự chuẩn bị cơ bản từ lúc lập
chương trình; hoặc thậm chí xây dựng một
chương trình cho một chính sách mà không
thực thi được. Nhà nước không nên quyết
định theo đuổi một chính sách mà không
được quyết định dựa trên cơ sở một nghị
25 Dunn, W (2012), Public policy analysis: an introduction, Pearson.
26 Walker W, Fisher G (1994). Public Policy Analysis: a brief definition, RAND Paper, p.7856.
27 Quan điểm này không riêng có ở Việt Nam, tương tự có thể tham khảo nghiên cứu về chính sách công ở Hoa Kỳ của tác
giả Kingdon trong cuốn sách: Agendas, alternatives, and public policies (xem thêm chú thích số 30).
28 Ở Việt Nam chính sách cũng được hiểu không thống nhất. Có quan điểm phân loại chính sách, cho rằng chính sách chủ
yếu được quyết định bởi quyền lập quy của Chính phủ.
29 Điều này còn phụ thuộc vào thể chế chính trị, cách thức tổ chức, phân công quyền lực nhà nước ở mỗi quốc gia.
30 Kingdon, J (2011), Agendas, Alternatives, and Public Policies, New York: Pearson.
31 Ví dụ một số báo cáo đánh giá tác động của dự án luật, hoặc trong các báo cáo thẩm tra, hay tổng hợp các ý kiến thảo
luận của ĐBQH thường đưa ra những phương án lựa chọn khác nhau, những vấn đề còn nhiều ý kiến khác nhau.
84 NGHIÏN CÛÁULÊÅP PHAÁP Söë 02+03 (306+307) T1+T2/2016
CHÑNH SAÁCH
trình chuẩn bị nghiêm túc, cũng như không
nên quyết định đưa vào chương trình nghị sự
một chính sách mà có ít khả năng được thông
qua hoặc khó triển khai thực hiện32. Để tránh
những tình huống trên, PTCS là một yêu cầu
không thể thiếu. Mặc dù vậy, chỉ đến khi
Luật Ban hành VBQPPL năm 201533 được
thông qua thì quá trình HĐCS và PTCS mới
bước đầu được quy định cụ thể.
2.2 Đối chiếu với Luật Ban hành
VBQPPL năm 2015
Vai trò quyết định chính sách của Quốc
hội
Theo Điều 15 Luật Ban hành VBQPPL
năm 2015, Quốc hội ban hành luật, nghị
quyết để quy định về các “chính sách cơ bản”
của Nhà nước. Điều 31 khẳng định: “chương
trình XDLPL được xây dựng hằng năm trên
cơ sở đường lối, chủ trương của Đảng, chính
sách của Nhà nước, chiến lược phát triển
kinh tế - xã hội, quốc phòng an ninh và yêu
cầu quản lý nhà nước”. Trong khi đường
lối chủ trương của Đảng được cụ thể hóa
bằng chính sách, pháp luật, thì các nội dung
chiến lược phát triển kinh tế xã hội, hiểu
theo nghĩa rộng, cũng thuộc phạm vi chính
sách của Nhà nước. Khoản 2 Điều 32 cũng
nêu ra căn cứ đề nghị xây dựng dự án luật,
pháp lệnh là “chính sách của Nhà nước”.
Những quy định kể trên là phù hợp với Điều
70 Hiến pháp năm 2013, quy định Quốc hội
có quyền làm Hiến pháp, làm luật và QĐCS
cơ bản. So sánh các quy định này có thể rút
ra: (1) cơ sở quan trọng để xây dựng luật là
chính sách; (2) luật quy định các chính sách
cơ bản; (3) Quốc hội quyết định các chính
sách cơ bản. Các chính sách cơ bản này bao
trùm hầu hết các lĩnh vực quan trọng, như
phát triển kinh tế - xã hội, tài chính, ngân
sách, văn hoá, giáo dục, y tế, dân tộc, tôn
giáo, an ninh, quốc phòng, đối ngoại34. Như
vậy, việc Quốc hội thông qua luật, cũng được
hiểu là đồng thời quyết định các chính sách
(cơ bản), được thể hiện, quy định trong dự
luật. Ở đây, cần nhắc lại những phân tích ở
phần trên, là đa số các chính sách thường
cần, và đi kèm với luật để đảm bảo khả năng
thực thi và đạt kết quả, mục tiêu đề ra.
Tuy nhiên, Điều 41 và Điều 45 Luật Ban
hành VBQPPL năm 2015 có thể làm thay đổi
nhận thức trên đây, cụ thể là:
Theo Điều 41, khi Chính phủ xem xét
thông qua đề nghị xây dựng luật, pháp lệnh
do Chính phủ trình thì: “Chính phủ thảo luận
và biểu quyết thông qua chính sách trong
từng đề nghị xây dựng luật, pháp lệnh”; và
“Chính phủ ra Nghị quyết về đề nghị xây
dựng luật, pháp lệnh với các chính sách đã
được thông qua”. Như vậy, trong khi chỉ mới
thông qua đề nghị xây dựng luật, pháp lệnh,
Chính phủ đã “thông qua chính sách”.
Cách tiếp cận phạm vi khái niệm chính
sách và thẩm quyền thông qua chính sách
trong quy định này có thể (suy luận) dẫn đến
một số hệ quả như sau:
Thứ nhất, căn cứ vào mục tiêu chính
sách, thì việc thông qua chính sách hàm ý
rằng, Chính phủ đã lựa chọn phương án
chính sách tối ưu nhất, hoặc khả thi nhất để
giải quyết vấn đề chính sách phát sinh.
Phương án chính sách được lựa chọn dẫn đến
đề nghị xây dựng luật, pháp lệnh và làm căn
cứ xây dựng dự thảo luật, pháp lệnh. Chính
sách được thông qua, do vậy, cũng hàm ý dự
luật, pháp lệnh là cần thiết để thuận lợi cho
việc thực thi chính sách. Suy ra, dự luật, pháp
lệnh cần được thông qua, dù nó mới ở giai
đoạn đề nghị xây dựng trong QTLP.
32 Xem chú thích 21: Kay (2006).
33 Luật Ban hành VBQPPL năm 2015 được thông qua ngày 22/6/2015 tại kỳ họp thứ 9, Quốc hội khoá XIII, có hiệu lực thi
hành từ ngày 01/7/2016.
34 Xem: Điều 70 Hiến pháp năm 2013, Điều 7 Luật Tổ chức Quốc hội năm 2014, Điều 15 Luật Ban hành VBQPPL năm 2015.
85NGHIÏN CÛÁULÊÅP PHAÁPSöë 02+03 (306+307) T1+T2/2016
Thứ hai, quy định như trên đã tách biệt
phần nội dung chính sách (các giải thích,
tuyên bố, chuỗi hành động để đạt mục tiêu
), và phần hình thức của chính sách (dưới
dạng văn bản luật). Trong đó, phần nội dung
chính sách đã được thông qua. Phần việc còn
lại, vì thế, chỉ là Quốc hội thảo luận thống
nhất hình thức văn bản nào sẽ đưa vào
chương trình xây dựng để tiếp tục các công
đoạn thuộc về chuyên môn pháp lý và kỹ
thuật lập pháp. Và câu hỏi là, nếu một dự luật
không được đưa vào chương trình, hay
không được thông qua, thì các chính sách đã
thông qua trong dự thảo đó sẽ triển khai ra
sao? Điều luật đã làm cho QTLP và QTCS
“vênh nhau”, ít nhất về trình tự thời gian.
Thứ ba, giả thiết rằng, chính sách ở đây
chỉ là các tuyên bố chung chung35 (ví dụ như
nhà nước có chính sách khuyến khích); chỉ
dừng lại ở tính định hướng; mới đề cập về sự
cần thiết phải ban hành luật, mà chưa đi sâu
vào các lựa chọn hành động cụ thể để giải
quyết các vấn đề phát sinh trong thực tiễn.
Tuy nhiên, nếu chỉ dừng lại ở định hướng
chung, thì rất khó để đưa ra một đánh giá tác
động đầy đủ, chi tiết như Điều 35 yêu cầu.
Nếu vậy, các nỗ lực đưa PTCS vào thành một
yêu cầu bắt buộc theo luật, vì thế sẽ ít tác
dụng. Theo hướng này thì khó giải quyết hiện
tượng luật không phản ánh được thực tiễn
cuộc sống, do thiếu các phân tích chính sách
tiền lập pháp được thực hiện chuyên nghiệp,
toàn diện. Trong khi đó, nếu xem chính sách
chỉ có phạm vi tác động hẹp, tính quan trọng
không cao, thì vấn đề đặt ra là tại sao cần ban
hành luật? Hơn nữa, nếu chỉ xem xét các
phương án chính sách trong phạm vi hẹp thì
không thể là quy định chuẩn cho tất cả các đề
nghị xây dựng và ban hành luật, pháp lệnh.
Thứ tư, nếu các chính sách trong các dự
án luật, pháp lệnh - mà phần nhiều do Chính
phủ đề nghị xây dựng, cũng được thông qua
bởi Chính phủ, thì vai trò QĐCS cơ bản của
Quốc hội ở đâu? Vì rõ ràng, điều luật này
trao thẩm quyền thông qua chính sách trong
dự án luật cho Chính phủ, trong khi thẩm
quyền thông qua luật thuộc Quốc hội. Như
thế, Chính phủ ngoài việc quyết định các
chính sách trong phạm vi thẩm quyền và điều
hành, đã đồng thời quyết định luôn cả chính
sách trong các dự án luật, pháp lệnh. Kết quả
(và cũng là câu hỏi) là, khi Luật Ban hành
VBQPPL có hiệu lực thực tế (từ ngày
01/7/2016), cơ quan QĐCS chủ yếu ở nước
ta sẽ là Chính phủ? Nếu không, cần trả lời
một loạt câu hỏi khác, như: Chính sách được
Chính phủ thông qua ở đây có gì khác với
chính sách cơ bản? Luật quy định chính sách
cơ bản, và cả chính sách không cơ bản? Quy
trình nào áp dụng cho chính sách cơ bản?
Chính sách không cơ bản có cần luật hoá?
Chi phí, lợi ích của nó so với các giải pháp,
công cụ chính sách khác? Phạm vi, tiêu chí
để phân biệt các kiểu loại chính sách có trong
dự án luật, và thẩm quyền thông qua là gì?
Tương tự, Điều 45 quy định: “đối với đề
nghị xây dựng luật, pháp lệnh không do
Chính phủ trình thì Uỷ ban thường vụ Quốc
hội, Hội đồng Dân tộc, Uỷ ban của Quốc hội,
Uỷ ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam và cơ quan trung ương của tổ chức
thành viên của Mặt trận thảo luận và biểu
quyết thông qua chính sách trong đề nghị
xây dựng luật, pháp lệnh”. Các hệ quả và câu
hỏi tương tự như trên cũng được đặt ra. Phải
chăng, qua các điều luật này, Quốc hội đã uỷ
quyền cho các cơ quan trên quyền QĐCS cơ
bản? Có mâu thuẫn với quy định tại Hiến
35 Đây không phải là cách tiếp cận khái niệm chính sách ở phạm vi rộng, theo định nghĩa chính sách như phần đầu bài viết
nêu ra.
86 NGHIÏN CÛÁULÊÅP PHAÁP Söë 02+03 (306+307) T1+T2/2016
CHÑNH SAÁCH
pháp không? Nếu không, cần làm rõ cơ sở để
phân biệt những chính sách được thông qua
này có gì khác so với chính sách cơ bản.
Theo chúng tôi, để đảm bảo sự phù hợp
giữa QTCS và QTLP, cũng như tính thống
nhất của hệ thống chính sách, pháp luật, nên
hiểu Chính phủ (và các cơ quan trên) chỉ
“thông qua” các đề xuất chính sách, mà qua
phân tích, Chính phủ thấy hợp lý, làm cơ sở
cho việc cần thiết phải ban hành luật, để từ
đó, đưa dự án luật vào đề nghị chương trình
xây dựng luật, pháp lệnh trình Quốc hội. Đề
xuất chính sách mà Chính phủ lựa chọn, vẫn
chỉ là một phương án tham khảo quan trọng,
trong cả QTLP và QTCS. Quốc hội, các Ủy
ban của Quốc hội, ĐBQH, và đặc biệt là cơ
quan chủ trì thẩm tra có thể dựa trên hồ sơ
PTCS mà phía cá nhân, cơ quan trình dự án
luật thực hiện, hoặc tiến hành phân tích độc
lập để làm cơ sở quyết định thông qua chính
sách. Bởi vì, mỗi chủ thể tham gia quá trình
HĐCS lại nhìn nhận chính sách tốt, hợp lý
và khả thi dưới góc độ khác nhau36. Việc
phân tích đa chiều, đa ngành từ các chủ thể
khác nhau sẽ toàn diện hơn. Tuy nhiên, Luật
Ban hành VBQPPL năm 2015 đã không đi
theo hướng này, vì theo Điều 55, sau khi
chính sách được thông qua, sẽ trở thành căn
cứ để soạn thảo dự án luật, pháp lệnh. Nếu
quá trình soạn thảo, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo
mà có “chính sách mới phát sinh cần bổ
sung” hoặc “có sự thay đổi lớn về chính
sách” so với chính sách đã được thông qua,
thì “trình cơ quan, tổ chức có thẩm quyền
trình xem xét, quyết định” hoặc “báo cáo
Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ xem xét,
quyết định”. Điều 47 quy định về thẩm tra đề
nghị và kiến nghị xây dựng luật, pháp lệnh
có yêu cầu thẩm tra “chính sách cơ bản của
văn bản” mà không có sự giải thích, phân
biệt gì với chính sách được Chính phủ thông
qua. Trong khi đó, một chính sách cần được
luật hóa phải trải qua nhiều công đoạn, chỉ
đến khi dự luật được Quốc hội chính thức
thông qua, đồng nghĩa với việc thông qua
chính sách (cơ bản) chứa đựng trọng văn bản
luật đó, thì chính sách mới được hợp pháp
hoá. Chính sách được Quốc hội thông qua
dưới dạng luật sẽ được Chính phủ thực thi.
Ở đây vừa là thực thi pháp luật, cũng vừa là
thực thi chính sách, đã được cụ thể hóa thành
luật; tương ứng với giai đoạn thông qua
chính sách và thực thi chính sách trong
QTCS.
Hoạt động phân tích chính sách trong
dự án luật
Qua nghiên cứu các điều luật liên quan,
có thể hình dung nhà làm luật đã đưa ra một
quy trình vừa lồng ghép các bước PTCS với
quy trình HĐCS, lại vừa muốn tách bạch
việc phân tích, xây dựng chính sách thành
giai đoạn trước, so với giai đoạn soạn thảo
dự luật về sau. Điểm quan trọng, tích cực là
PTCS (tập trung vào đánh giá tác động của
chính sách) trở thành yêu cầu bắt buộc đối
với đề xuất xây dựng dự thảo luật, pháp
lệnh37.
Chúng tôi ủng hộ việc quy định yêu cầu
PTCS trong QTLP. Phần này chỉ so sánh lý
thuyết để làm rõ hơn một vài nội dung:
Thứ nhất, điểm a, khoản 1 Điều 34 chính
là một phần việc thuộc về giai đoạn đánh giá
chính sách trong QTCS. Ngoài việc tổng kết,
đánh giá kết quả thực thi pháp luật có liên
quan, hoặc đánh giá thực trạng quan hệ xã
hội thì cần xem xét có xuất hiện vấn đề chính
sách không. Bởi vì, thông thường, qua PTCS
36 Twaalfhoven P (1999), The success of policy analysis studies: an actor perspective, Eburon Publishers.
37 Xem Điều 34, Điều 35 Luật Ban hành VBQPPL năm 2015.
87NGHIÏN CÛÁULÊÅP PHAÁPSöë 02+03 (306+307) T1+T2/2016
mới xác định vấn đề chính sách và đề xuất
giải pháp. Các phương án chính sách không
nhất thiết đều cần sửa đổi, bổ sung hay xây
dựng dự luật mới, mà Chính phủ còn nhiều
công cụ khác, như tài khóa, tiền tệ38. Xây
dựng luật, pháp lệnh dựa trên quy trình xây
dựng chính sách sẽ tăng tính hiệu quả, tránh
được cách làm ngược có thể xảy ra, là có đề
nghị xây dựng luật, pháp lệnh rồi mới đi xây
dựng các nội dung chính sách tương thích.
Thứ hai, Điều 47 - Thẩm tra đề nghị xây
dựng luật, pháp lệnh, kiến nghị về luật, pháp
lệnh - quy định Ủy ban Pháp luật thẩm tra
“chính sách cơ bản của văn bản”, Hội đồng
Dân tộc, Ủy ban của Quốc hội phối hợp với
Ủy ban Pháp luật “phát biểu ý kiến về sự cần
thiết ban hành, chính sách của văn bản”. Việc
phát biểu ý kiến lúc này giống như bình luận
chính sách. Vai trò, tác động của việc thẩm
tra hay phát biểu ý kiến sẽ không còn thực
sự quan trọng, bởi chính sách đã được thông
qua trước đó, như trên phân tích.
Tương tự, về thẩm tra dự án luật, pháp
lệnh, dự thảo nghị quyết: Hồ sơ dự án, dự
thảo để thẩm tra có kèm báo cáo đánh giá tác
động của chính sách39, nhưng không có nội
dung nào quy định cụ thể về sự cần thiết của
cơ quan thẩm tra phải xem xét đánh giá chính
báo cáo đánh giá tác động của chính sách,
hay thẩm tra nội dung chính sách của dự án,
dự thảo40. Có lẽ vì chính sách được hiểu là
đã được thông qua từ giai đoạn trước. Trong
khi đó, thực tế thì rất khó để phân biệt rõ ràng
sự khác nhau giữa nội dung chính sách và
“nội dung của dự thảo văn bản”. Do vậy, dù
có ghi rõ hay không, cơ quan thẩm tra trên
thực tế vẫn thực hiện cả hoạt động thẩm tra
chính sách. Và vì thế, trong giai đoạn này,
giả thiết rằng chính sách chưa được thông
qua, mà vẫn ở dạng phương án đề xuất, thì
cơ quan thẩm tra vẫn cần thẩm tra báo cáo
đánh giá tác động của chính sách, hoặc có
thể thực hiện việc PTCS độc lập.
3. Kiến nghị giải pháp
3.1 Nâng cao chất lượng hoạch định
chính sách và phân tích chính sách
Mặc dù việc luật hoá, hay quy định về
một quy trình HĐCS đầy đủ trong hoạt động
Quốc hội cần có lộ trình cải cách từng bước,
nhưng cần nhận thức rõ về một quy trình
logic với những giai đoạn HĐCS chính. Bởi
vì, như đã nói, đây là bước quan trọng ban
đầu tiếp cận với nghiên cứu và thực hành
chính sách, đặc biệt đối với Việt Nam khi
khoa học chính sách vẫn còn là lĩnh vực mới.
Bên cạnh đó, bổ sung quy định liên quan
đến quy trình HĐCS và PTCS không có
nghĩa là gia tăng gánh nặng cho hoạt động lập
pháp. Bởi lẽ, đây là những yêu cầu tối thiểu
cần thực hiện để có được hệ thống chính sách,
pháp luật chất lượng cao. Các quy định chuẩn
hoá sẽ làm cho quá trình này trở nên minh
bạch, rõ ràng hơn và cũng tạo thuận lợi hơn
cho hoạt động Quốc hội trong dài hạn.
Trong mối quan hệ với QTCS, QTLP
đóng vai trò trung tâm, do các dự luật và hầu
hết các chính sách cơ bản, quan trọng cần
được thông qua bởi Quốc hội. Quốc hội
không nên uỷ quyền cho các cơ quan khác
quyết định thay. Nói cách khác, chính sách
trong đề nghị xây dựng luật và các dự án luật
chỉ nên được thông qua bởi Quốc hội trong
phiên họp toàn thể, đồng thời với việc thông
qua dự án luật trong QTLP.
38 Bài viết này chỉ tập trung vào phân tích việc lựa chọn phương án chính sách bao gồm việc xây dựng dự thảo luật.
39 Xem Điều 64 Luật Ban hành VBQPPL năm 2015.
40 Xem Điều 65 Luật Ban hành VBQPPL năm 2015.
88 NGHIÏN CÛÁULÊÅP PHAÁP Söë 02+03 (306+307) T1+T2/2016
CHÑNH SAÁCH
Để có được một hệ thống pháp luật dễ đi
vào đời sống, hay thực tiễn cuộc sống được
phản ánh kịp thời vào luật, thì cần thiết xây
dựng hệ thống chính sách tốt. Mặt khác, chỉ
khi thực hiện tốt việc PTCS để phát hiện
đúng vấn đề, đề xuất và chọn lựa đúng
phương án, đánh giá toàn diện việc thực thi
thì mới góp phần giải quyết được tình trạng
chính sách và pháp luật xa rời đời sống xã
hội. Vì vậy, cần hỗ trợ nâng cao vai trò
QĐCS thể hiện qua quyền lập pháp và quyết
định các vấn đề quan trọng về kinh tế - xã
hội của Quốc hội, để các ĐBQH đúng là
những nhà HĐCS. Để làm tốt điều này, trước
mắt, cần tăng cường hoạt động của ĐBQH
chuyên trách, tiến đến một Quốc hội hoạt
động thường xuyên, chuyên nghiệp. ĐBQH
có thể không phải là những chuyên gia
PTCS, nhưng cần được hỗ trợ, cần có nguồn
lực để thực hiện, hoặc thuê chuyên gia PTCS
làm cơ sở cho việc ra quyết định.
Nếu như trong việc HĐCS, Quốc hội nói
chung và các ĐBQH nói riêng đóng vai trò
chính, thì công việc PTCS lại cần có sự tham
gia tích cực của đội ngũ chuyên viên, các cơ
quan phục vụ cho hoạt động của Quốc hội.
Các Vụ (thuộc Văn phòng Quốc hội) phục
vụ các Uỷ ban của Quốc hội, các Văn phòng
Đoàn ĐBQH nên có bộ phận chuyên môn về
chính sách công để đảm bảo chất lượng
PTCS, hỗ trợ hoạt động thẩm tra, hoặc đề
nghị xây dựng pháp luật từ các ĐBQH. Văn
phòng Quốc hội và Viện Nghiên cứu Lập
pháp41 cũng có thể thành lập Vụ Chính sách
(hoặc Vụ Chính sách công) để đảm nhiệm
chuyên trách các công việc thuộc lĩnh vực
nghiên cứu, phân tích chính sách công, hỗ trợ
cho ĐBQH và các cơ quan thẩm tra. Đây là
tiền đề cần thiết để góp phần nâng cao năng
lực chính sách cho đội ngũ chuyên viên phục
vụ Quốc hội.
Thêm nữa, hoạt động nghiên cứu chính
sách và PTCS có phạm vi rất rộng và đòi hỏi
kiến thức đa ngành42 mà các chuyên viên
không thể đảm trách tất cả. Do đó, một phần
việc quan trọng là xây dựng được mạng lưới
các chuyên gia trong nhiều lĩnh vực cùng
cộng tác. Các cơ quan phục vụ đóng vai trò
kết nối, chuyển tải các nghiên cứu chuyên
sâu về chính sách và PTCS đến với các
ĐBQH. Đồng thời, các hoạt động nghiên
cứu, xuất bản ấn phẩm khoa học, hội thảo
chuyên đề liên quan đến lĩnh vực chính sách
công sẽ góp phần thúc đẩy sự hợp tác, liên
kết giữa các cơ quan phục vụ, viện nghiên
cứu, trường đại học, các chuyên gia với
ĐBQH. Làm tốt công việc này thì các hoạt
động thẩm tra, QĐCS, thông qua dự luật sẽ
nâng cao chất lượng, hiệu quả, từ đó nâng
cao vai trò và tính thực quyền của Quốc hội.
3.2 Đề xuất quy trình mới
Về lâu dài, chúng tôi cho rằng, cần tiếp
tục hoàn thiện các quy định liên quan trong
Luật Ban hành VBQPPL năm 2015 để đảm
bảo tính đồng bộ, thống nhất của hệ thống
chính sách và pháp luật. Trong phạm vi bài
viết này, chúng tôi đề xuất quan điểm mới về
QTCS và PTCS (xem Sơ đồ đã đơn giản hoá
một số giai đoạn) nhằm (1) phân biệt sự khác
nhau giữa QTCS và QTLP, đề xuất quy trình
tổng quát phù hợp ở Việt Nam; và (2) nhấn
mạnh vai trò PTCS nói chung trong quy trình
này. Trong đó, QTCS (α) có phạm vi rộng
hơn, chứa đựng trong nó QTLP (β). PTCS
41 Theo Điều 33, Điều 37, Điều 56 Luật Ban hành VBQPPL năm 2015.
42 Xem chú thích 7: Smith, Larimer 2009.
89NGHIÏN CÛÁULÊÅP PHAÁPSöë 02+03 (306+307) T1+T2/2016
với những lời khuyên, đánh giá có chất
lượng cao, chuyên nghiệp là điều kiện cần để
nâng cao chất lượng HĐCS. QĐCS không
phải là vai trò riêng của Quốc hội, ví dụ
Chính phủ cũng có những biện pháp và công
cụ để QĐCS trong phạm vi thẩm quyền. Tuy
nhiên, quyền lập pháp, quyết định các chính
sách cơ bản, các vấn đề quan trọng của đất
nước là quyền hiến định của Quốc hội43. Vì
vậy, QTLP trong giai đoạn Quốc hội có vai
trò trung tâm trong QTCS, ảnh hưởng trực
tiếp đến chất lượng của hệ thống chính sách
nói chung ở nước ta. Nâng cao chất lượng
QĐCS của Quốc hội cũng là tạo điều kiện để
Chính phủ thực thi các chính sách này đạt
hiệu quả tốt hơn n
43 Xem quy định tại Điều 69, Điều 70 Hiến pháp năm 2013.
90 NGHIÏN CÛÁULÊÅP PHAÁP Söë 02+03 (306+307) T1+T2/2016
CHÑNH SAÁCH
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- quy_trinh_chinh_sach_va_phan_tich_chinh_sach_trong_hoat_dong.pdf