Một là, tiếp tục sửa đổi, bổ sung nhằm tối
ưu hóa các quy định của BLTTHS năm
2015 về quyền bào chữa của người bị buộc
tội phù hợp với thực tiễn, nhất là về trình
tự, thủ tục đăng ký bào chữa và sự có mặt
của người bào chữa, quyền và nghĩa vụ của
người bào chữa trong các hoạt động tố tụng.
Bên cạnh đó, Tòa án Nhân dân tối cao,
Viện Kiểm sát Nhân dân tối cao, Bộ Công
an, Bộ Quốc phòng, Bộ Tư pháp cần ban
hành Thông tư liên tịch về đảm bảo quyền
bào chữa trong tố tụng hình sự, xây dựng
quy chế làm việc của người bào chữa khi
tiếp xúc với người bị bắt, người bị tạm giữ
tại nhà tạm giữ, trại tạm giam hoặc cơ sở
giam giữ khác. Ngoài ra, cần xác định trách
nhiệm của cơ quan và người tiến hành tố
tụng trong việc không thực hiện hoặc có
hành vi vi phạm pháp luật, gây khó khăn,
cản trở việc thực hiện, đảm bảo quyền bào
chữa của người bị bắt, người bị tạm giữ.
Hai là, ngoài việc tối ưu hóa luật định
phù hợp với thực tiễn cũng cần đẩy mạnh
công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật
về quyền bào chữa và nâng cao ý thức chấp
hành pháp luật cho người dân và người có
thẩm quyền tiến hành tố tụng. Việc hiểu
biết, tôn trọng và thực hiện đúng các quy
định của pháp luật về quyền bào chữa của
người bị bắt, người bị tạm giữ và gia đình
họ, cũng như từ phía cơ quan điều tra, viện
kiểm sát, tòa án là một đảm bảo quan trọng
cho việc thực hiện quyền bào chữa của
người bị bắt, người bị tạm giữ. Theo đó, trại
tạm giam, nhà tạm giữ và cơ sở giam giữ
cần tạo điều kiện cho người bị bắt, người bị
tạm giữ muốn tự mình bào chữa được tiếp
xúc với các văn bản quy phạm pháp luật
liên quan. Khi thực hiện quyền bào chữa
cho người bị bắt, người bị tạm giữ thì người
có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải có
trách nhiệm giải thích đầy đủ các quy định
về quyền bào chữa và phải lập biên bản về
việc giải thích quyền và nghĩa vụ của những
người này, trong đó có quyền bào chữa và
được lưu tại hồ sơ vụ án như một quy định
bắt buộc. Để đảm bảo tốt nhất cho yêu cầu
lựa chọn người bào chữa, các đoàn luật sư,
trung tâm trợ giúp pháp lý cần có danh sách
các luật sư và trợ giúp viên pháp lý (ghi rõ
địa chỉ liên hệ, điện thoại, khái quát về năng
lực.) gửi đến các cơ sở tạm giữ, tạm giam,
được niêm yết công khai. Các cơ quan tố
tụng cần phải tạo mọi điều kiện cho người
bào chữa thực hiện tốt chức năng chuyên
trách là bào chữa. Về cá nhân người bào
chữa cần phải nhận thức và nêu cao hơn
nữa trách nhiệm của mình khi tham gia tố
tụng, không làm trì trệ hay cản trở hoạt
động tố tụng và phải bảo vệ quyền lợi cho
người bị bắt, người bị tạm giữ.
10 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 21/01/2022 | Lượt xem: 207 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Quyền bào chữa của người bị bắt, người bị tạm giữ theo Bộ luật tố tụng hình sự 2015, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
72
Quyền bào chữa của người bị bắt, người bị
tạm giữ theo Bộ luật tố tụng hình sự 2015
Đỗ Khánh Ly1
1 Học viện An ninh nhân dân.
Email: Dokhanhly220195@gmail.com
Nhận ngày 22 tháng 4 năm 2019. Chấp nhận đăng ngày 29 tháng 5 năm 2019.
Tóm tắt: Quyền bào chữa là một trong những quyền quan trọng của người bị buộc tội để họ có thể
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình trong quá trình tham gia tố tụng hình sự. Trong những
năm qua, quyền bào chữa của người bị bắt, bị tạm giam giữ trong các vụ án có dấu hiệu hình sự
theo Bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS) năm 2015 đã có nhiều thay đổi nhằm đảm bảo cho các hoạt
động tố tụng hình sự được khách quan, toàn diện, tránh oan sai và bỏ lọt tội phạm.
Từ khóa: Tố tụng hình sự, người bị bắt, người bị tạm giữ, quyền bào chữa.
Phân loại ngành: Luật học
Abstract: The right to defence is one of the important rights of people accused so that they can
protect their legitimate rights and interests while participating in criminal proceedings. In recent
years, such right of people arrested and temporarily detained in cases with criminal signals under
the 2015 Criminal Procedure Code has undergone various changes to ensure that the activities of
criminal proceedings are objective, comprehensive, preventing wrongdoings from being committed
and criminals from evading justice.
Keywords: Criminal proceedings, the arrested, detainees, right to defence.
Subject classification: Jurisprudence
1. Đặt vấn đề
Quyền bào chữa là một trong những quyền
quan trọng của người bị buộc tội để họ có
thể bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
mình trong quá trình tham gia tố tụng hình
sự. Quyền bào chữa có vai trò quan trọng
trong việc đảm bảo cho các hoạt động tố
tụng hình sự được khách quan, toàn diện,
tránh oan sai và bỏ lọt tội phạm. Do đó,
ngoài hệ thống pháp luật của các quốc gia,
quyền bào chữa của người bị buộc tội cũng
Đỗ Khánh Ly
73
được ghi nhận trong nhiều điều ước quốc tế
và khu vực, như: Tuyên ngôn Quốc tế Nhân
quyền năm 1948, Công ước Quốc tế về các
quyền Dân sự và Chính trị năm 1966, các
Nguyên tắc về bảo vệ tất cả những người bị
giam hay bị cầm tù dưới bất kỳ hình thức
nào năm 1988, các Nguyên tắc cơ bản về
Vai trò của Luật sư năm 19902
Ở Việt Nam, quyền bào chữa của người
bị buộc tội là một quyền hiến định, được
quy định trong các bản Hiến pháp từ năm
1946 đến nay và quyền này ngày càng được
mở rộng3. Cụ thể hóa các quy định của
Hiến pháp, trước khi BLTTHS năm 1988
được ban hành, các văn bản pháp luật tố
tụng hình sự quy định người bào chữa chỉ
có thể tham gia vào vụ án khi kết thúc điều
tra. Đến BLTTHS năm 1988 quy định
quyền bào chữa sớm hơn, từ khi có quyết
định khởi tố bị can. BLTTHS năm 2003
quy định quyền bào chữa có từ khi có quyết
định tạm giữ. Đến BLTTHS năm 2015 đã
có thêm bước tiến nữa khi quy định quyền
bào chữa xuất hiện ngay từ khi người bị giữ
trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt.
Phạm vi quyền bào chữa ngày càng mở
rộng đó là bước tiến quan trọng thể hiện
sự tiến bộ của pháp luật tố tụng hình sự
Việt Nam.
BLTTHS năm 2015 chưa có định nghĩa
thuật ngữ “người bị bắt” mà liệt kê những
trường hợp người bị bắt là: người bị bắt
trong trường hợp phạm tội quả tang, người
bị bắt theo quyết định truy nã và người bị
bắt trong trường hợp khẩn cấp. Còn đối với
người bị tạm giữ, Điều 59 BLTTHS năm
2015 quy định: “Người bị tạm giữ là người
bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, bị bắt
trong trường hợp phạm tội quả tang, bị bắt
theo quyết định truy nã hoặc người phạm
tội tự thú, đầu thú và đối với họ đã có quyết
định tạm giữ” [9]. Như vậy, có thể thấy
người bị bắt, người bị tạm giữ trong tố tụng
hình sự là người bị tình nghi là tội phạm và
cần áp dụng biện pháp ngăn chặn, cách ly
họ với xã hội để họ không thể tiếp tục phạm
tội, bỏ trốn hoặc cản trở việc điều tra. Điều
này cho thấy người bị bắt, người bị tạm giữ
cũng là những người bị buộc tội và bị yếu
thế, dễ bị tổn thương trong tố tụng hình sự.
Chính vì vậy, cần phải đảm bảo quyền bào
chữa cho họ. Bài viết này đề cập quyền bào
chữa; những hạn chế, bất cập; và giải pháp
bảo đảm quyền bào chữa của người bị bắt,
bị tạm giam giữ trong BLTTHS năm 2015.
2. Quyền tự bào chữa, nhờ người khác
bào chữa trong Bộ luật tố tụng hình
sự 2015
2.1. Quyền tự bào chữa
Người bị bắt, người bị tạm giữ theo quy
định của BLTTHS 2015 có quyền: được
biết lý do mình bị bắt, bị tạm giữ; được
thông báo, giải thích về quyền và nghĩa vụ
khi bị bắt và bị tạm giữ; trình bày lời khai,
trình bày ý kiến, không buộc phải đưa ra lời
khai chống lại chính mình hoặc buộc phải
nhận mình có tội; đưa ra chứng cứ, tài liệu,
đồ vật, yêu cầu để chứng minh sự vô tội
hoặc đưa ra những tình tiết làm giảm trách
nhiệm hình sự cho mình. Trong trường hợp
này, các cơ quan có thẩm quyền phải có
trách nhiệm xem xét, giải quyết yêu cầu của
họ. Nếu không chấp nhận, cơ quan tiến
hành tố tụng phải lập biên bản, nêu lí do và
phải thông báo cho người bị bắt, người bị
tạm giữ; trình bày ý kiến về chứng cứ, tài
liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có
thẩm quyền tố tụng kiểm tra, đánh giá;
Khoa học xã hội Việt Nam, số 7 - 2019
74
khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ
quan, người có thẩm quyền tiến hành tố
tụng trong việc giữ người, bắt người tới cơ
quan, cá nhân có thẩm quyền giải quyết
khiếu nại theo quy định tại Điều 30 Hiến
pháp 2013 và Chương XXXIII BLTTHS
2015. Việc khiếu nại có thể bằng miệng
hoặc bằng văn bản
2.2. Quyền nhờ người khác bào chữa
Người bị bắt, người bị tạm giữ hoặc người
đại diện hoặc người thân thích của họ có
quyền lựa chọn người bào chữa. Theo quy
định tại khoản 1 Điều 72 BLTTHS 2015:
“Người bào chữa là người được người bị
buộc tội nhờ bào chữa hoặc cơ quan có
thẩm quyền tiến hành tố tụng chỉ định và
được cơ quan, người có thẩm quyền tiến
hành tố tụng tiếp nhận việc đăng ký bào
chữa” [9]. Người bào chữa có thể là luật sư,
người đại diện của người bị bắt, người bị
tạm giữ, bào chữa viên nhân dân hoặc trợ
giúp viên pháp lý (trừ những người không
được bào chữa được quy định tại khoản 4
Điều 72 BLTTHS năm 2015 gồm: người đã
tiến hành tố tụng vụ án đó, người thân thích
của người đã hoặc đang tiến hành tố tụng
vụ án đó; người tham gia vụ án đó với tư
cách là người làm chứng, người giám định,
người định giá tài sản, người phiên dịch,
người dịch thuật; người đang bị truy cứu
trách nhiệm hình sự, người bị kết án mà
chưa được xóa án tích, người đang bị áp
dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào
cơ sở cai nghiện bắt buộc, cơ sở giáo dục
bắt buộc), trong đó: (1) Luật sư là người
bào chữa phải có đủ tiêu chuẩn, điều kiện
hành nghề theo quy định của Luật Luật sư,
thực hiện dịch vụ pháp lý theo yêu cầu của
cá nhân, cơ quan, tổ chức. Tiêu chuẩn luật
sư, điều kiện hành nghề của luật sư là: công
dân Việt Nam trung thành với Tổ quốc;
tuân thủ Hiến pháp và pháp luật; có phẩm
chất đạo đức tốt; có bằng cử nhân luật; đã
được đào tạo nghề luật sư; đã qua thời gian
tập sự hành nghề luật sư; có sức khỏe bảo
đảm hành nghề luật sư thì có thể trở thành
luật sư. Người có đủ tiêu chuẩn nói trên
muốn được hành nghề luật sư phải có
Chứng chỉ hành nghề luật sư và gia nhập
một đoàn luật sư; (2) Người đại diện của
người bị buộc tội là người đại diện theo
pháp luật của cá nhân (Điều 136 Bộ luật
dân sự 2015). Thông thường, người đại diện
hợp pháp của người bị buộc tội thường là
những người ruột thịt, thân thích của người
bị buộc tội như: bố, mẹ, anh, chị, em ruột,
vợ, chồng; (3) Bào chữa viên nhân dân là
công dân Việt Nam từ 18 tuổi trở lên; trung
thành với Tổ quốc; có phẩm chất đạo đức
tốt; có kiến thức pháp lý; đủ sức khỏe bảo
đảm hoàn thành nhiệm vụ được giao; được
Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam hoặc tổ
chức thành viên của Mặt trận cử tham gia
bào chữa cho người bị buộc tội là thành
viên của tổ chức mình; (4) Trợ giúp viên
pháp lý là công dân Việt Nam là viên chức
của Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước có
đủ tiêu chuẩn trở thành trợ giúp viên pháp
lý. Tiêu chuẩn trở thành trợ giúp viên pháp
lý là: có phẩm chất đạo đức tốt; có trình
độ cử nhân luật trở lên; đã được đào tạo
nghề luật sư hoặc được miễn đào tạo nghề
luật sư; đã qua thời gian tập sự hành nghề
luật sư hoặc tập sự trợ giúp pháp lý; có sức
khỏe bảo đảm thực hiện trợ giúp pháp lý;
không đang trong thời gian bị xử lý kỷ luật.
Như vậy, BLTTHS năm 2015 đã bổ
sung thêm Trợ giúp viên pháp lý là người
bào chữa để bào chữa miễn phí cho người
bị bắt, người bị tạm giữ nếu nằm trong 14
Đỗ Khánh Ly
75
nhóm đối tượng quy định tại Điều 7 Luật
Trợ giúp pháp lý [11] gồm có: người có
công với cách mạng; người thuộc hộ nghèo;
trẻ em; người dân tộc thiểu số cư trú ở
vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt
khó khăn; người bị buộc tội từ đủ 16 tuổi
đến dưới 18 tuổi; người bị buộc tội thuộc
hộ cận nghèo. Người thuộc một trong các
trường hợp sau đây có khó khăn về tài
chính như: cha đẻ, mẹ đẻ, vợ, chồng, con
của liệt sĩ và người có công nuôi
dưỡng khi liệt sĩ còn nhỏ; người nhiễm chất
độc da cam; người cao tuổi; người khuyết
tật; người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi là
bị hại trong vụ án hình sự; nạn nhân trong
vụ việc bạo lực gia đình; nạn nhân của hành
vi mua bán người theo quy định của
Luật Phòng, chống mua bán người; người
nhiễm HIV mà Chính phủ quy định chi tiết
điều kiện khó khăn về tài chính của người
được trợ giúp pháp lý quy định tại khoản
này phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội
(Điều 7 Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017).
Việc mở rộng diện người bào chữa cho
người bị bắt, người bị tạm giữ không chỉ để
bảo vệ tốt hơn quyền, lợi ích hợp pháp của
người bị bắt, người bị tạm giữ mà còn phù
hợp với điều kiện thực tiễn hiện nay, khi
việc tiếp cận luật sư còn nhiều hạn chế và
đa phần trợ giúp viên pháp lý đều không có
thẻ luật sư nên khó khăn trong việc bào
chữa cho người bị bắt, người bị tạm giữ.
Trong thời hạn 12 giờ kể từ khi nhận
được đơn yêu cầu người bào chữa của
người bị bắt, bị tạm giữ thì cơ quan có thẩm
quyền đang quản lý người bị bắt, người bị
tạm giữ có trách nhiệm chuyển đơn này cho
người bào chữa, người đại diện hoặc người
thân thích của họ. Trường hợp người bị bắt,
người bị tạm giữ không nêu đích danh
người bào chữa thì cơ quan có thẩm quyền
đang quản lý người bị bắt, bị tạm giữ phải
chuyển đơn này cho người đại diện hoặc
người thân thích của họ để những người
này nhờ người bào chữa (Điều 75 BLTTHS
năm 2015). Như vậy, so với các quy định
trước đây, BLTTHS 2015 bổ sung người
thân thích của người bị bắt, người bị tạm
giữ có quyền mời người bào chữa.
Trong các trường hợp người bị bắt,
người bị tạm giữ có nhược điểm về thể chất
mà không thể tự bào chữa; người có nhược
điểm về tâm thần hoặc là người dưới 18
tuổi thì nếu người bị bắt, người bị tạm giữ
hoặc người đại diện hoặc người thân thích
của họ không mời người bào chữa thì cơ
quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải
chỉ định người bào chữa cho họ (Điều 76
BLTTHS năm 2015).
Người bị bắt, người bị tạm giữ hoặc
người đại diện hoặc người thân thích của họ
có quyền từ chối hoặc đề nghị thay đổi
người bào chữa. Trường hợp người bị bắt,
người bị tạm giữ có đề nghị từ chối người
bào chữa do người thân thích của họ nhờ thì
điều tra viên phải cùng người bào chữa đó
trực tiếp gặp người bị bắt, người bị tạm giữ
để xác nhận việc từ chối.
Để tạo điều kiện cho người bào chữa
nhanh chóng tiếp cận với quá trình giải
quyết vụ án, Điều 78 BLTTHS năm 2015
quy định thủ tục “đăng ký bào chữa” thay
cho thủ tục “cấp giấy chứng nhận người
bào chữa” trước đây; đồng thời rút ngắn
thời gian đăng ký bào chữa từ 03 ngày
xuống còn 24 giờ.
Người bào chữa tham gia tố tụng từ khi
người bị bắt có mặt tại trụ sở của cơ quan
điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến
hành một số hoạt động điều tra hoặc từ khi
có quyết định tạm giữ, trừ một số trường
hợp cần giữ bí mật điều tra đối với các tội
xâm phạm an ninh quốc gia. Như vậy,
Khoa học xã hội Việt Nam, số 7 - 2019
76
BLTTHS năm 2015 quy định thời điểm
người bào chữa tham gia tố tụng sớm hơn
(kể từ khi người bị bắt có mặt tại trụ sở cơ
quan công an) thay vì tham gia từ khi có
quyết định tạm giữ như trước đây.
Khi người bào chữa tham gia tố tụng thì
có các quyền và nghĩa vụ được quy định tại
điều 73 BLTTHS năm 2015. Trong đó,
BLTTHS năm 2015 quy định bổ sung cho
người bào chữa quyền thu thập chứng cứ;
kiểm tra, đánh giá và trình bày ý kiến về
chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu
cầu người có thẩm quyền tiến hành tố tụng
kiểm tra, đánh giá. Đồng thời, khoản 3,
Điều 73 BLTTHS 2015 cũng đã bổ sung,
quy định rõ trách nhiệm của người bào
chữa: “Trường hợp người bào chữa vi phạm
pháp luật, vi phạm đạo đức nghề nghiệp thì
tùy theo tính chất, mức độ vi phạm sẽ bị
hủy bỏ việc đăng ký bào chữa, xử lý kỷ
luật, xử phạt hành chính hoặc bị truy cứu
trách nhiệm hình sự; nếu gây thiệt hại
phải bồi thường theo quy định của pháp
luật” [9].
Các cơ quan tố tụng phải thông báo
trước cho người bào chữa về thời gian và
địa điểm tiến hành các hoạt động tố tụng để
người bào chữa tham gia theo quy định
(Điều 79 BLTTHS năm 2015).
Như vậy, nhìn chung các quy định của
BLTTHS năm 2015 liên quan đến quyền
bào chữa của người bị bắt, người bị tạm giữ
về cơ bản đã phù hợp với các quy định quốc
tế về bảo đảm quyền con người trong tố
tụng hình sự.
3. Những hạn chế, bất cập trong thực tiễn
Thứ nhất, BLTTHS năm 2015 quy định
người bị buộc tội (trong đó có người bị bắt,
người bị tạm giữ) có quyền tự bào chữa
hoặc nhờ người khác bào chữa. Việc sử
dụng từ “hoặc” là chưa rõ ràng vì có thể
dẫn đến sự hiểu nhầm là người bị buộc tội
chỉ có thể chọn một trong hai hình thức bào
chữa, khi tự mình bào chữa thì sẽ không
được nhờ người khác bào chữa hoặc ngược
lại. Trong khi đó, quyền tự bào chữa và
quyền nhờ người khác bào chữa là hai nội
dung của quyền bào chữa, có mối quan hệ
tương hỗ. Điều này có nghĩa là khi bị can
nhờ người khác bào chữa cho mình thì họ
vẫn có quyền tự bào chữa và ngược lại.
Thứ hai, theo quy định của BLTTHS
năm 2015 thì người bị bắt, người bị tạm giữ
có thể tự mình bào chữa hoặc nhờ người
khác bào chữa. Nhưng trên thực tế, phần
lớn người bị bắt, người bị tạm giữ là những
người thiếu hiểu biết về pháp luật. Do đó,
ngay cả khi được giải thích đầy đủ các quy
định của pháp luật về quyền bào chữa,
người bị bắt, người bị tạm giữ cũng khó có
khả năng thực hiện việc tự bào chữa cho
mình hoặc nhờ người bào chữa trong quá
trình tố tụng hình sự. Đặc biệt, đối với
người bị bắt, người bị tạm giữ mà không có
người thân thích hoặc có người thân thích
nhưng không đủ điều kiện về năng lực dân
sự thì rất khó tiếp cận với các văn bản quy
phạm pháp luật liên quan đến hoạt động tố
tụng hình sự và trách nhiệm hình sự đối với
chính bản thân họ, cũng như khó tiếp cận
được với người bào chữa, bởi họ đang bị
cách ly.
Thứ ba, BLTTHS năm 2015 quy định
trong thời hạn 12 giờ kể từ khi nhận được
đơn yêu cầu người bào chữa của người bị
bắt, người bị tạm giữ thì cơ quan có thẩm
quyền đang quản lý người bị bắt, người bị
tạm giữ có trách nhiệm chuyển đơn này cho
người bào chữa, người đại diện hoặc người
Đỗ Khánh Ly
77
thân thích của họ. Quy định này trên thực tế
khó đảm bảo thời hạn thực hiện đối với
những khu vực vùng sâu, vùng xa, miền
núi, hải đảo... hoặc trong trường hợp phải
chuyển đơn này cho người đại diện hoặc
người thân thích của họ. Bởi vì ở những
khu vực này, việc di chuyển, đi lại rất khó
khăn do điều kiện về cơ sở hạ tầng, phương
tiện chưa đáp ứng được và thường chịu sự
ảnh hưởng, tác động của điều kiện thời tiết
(miền núi, vùng cao trời mưa có thể đi lại
rất khó khăn, khu vực hải đảo gió mạnh,
biển động thì các phương tiện vận tải không
được phép lưu thông...), nên để chuyển
được đơn đến đúng người bào chữa hay
người đại diện hoặc người thân thích của họ
đôi khi phải mất rất nhiều thời gian. Bên
cạnh đó, việc gặp đúng người đại diện hoặc
người thân thích của người bị bắt, người bị
tạm giữ đôi khi cũng không hề dễ dàng
trong thực tế, nhất là các trường hợp ở xa,
vùng sâu, vùng xa, miền núi, hải đảo....
Thứ tư, BLTTHS năm 2015 đã thay thế
thủ tục cấp giấy chứng nhận bào chữa thành
thủ tục đăng ký bào chữa làm cho thủ tục
tham gia tố tụng của người bào chữa được
rút ngắn hơn. Tuy nhiên, các thủ tục này áp
dụng trong thực tiễn hiện nay phát sinh một
số vấn đề bất cập, như: cách thức gửi thủ
tục đăng ký và nhận thông báo đăng ký bào
chữa chưa cụ thể, ảnh hưởng đến thời hạn
đăng ký và gửi thông báo đăng ký cho
người bào chữa, cũng như không thống nhất
thời gian gặp mặt giữa người bào chữa và
người được bào chữa. Hiện nay, việc gửi hồ
sơ đăng ký của người bào chữa được thực
hiện bằng hai cách: nộp trực tiếp tại trụ sở
cơ quan điều tra hoặc gửi qua đường bưu
điện. Tuy nhiên, việc nộp trực tiếp một số
trường hợp không thực hiện được do không
gặp được người tiếp nhận hồ sơ nên phải
chờ hoặc về gửi qua bưu điện. Trường hợp
gửi hồ sơ đăng ký qua đường bưu điện thì
việc tiếp nhận, chuyển giao đến cơ quan
điều tra có thẩm quyền theo đường văn thư,
hành chính mất rất nhiều thời gian, dẫn đến
cách tính thời hạn tiếp cận, cấp thông báo
đăng ký bào chữa không rõ ràng, thậm chí
kéo dài, ảnh hưởng đến thời điểm người
bào chữa tham gia tố tụng; về thủ tục, một
số nơi khi tiếp nhận đơn yêu cầu người bào
chữa thì ngoài các giấy tờ đã được quy định
trong BLTTHS 2015 thì còn đòi hỏi cung
cấp thêm các giấy tờ khác như: hợp đồng
dịch vụ pháp lý, chứng chỉ hành nghề;
thủ tục trợ giúp pháp lý hiện nay (Điều 29
Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017) còn phức
tạp. Cụ thể, để được trợ giúp pháp lý, người
bị bắt, người bị tạm giữ phải nộp các giấy
tờ có liên quan đến vụ việc trợ giúp pháp lý
mà những giấy tờ này thường chỉ được giao
cho người bị bắt, người bị tạm giữ mà
không giao cho gia đình họ nên rất khó cho
gia đình và bản thân người bị bắt, người bị
tạm giữ có thể tiếp cận được trợ giúp viên
pháp lý; đồng thời, còn phải nộp có các loại
giấy tờ chứng minh thuộc đối tượng được
hưởng trợ giúp pháp lý. Mặt khác, người bị
bắt, người bị tạm giữ hoặc gia đình họ sẽ
khó có thể tìm được người bào chữa thông
qua trợ giúp pháp lý ngay từ khi bắt đầu lấy
lời khai vì phải thực hiện một số thủ tục
hành chính để có thể có được những giấy tờ
nêu trên. Ngoài ra, một số chủ thể tiến hành
tố tụng thường ít chú trọng việc giải thích
pháp luật về trợ giúp pháp lý cho người bị
bắt, người bị tạm giữ hoặc gia đình họ,
cũng như không yêu cầu trợ giúp pháp lý
tham gia tố tụng.
Thứ năm, Điều 80 BLTTHS năm 2015
và Điều 22, Điều 34 Luật Thi hành tạm giữ,
tạm giam năm 2015 và Điều 10 Thông
Khoa học xã hội Việt Nam, số 7 - 2019
78
tư liên tịch số 01/2018/TTLT-BCA-BQP-
TANDTC-VKSNDTC ngày 23 tháng 01
năm 2018 của Bộ Công an, Bộ Quốc
phòng, Tòa án Nhân dân tối cao, Viện
Kiểm sát Nhân dân tối cao quy định về
quan hệ phối hợp giữa cơ sở giam giữ với
cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng và
viện kiểm sát có thẩm quyền kiểm sát quản
lý, thi hành tạm giữ, tạm giam thì người bị
tạm giữ, người bị tạm giam được gặp người
bào chữa theo quy định. Tuy nhiên, việc
gặp riêng giữa người bị bắt, người bị tạm
giữ với người bào chữa chưa được quy định
cụ thể, dẫn đến việc cá nhân, tổ chức có
thẩm quyền thường lúng túng khi tiếp nhận
đề nghị này từ người bào chữa và hầu như
chưa có trường hợp nào được giải quyết.
Thứ sáu, hiện nay số lượng luật sư và trợ
giúp viên pháp lý còn thiếu về số lượng và
chất lượng còn nhiều hạn chế nên người
dân khó tiếp cận với các dịch vụ pháp lý khi
có nhu cầu hoặc phải trả giá quá cao cho
các dịch vụ này. Trong nhiều vụ việc, người
dân không thể nhờ luật sư cho nên quyền và
lợi ích hợp pháp của họ không được đảm
bảo. Theo thống kê, tỷ lệ bình quân tổng số
luật sư trên tổng số dân của Việt Nam hiện
nay thấp hơn nhiều so với các nước trong
khu vực4 chủ yếu vẫn tập trung ở những
thành phố lớn như Hà Nội, Thành phố Hồ
Chí Minh, trong khi có nơi không đủ số
lượng luật sư để thành lập đoàn luật sư. Số
lượng người bào chữa cũng phân bố không
đồng đều giữa các vùng miền như hiện nay
(một số nơi không có hoặc có số lượng luật
sư và trợ giúp viên pháp lý rất ít và chỉ tập
trung tại thành phố, thị xã của tỉnh) cũng đã
gây nhiều khó khăn cho người bị bắt, người
bị tạm giữ và người đại diện hoặc thân thích
của họ cũng như khó khăn cho cơ quan tiến
hành tố tụng, người tiến hành tố tụng trong
việc lựa chọn người bào chữa.
4. Giải pháp đảm bảo quyền bào chữa
cho người bị bắt, người bị tạm giữ
Một là, tiếp tục sửa đổi, bổ sung nhằm tối
ưu hóa các quy định của BLTTHS năm
2015 về quyền bào chữa của người bị buộc
tội phù hợp với thực tiễn, nhất là về trình
tự, thủ tục đăng ký bào chữa và sự có mặt
của người bào chữa, quyền và nghĩa vụ của
người bào chữa trong các hoạt động tố tụng.
Bên cạnh đó, Tòa án Nhân dân tối cao,
Viện Kiểm sát Nhân dân tối cao, Bộ Công
an, Bộ Quốc phòng, Bộ Tư pháp cần ban
hành Thông tư liên tịch về đảm bảo quyền
bào chữa trong tố tụng hình sự, xây dựng
quy chế làm việc của người bào chữa khi
tiếp xúc với người bị bắt, người bị tạm giữ
tại nhà tạm giữ, trại tạm giam hoặc cơ sở
giam giữ khác. Ngoài ra, cần xác định trách
nhiệm của cơ quan và người tiến hành tố
tụng trong việc không thực hiện hoặc có
hành vi vi phạm pháp luật, gây khó khăn,
cản trở việc thực hiện, đảm bảo quyền bào
chữa của người bị bắt, người bị tạm giữ.
Hai là, ngoài việc tối ưu hóa luật định
phù hợp với thực tiễn cũng cần đẩy mạnh
công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật
về quyền bào chữa và nâng cao ý thức chấp
hành pháp luật cho người dân và người có
thẩm quyền tiến hành tố tụng. Việc hiểu
biết, tôn trọng và thực hiện đúng các quy
định của pháp luật về quyền bào chữa của
người bị bắt, người bị tạm giữ và gia đình
họ, cũng như từ phía cơ quan điều tra, viện
kiểm sát, tòa án là một đảm bảo quan trọng
cho việc thực hiện quyền bào chữa của
Đỗ Khánh Ly
79
người bị bắt, người bị tạm giữ. Theo đó, trại
tạm giam, nhà tạm giữ và cơ sở giam giữ
cần tạo điều kiện cho người bị bắt, người bị
tạm giữ muốn tự mình bào chữa được tiếp
xúc với các văn bản quy phạm pháp luật
liên quan. Khi thực hiện quyền bào chữa
cho người bị bắt, người bị tạm giữ thì người
có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải có
trách nhiệm giải thích đầy đủ các quy định
về quyền bào chữa và phải lập biên bản về
việc giải thích quyền và nghĩa vụ của những
người này, trong đó có quyền bào chữa và
được lưu tại hồ sơ vụ án như một quy định
bắt buộc. Để đảm bảo tốt nhất cho yêu cầu
lựa chọn người bào chữa, các đoàn luật sư,
trung tâm trợ giúp pháp lý cần có danh sách
các luật sư và trợ giúp viên pháp lý (ghi rõ
địa chỉ liên hệ, điện thoại, khái quát về năng
lực...) gửi đến các cơ sở tạm giữ, tạm giam,
được niêm yết công khai. Các cơ quan tố
tụng cần phải tạo mọi điều kiện cho người
bào chữa thực hiện tốt chức năng chuyên
trách là bào chữa. Về cá nhân người bào
chữa cần phải nhận thức và nêu cao hơn
nữa trách nhiệm của mình khi tham gia tố
tụng, không làm trì trệ hay cản trở hoạt
động tố tụng và phải bảo vệ quyền lợi cho
người bị bắt, người bị tạm giữ.
Ba là, thực hiện các biện pháp, cơ chế
khác liên quan đến người bào chữa,
như: phát triển đội ngũ người bào chữa cả
về số lượng và chất lượng. Đồng thời, có cơ
chế quy hoạch thích hợp trong việc phân bổ
hợp lý đội ngũ người bào chữa giữa các khu
vực, vùng miền; quan tâm hơn nữa về chế
độ, chính sách cho người thực hiện bào
chữa. Cần có cơ chế hỗ trợ rõ ràng đối với
từng nhóm người bào chữa ở các khu vực
khác nhau (đồng bằng, miền núi, vùng sâu
vùng xa, hải đảo) nhằm động viên
khuyến khích người bào chữa thực hiện
quyền bào chữa cho người bị bắt bị tạm giữ
trong bộ luật tố tụng hình sự.
5. Kết luận
Vấn đề bảo đảm quyền bào chữa của người
bị bắt, bị tạm giữ đã trở nên quen thuộc với
thể chế pháp luật của hầu hết các quốc gia
trên thế giới, trong đó có nước ta. Việc tìm
hiểu và nắm vững quyền bào chữa của
người bị bắt, bị tạm giữ không chỉ giúp cho
bị can, bị cáo thực hiện trọn vẹn quyền
công dân mà còn tạo nên tính công bằng
trong hoạt động xét xử và tranh tụng. Trên
cơ sở đó xây dựng một xã hội công bằng,
dân chủ, văn minh và tiến bộ.
Chú thích
2 Khoản 1, Điều 11 Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền
năm 1948 ghi: “Bị cáo về một tội hình sự được suy
đoán là vô tội cho đến khi có đủ bằng chứng phạm
pháp trong một phiên xử công khai với đầy đủ bảo
đảm cần thiết cho quyền biện hộ” [4]. Điểm b,
Khoản 3 Điều 14 Công ước Quốc tế về các quyền
Dân sự và Chính trị năm 1966 ghi: “Có đủ thời gian
và điều kiện thuận lợi để chuẩn bị bào chữa và liên
hệ với người bào chữa do chính mình lựa chọn” [5].
Khoản 1, Nguyên tắc 11 của Tập hợp các nguyên tắc
về bảo vệ tất cả những người bị giam hay bị cầm tù
dưới bất kỳ hình thức nào năm 1988 ghi: “Một
người bị giam có quyền tự bào chữa hoặc được luật
sư giúp đỡ theo quy định của pháp luật” [6] và
Nguyên tắc 13 quy định: “Bất kỳ người nào, vào lúc
bị bắt giữ và lúc bắt đầu bị giam hay bị cầm tù, hoặc
ngay sau đó, đều phải được cơ quan có thẩm quyền
chịu trách nhiệm về việc bắt giữ, giam hay cầm tù
Khoa học xã hội Việt Nam, số 7 - 2019
80
người đó cung cấp các thông tin tương ứng và giải
thích về các quyền của người đó cũng như cách tận
dụng những quyền như vậy” [6]. Khoản 1 Các
Nguyên tắc cơ bản về vai trò của luật sư năm 1990
ghi: “Mọi người đều có quyền yêu cầu sự giúp đỡ
của luật sư theo sự lựa chọn của mình nhằm thiết lập
và bảo vệ các quyền của mình đó trong mọi giai
đoạn của tố tụng hình sự” [7].
3 Điều 67 Hiến pháp đầu tiên năm 1946 của nước
Việt Nam dân chủ cộng hòa quy định quyền bào
chữa: “Người bị cáo được quyền tự bào chữa hoặc
mượn luật sư”. Những bản Hiến pháp tiếp theo mở
rộng quy định quyền bào chữa của bị can, bị cáo.
Hiến pháp năm 2013 đã mở rộng phạm vi các đối
tượng được đảm bảo quyền bào chữa, ngoài bị can,
bị cáo mới có quyền bào chữa như các bản Hiến
pháp trước đây thì ngay khi người bị bắt đã có quyền
bào chữa theo quy định tại khoản 4 Điều 31: “Người
bị bắt, tạm giữ, tạm giam, khởi tố, điều tra, truy tố,
xét xử có quyền tự bào chữa, nhờ luật sư hoặc người
khác bào chữa” [8].
4 Theo thống kê năm 2013, bình quân 1 luật sư phải
phục vụ hơn 14.000 dân; trong khi tỷ lệ này tại
Singapore là 1/1.000 dân, Thái Lan là 1/1.526 dân,
Nhật Bản là 1/1.546 dân. Đó là chưa nói số luật sư ở
Việt Nam chỉ tập trung ở hai thành phố lớn là Hà
Nội (1.630 luật sư) và Thành phố Hồ Chí Minh
(2.880 luật sư); các tỉnh thành khác số luật sư chỉ
khoảng 3-5 người [12].
Tài liệu tham khảo
[1] Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, Tòa án Nhân dân
tối cao, Viện Kiểm sát Nhân dân tối cao
(2018), Thông tư liên tịch số 01/2018/TTLT-
BCA-BQP-TANDTC-VKSNDTC ngày 23 tháng
01 quy định về quan hệ phối hợp giữa cơ sở
giam giữ với cơ quan có thẩm quyền tiến hành
tố tụng và viện kiểm sát có thẩm quyền kiểm
sát quản lý, thi hành tạm giữ, tạm giam,
Hà Nội.
[2] Hà Thái Thơ, Huỳnh Xuân Tình (2016), “Đảm
bảo quyền bào chữa theo quy định của Hiến
pháp 2013 và Bộ luật tố tụng hình sự 2015”,
Tạp chí Lý luận chính trị, số 7.
[3] Liên đoàn Luật sư Việt Nam (2019), Công văn
số 02/LĐLSVN ngày 04 tháng 01 về việc góp ý
dự thảo Thông tư của Bộ Công an quy định về
trách nhiệm của lực lượng Công an nhân dân
trong việc bảo đảm thực hiện các quy định của
BLTTHS liên quan đến quyền bào chữa, bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp, Hà Nội.
[4] Liên Hợp Quốc (1948), Tuyên ngôn Quốc tế về
Nhân quyền, Paris, Pháp.
[5] Liên Hợp Quốc (1966), Công ước Quốc tế về
các quyền Dân sự và Chính trị, New York.
[6] Liên Hợp Quốc (1988), Các nguyên tắc về bảo
vệ tất cả những người bị giam hay bị cầm tù
dưới bất kỳ hình thức nào, New York.
[7] Liên Hợp Quốc (1990), Các nguyên tắc cơ bản
về vai trò của Luật sư, Cuba
[8] Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam (2013), Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia
Sự thật, Hà Nội.
[9] Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam (2015), Bộ luật tố tụng hình sự, Nxb
Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội
[10] Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam (2015), Luật Thi hành tạm giữ, tạm giam,
Nxb Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội.
[11] Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam (2017), Luật Trợ giúp pháp lý, Nxb
Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.
[12] https://www.thesaigontimes.vn/Home/xahoi/
doisong/103173/Ty-le-luat-su-tren-dan-so-cua-
Viet-Nam-thap.html.
Đỗ Khánh Ly
81
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- quyen_bao_chua_cua_nguoi_bi_bat_nguoi_bi_tam_giu_theo_bo_lua.pdf