Định hướng tăng cường bảo đảm các
thủ tục công bằng trong áp dụng biện
pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc
nhằm tiệm cận các tiêu chuẩn của tố tụng
hình sự
Biện pháp cưỡng chế cai nghiện không
hoàn toàn là thủ tục tố tụng hình sự, dân sự,
hoặc hành chính mà "lai" giữa các loại với
nhau. Tính cưỡng chế gần với hình phạt tù;
còn thủ tục giống với phiên tòa rút gọn; tranh
tụng giống tố tụng hình sự và dân sự .14.
Do đó, việc "tư pháp hóa" thủ tục này là tất
yếu và Nhà nước cần thừa nhận các chuẩn
mực của trình tự công bằng và nguyên tắc
tiến bộ trong lĩnh vực này để đảm quyền của
người bị đề nghị, tránh những vi phạm tố
tụng để phán quyết của Tòa án nhân danh
Nhà nước được các chủ thể trong xã hội tôn
trọng, là biểu hiện của công lý, lẽ công bằng.
Nhà nước cần thiết lập các cơ chế
pháp lý chặt chẽ và khoa học để các nguyên
tắc và các quy định trong hoạt động xét xử
được tuân thủ, chấp hành và áp dụng một
cách nghiêm chỉnh, thống nhất và triệt để.
- Cần thiết sửa đổi Luật Xử lý vi phạm
hành chính năm 2012 và Pháp lệnh số 09
theo hướng ghi nhận thủ tục áp dụng biện
pháp cai nghiện bắt buộc là thủ tục tố tụng
và mở rộng phạm vi của Pháp lệnh số 09
đối với cả giai đoạn lập hồ sơ đề nghị. Việc
đưa người nghiện ma túy không có nơi cư
trú nhất định vào lưu trú tạm thời tại các cơ
sở xã hội trong giai đoạn chờ quyết định
của Tòa án bắt buộc phải do Tòa án quyết
định bởi nó đã tước bỏ tự do của con người
(bắt, tạm giữ) khi chưa có phán quyết nào.
Toàn bộ quy trình từ lập hồ sơ đến Tòa án
giải quyết hồ sơ và đi chấp hành quyết định
cưỡng chế cai nghiện phải tuân thủ trình tự
công bằng.
8 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 20/01/2022 | Lượt xem: 249 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Quyền của người bị đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc: Thực trạng và kiến nghị, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
QUYỀN CỦA NGƯỜI BỊ ĐỀ NGHỊ ÁP DỤNG BIỆN PHÁP ĐƯA VÀO
CƠ SỞ CAI NGHIỆN BẮT BUỘC: THỰC TRẠNG VÀ KIẾN NGHỊ1
1 Bài viết thể hiện kết quả nghiên cứu của luận văn thạc sĩ: Ninh Viết Tùng, “Bảo đảm quyền con người trong việc áp
dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc – Từ thực tiễn thành phố Hòa Bình, tỉnh Hòa Bình” (Luận văn thạc sĩ
luật học - chuyên ngành Luật Hiến pháp và Luật Hành chính định hướng nghiên cứu; Người hướng dẫn khoa học: TS.
Bùi Tiến Đạt; hoàn thành năm 2019 tại Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội). Nghiên cứu này được hỗ trợ thực hiện
trong khuôn khổ Đề tài nghiên cứu cơ bản của Quỹ Phát triển khoa học và công nghệ quốc gia NAFOSTED: “Nguyên
tắc thủ tục pháp lý chặt chẽ và vai trò bảo vệ quyền con người ở Việt Nam” (Mã số: 505.01-2018.300).
Tóm tắt:
Biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc ảnh hưởng lớn tới
quyền tự do cá nhân và tiềm ẩn nguy cơ xâm phạm quyền con
người và lạm quyền từ phía các cơ quan nhà nước. Việc đảm bảo
quyền con người của người nghiện ma túy không chỉ bảo vệ quyền
cá nhân tại cơ sở cai nghiện mà còn phải bảo đảm thủ tục công
bằng trong việc đưa người nghiện đi cai nghiện bắt buộc. Biện
pháp cưỡng chế cai nghiện này mang tính chất pha trộn giữa các
loại hình tố tụng tư pháp. Tính cưỡng chế gần với hình phạt tù, thủ
tục giống với phiên tòa rút gọn và tranh tụng giống tố tụng hình sự
và dân sự. Do đó, việc "tư pháp hóa" thủ tục này là tất yếu và Nhà
nước cần thừa nhận các chuẩn mực của trình tự công bằng để đảm
bảo quyền của người bị đề nghị và ngăn ngừa vi phạm tố tụng.
Ninh Viết Tùng*
Bùi Tiến Đạt**
* ThS. Tòa án nhân dân thành phố Hòa Bình, tỉnh Hòa Bình.
** TS. Khoa Luật - Đại học quốc gia Hà Nội.
Abstract:
The compulsory measure for drug rehabilitation affects to the
individual freedom significantly and poses a risk of human rights
violation and abuse of powers. Guarantee of the rights of drug-
addicted persons is not only the protection of individual rights in the
drug rehabilitation centre, but also the guarantee of fair procedures
in the application of compulsory measure for drug rehabilitation.
This coercive measure for drug rehabilitation is characterised as a
combined type of the judicial proceedings. Its coercion resembles
somewhat known as imprisonment, its procedure is comparable to
a simplified trial and the litigation procedures are somewhat like
the criminal and civil proceedings. Therefore, the "legalization"
of this procedure is indispensable and the it is needed to recognize
the standards of the fair process for the sake of protection of drug-
addicted persons’ rights and prevention of procedural violations..
Thông tin bài viết:
Từ khóa: Thủ tục công bằng, quyền thủ
tục, cơ sở cai nghiện bắt buộc, tòa án, tư
pháp hóa.
Lịch sử bài viết:
Nhận bài : 13/11/2019
Biên tập : 26/11/2019
Duyệt bài : 28/11/2019
Article Infomation:
Keywords: fair procedure, due process,
procedural rights, drug rehabilitation
centre, court, judicialisation.
Article History:
Received : 13 Nov. 2019
Edited : 26 Nov. 2019
Approved : 28 Nov. 2019
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
25Số 23(399) T12/2019
1. Biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ
sở cai nghiện bắt buộc: tiếp cận từ góc độ
giới hạn quyền con người
Lý do chính đáng của biện pháp đưa
vào cơ sở cai nghiện bắt buộc
Trong bối cảnh Việt Nam, nhìn một
cách toàn diện về biện pháp cưỡng chế cai
nghiện trong mối tương quan quản lý nhà
nước và bảo đảm quyền con người sẽ thấy
được sự cần thiết của biện pháp này và đồng
thời thấy được nhu cầu hoàn thiện pháp luật
về tính công bằng, về quyền thủ tục trong
cưỡng chế cai nghiện để đảm bảo mục đích
chữa bệnh và ngăn ngừa vi phạm pháp luật2.
Như vậy, nghiện ma túy được coi là hành vi
gây mất an ninh, trật tự, an toàn xã hội hoặc
đe dọa xâm hại đến an ninh, trật tự. Khi rơi
vào trạng thái "nghiện", người nghiện ma
túy có thể làm bất cứ điều gì, kể cả vi phạm
pháp luật để đạt được mục đích thỏa mãn
nhu cầu sử dụng ma túy của bản thân. Việc
để người nghiện ma túy ngoài cộng đồng
mà không được chữa trị, cai nghiện sẽ gây
nhiều khó khăn trong quản lý hành chính,
ảnh hưởng xấu tới cộng đồng.
Biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện
bắt buộc là một biện pháp cưỡng chế hành
chính đặc biệt3 được ghi nhận lần đầu
trong Nghị quyết số 49-NQ/TVQH ngày
20/6/1961 của Ủy ban thường vụ Quốc hội
về việc tập trung cải tạo những phần tử có
nguy hại cho xã hội. Đối với những người có
hành động phương hại đến an ninh chung,
những phần tử lưu manh chuyên nghiệp dù
2 Theo khoản 3 Điều 2 của Luật Xử lý vi phạm hành chính 2012: “Biện pháp xử lý hành chính là biện pháp được áp dụng
đối với cá nhân vi phạm pháp luật về an ninh, trật tự, an toàn xã hội mà không phải là tội phạm, bao gồm biện pháp giáo
dục tại xã, phường, thị trấn; đưa người vào trường giáo dưỡng, đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc và đưa vào cơ sở cai
nghiện bắt buộc”.
Theo khoản 1 Điều 96 của Luật Xử lý vi phạm hành chính 2012: “Đối tượng áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai
nghiện bắt buộc là người nghiện ma túy từ đủ 18 tuổi trở lên đã bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn
mà vẫn còn nghiện hoặc chưa bị áp dụng biện pháp này nhưng không có nơi cư trú ổn định”.
3 Thuật ngữ “biện pháp cưỡng chế hành chính đặc biệt” được sử dụng tại: Nguyễn Cửu Việt, Giáo trình Luật Hành chính
Việt Nam, Nxb. Chính trị Quốc gia, 2008, tr. 280.
4 Đoạn 2, Điều 2, Nghị quyết số 49-NQ/TVQH ngày 20/6/1961 về việc tập trung cải tạo những phần tử có nguy hại cho
xã hội.
5 Khoản 1, Điều 96 Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012.
đã được giáo dục nhiều lần mà không chịu
hối cải, nhưng xét không cần đưa ra Tòa án
nhân dân xử phạt sẽ phải đi giáo dục, cải tạo
trong thời hạn 03 năm hoặc lâu hơn. Những
người được giáo dục cải tạo không bị coi
như phạm nhân có án phạt tù, nhưng trong
thời gian giáo dục cải tạo không được hưởng
quyền công dân4. Sau đó, Chỉ thị số 14-CT
ngày 16/01/1986 của Chủ tịch Hội đồng Bộ
trưởng về các biện pháp giải quyết vấn đề
cứu tế xã hội và tệ nạn xã hội có chỉ đạo Bộ
Nội vụ đưa đi tập trung cải tạo hoặc lao động
bắt buộc với “những người có sức lao động
mà không chịu lao động, chuyên làm việc
bất chính, những tên nghiện hút”. Điều 29
Luật Bảo vệ sức khỏe nhân dân năm 1989
cũng có quy định về biện pháp bắt buộc
chữa bệnh với bệnh nghiện ma túy. Đây có
thể được coi là những quy định pháp luật
ban đầu cho việc áp dụng biện pháp cưỡng
chế cai nghiện tại Việt Nam.
Theo pháp luật hiện hành, việc đưa
vào cơ sở cai nghiện bắt buộc được áp dụng
với (1) người “nghiện ma túy” từ đủ 18 tuổi
trở lên đã bị áp dụng biện pháp giáo dục tại
xã, phường, thị trấn mà vẫn còn nghiện hoặc
(2) chưa bị áp dụng biện pháp này nhưng
không có nơi cư trú ổn định5.
Những người bị lập hồ sơ đề nghị
đi cai nghiện bắt buộc đều là những người
thường xuyên sử dụng ma túy, đã từng nhiều
lần gây ra những vi phạm pháp luật ở địa
phương, đã được gia đình và chính quyền
động viên, áp dụng nhiều hình thức, phương
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
26 Số 23(399) T12/2019
pháp cai nghiện khác nhau nhưng họ vẫn
tiếp tục lén lút sử dụng ma túy. Các biện
pháp giáo dục, thuyết phục không còn hiệu
quả buộc Nhà nước phải sử dụng biện pháp
cưỡng chế. Qua việc cai nghiện bắt buộc có
thời hạn, Nhà nước sẽ cách ly người nghiện
ma túy khỏi những nguồn cung ma túy và áp
dụng liệu trình cai nghiện, đồng thời hạn chế
nguy cơ người nghiện ma túy thực hiện các
hành vi vi phạm pháp luật có nguyên nhân
từ ma túy như trộm cắp tài sản, cố ý gây
thương tích, mua bán, tàng trữ trái phép chất
ma túy, mua bán dâm, gây rối trật tự công
cộng và lây truyền HIV/AIDS.
Đối chiếu với các điều kiện căn bản
của giới hạn quyền con người (gồm trật tự
công cộng, sức khỏe của cộng đồng, đạo đức
cộng đồng, an ninh quốc gia, an toàn công
cộng, các quyền và tự do của người khác
đã nêu), có thể thấy Nhà nước hoàn toàn có
cơ sở chính đáng và quyền hạn để giới hạn
quyền con người thông qua việc áp dụng
biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện ma túy
bắt buộc6.
Bên cạnh đó, biện pháp cai nghiện bắt
buộc cũng mang tính nhân văn, nhằm giúp
người nghiện có thời gian tránh xa ma túy,
vượt qua chính mình và nhận thức được
tác hại của sự lệ thuộc vào ma túy. Đồng
thời, cung cấp cho họ các kỹ năng sống, kỹ
năng nghề nghiệp để tìm việc làm, ổn định
cuộc sống; thể hiện rõ quyền được hưởng
chế độ bảo vệ sức khỏe của nhân dân trong
Hiến pháp.
Nguy cơ xâm phạm quyền cá nhân
trong biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện
bắt buộc và nhu cầu phòng ngừa
Ngay từ Nghị quyết số 49-NQ/TVQH,
Nhà nước ta cũng nhận thấy cần phải có
những đảm bảo tuân thủ pháp luật khi ban
hành quyết định cải tạo, giáo dục, tránh tùy
tiện, vô pháp nên tại mục 5 của Nghị quyết
6 Xem Điều 29 UDHR và Điều 4 ICESCR.
7 Điều 14 Nghị định 221/2013/NĐ-CP ngày 30/12/2013 quy định chế độ áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ
sở cai nghiện bắt buộc.
có quy định Viện Kiểm sát nhân dân có trách
nhiệm kiểm sát việc tuân theo đúng pháp luật
của Ủy ban hành chính, cơ quan Công an và
cơ quan phụ trách giáo dục cải tạo trong việc
quyết định tập trung giáo dục cải tạo và chấp
hành các chế độ giáo dục cải tạo.
Biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện
bắt buộc ảnh hưởng không nhỏ tới quyền
tự do về thân thể của người nghiện ma túy
khi họ phải sống trong môi trường biệt lập,
bị giới hạn quyền tự do đi lại, cư trú, phải
chấp hành chế độ ăn uống, ở, mặc, sinh hoạt,
chăm sóc y tế theo quy định của Nhà nước.
Trong thời gian chịu sự cưỡng chế, họ được
đặt dưới sự giám sát, quản lý chặt chẽ của
cơ quan hành chính nhà nước (các cơ sở cai
nghiện ma túy bắt buộc).
Riêng đối với người nghiện ma túy
không có nơi cư trú ổn định, họ sẽ được
giao cho tổ chức xã hội quản lý (thực chất
là các "Khu xã hội" tại cơ sở cai nghiện ma
túy) trong thời gian chờ quyết định của Tòa
án7. Đây thực chất là một dạng “tạm giữ hành
chính, bắt buộc chữa bệnh” để chờ phán quyết
của Tòa án. Tương tự như việc bị tạm giam bị
can chờ xét xử trong các vụ án hình sự.
Mặc dù là một biện pháp xử lý hành
chính được quy định trong Luật Xử lý vi
phạm hành chính nhưng biện pháp cưỡng
chế cai nghiện mang nhiều đặc điểm của
biện pháp tư pháp hình sự hơn là biện pháp
cưỡng chế bởi tính chất trừng phạt, khắc
nghiệt không thua kém các biện pháp hình
sự, hậu quả đối với tự do cá nhân mà người
nghiện ma túy phải đối diện khi đi cai nghiện
bắt buộc nặng nề hơn các biện pháp cưỡng
chế vi phạm hành chính thông thường.
Phân tích trên cho thấy, biện pháp
cưỡng chế cai nghiện có những ảnh hưởng
không nhỏ tới các quyền tự do cá nhân, tiềm
ẩn nguy cơ xâm phạm quyền con người hoặc
lạm quyền từ phía các cơ quan nhà nước.
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
27Số 23(399) T12/2019
Một nguyên lý được pháp luật quốc tế đặt ra
là ở đâu mà nhà nước có thể tước đoạt tính
mạng, tự do và tài sản (hay nói cách khác là
tước đoạt một quyền nào đó) của cá nhân,
nơi đó phải áp dụng trình tự công bằng8.
Đứng dưới góc độ quyền con người, những
thủ tục, dù là rườm rà, phiền toái, lại chính là
lá chắn bảo đảm quyền con người không bị
vi phạm và ngăn chặn những vi phạm đó từ
phía những người thực thi công quyền9. Xã
hội chỉ quan tâm tới kết quả người nghiện
phải đi cai nghiện trong bao lâu chứ không
quan tâm tới quy trình, thủ tục để đưa một
người đi cai nghiện bắt buộc là như thế nào,
có ảnh hưởng gì tới quyền lợi của họ không.
Trái lại, “công lý theo thủ tục” không quan
tâm đến kết quả mà chỉ quan tâm đến vấn đề
tiến trình10. Việc đảm bảo quyền con người
của người nghiện ma túy sẽ không chỉ dừng
lại ở việc đảm bảo quyền con người tại cơ
sở cai nghiện mà còn phải xem xét, bảo đảm
cả ở quá trình, thủ tục, trình tự đưa người
nghiện đi cai nghiện bắt buộc. Điều đó đòi
hỏi phải có một thủ tục công bằng, tính vô
tư khách quan của cơ quan ra phán quyết,
minh bạch thủ tục pháp lý, tôn trọng tự do
cá nhân, quyền bình đẳng trước pháp luật.
2. Đánh giá việc bảo đảm quyền thủ tục
của người bị đề nghị áp dụng biện pháp
đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc
Trước Pháp lệnh 09/201411: nhiều
quyền trong thủ tục cưỡng chế cai nghiện
không được ghi nhận hoặc đã ghi nhận
nhưng không có cơ chế thực hiện hiệu quả
Trước năm 2014 (thời điểm), quá trình
thực hiện các thủ tục để đưa người đi cai
8 Bùi Tiến Đạt, Công lý thủ tục – lý luận, kinh nghiệm quốc tế và pháp luật Việt Nam, trong sách: Đào Trí Úc - Vũ Công
Giao đồng chủ biên, Công lý và quyền tiếp cận công lý, Nxb. Hồng Đức, 2018, tr. 65; Bùi Tiến Đạt, Học thuyết trình
tự công bằng và việc bảo vệ quyền con người: Kinh nghiệm quốc tế và Việt Nam, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số
11/2015.
9 Pouvoir legislative et Pouvour jurisdictionnel en France-Paris, 1993, p. 131-132 (trích lại theo: Đào Trí Úc, Giáo trình
nhà nước pháp quyền, Nxb. ĐHQGHN, năm 2015, tr. 182).
10 Nguyễn Đăng Dung, Nhà nước pháp quyền và quy trình chuẩn, trong cuốn Bảo đảm quyền con người trong hoạt động
tố tụng, Vũ Công Giao – Đinh Ngọc Thắng chủ biên, Nxb. ĐHQGHN 2019, tr.15.
11 Pháp lệnh 09/2014/UBTVQH13 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về trình tự, thủ tục xem xét, quyết định áp dụng các
biện pháp xử lý hành chính tại Tòa án nhân dân.
nghiện bắt buộc chưa thực sự bảo đảm và
coi trọng quyền con người. Trong giai đoạn
này gần như không có sự tham gia của người
nghiện ma túy trong suốt quá trình các cơ
quan nhà nước chuẩn bị các thủ tục, hồ sơ
đề nghị đối với họ. Người nghiện phải đối
mặt với sự mặc cảm, xa lánh từ xã hội và
từ các cơ quan nhà nước. Rất nhiều quyền
trong thủ tục cưỡng chế cai nghiện không
được ghi nhận hoặc không có cơ chế để thực
hiện, như phân tích dưới đây.
- Không ghi nhận quyền của người bị
đề nghị (người nghiện ma túy) được tham
gia vào việc lập hồ sơ đề nghị cai nghiện
bắt buộc.
Cơ quan lập hồ sơ không phải thông
báo cho người bị áp dụng về việc lập hồ sơ
để những người này đọc hồ sơ và ghi chép
các nội dung cần thiết. Luật Xử lý vi phạm
hành chính năm 2012 có cho phép người
bị đề nghị được quyền đọc và ghi chép các
nội dung cần thiết trong thời hạn 05 ngày
kể từ ngày nhận được thông báo (khoản
3 Điều 103) nhưng không quy định người
nghiện được phép sao chụp hồ sơ. Trường
hợp họ không biết đọc, biết viết thì cũng
không thể tiếp cận các tài liệu có trong hồ
sơ. Luật cũng chỉ cho phép được ghi chép
các nội dung cần thiết trong khi không chỉ
rõ nội dung nào là cần thiết nên thực tế
người nghiện ma túy hầu như không được
thực hiện quyền này.
- Không cho phép người bị đề nghị
tham gia cuộc họp của Hội đồng tư vấn và
phát biểu ý kiến của mình về việc áp dụng
biện pháp xử lý hành chính.
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
28 Số 23(399) T12/2019
Cuộc họp của Hội đồng tư vấn chỉ
có Trưởng phòng Lao động – Thương binh
và Xã hội, Trưởng phòng Tư pháp, Trưởng
Công an, Chủ tịch Hội phụ nữ cấp huyện
mà không hề có sự tham gia của người bị
đề nghị đưa đi cai nghiện hoặc người bảo vệ
quyền lợi cho họ. Việc ban hành quyết định
cưỡng chế cai nghiện được thực hiện đơn
phương, “khép kín” trong nội bộ cơ quan
hành chính; người nghiện không có quyền
tham gia và phát biểu ý kiến, không được
tranh tụng, tự biện giải về việc vi phạm của
mình, không được nhờ luật sư tham gia để
bảo vệ quyền lợi cho họ.
- Sự tham gia của thành viên Hội đồng
tư vấn mang tính hình thức.
Việc tham gia họp Hội đồng tư vấn
chủ yếu là cấp phó của người đứng đầu tham
gia do cấp trưởng uỷ quyền, thậm chí nhiều
khi việc tham gia do cấp phòng của các cơ
quan này tham dự; Chủ tịch UBND xem xét
ra quyết định trên cơ sở hồ sơ được gửi đến
mà không có sự gặp gỡ, trao đổi
- Việc khiếu nại Quyết định cưỡng chế
cai nghiện kéo dài, kém hiệu quả.
Người bị áp dụng biện pháp đưa vào
cơ sở chữa bệnh được quyền khiếu nại hoặc
khởi kiện ra trước tòa hành chính đối với
quyết định cưỡng chế cai nghiện12. Tuy
nhiên, trình tự khởi kiện hành chính, thu
thập chứng cứ đối với người nghiện ma túy
không đơn giản, dễ dàng. Việc khởi kiện ra
Tòa hành chính thường bị kéo dài và kém
hiệu quả.
- Việc áp dụng biện pháp cai nghiện
bắt buộc do Chủ tịch UBND các cấp quyết
định là quyết định mang tính mệnh lệnh
hành chính.
12 Điều 118, 119 Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính 2002.
13 Bao gồm: cơ quan Công an (khi phát hiện hành vi sử dụng trái phép chất ma túy, lấy lời khai, lập hồ sơ), chính quyền
địa phương (cấp xã, phường khi được giao quản lý, giáo dục người nghiện ma túy), phòng lao động – thương binh và xã
hội cấp huyện (cơ quan đề nghị), phòng tư pháp cấp huyện (cơ quan thẩm định tính hợp pháp của hồ sơ), Tòa án nhân
dân cấp huyện (cơ quan xem xét hồ sơ) và Công an cấp huyện, cơ sở cai nghiện ma túy (cơ quan thi hành quyết định
của Tòa án).
Hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp cai
nghiện bắt buộc do các cơ quan hành chính
lập và quyết định việc đưa người đi cai
nghiện bắt buộc cũng do cơ quan hành chính
quyết định, chưa thật phù hợp với quan điểm
của Luật Nhân quyền quốc tế. Việc ban hành
quyết định bị hành chính hóa và có xu hướng
bỏ qua các quyền được xét xử công bằng.
“Tư pháp hóa” thủ tục
Với các quy định hiện hành của Luật
Xử lý vi phạm hành chính năm 2012, Pháp
lệnh 09 và các Nghị quyết của Hội đồng
Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, các
Nghị định hướng dẫn của Chính phủ đã cho
thấy những điểm mới căn bản, những thay
đổi tiến bộ để đảm bảo việc đưa người vào
cơ sở cai nghiện ma túy bắt buộc được tiến
hành chặt chẽ, khách quan, công bằng, đảm
bảo quyền con người so với các quy định
trước đây.
Theo Pháp lệnh số 09 và những phân
tích nêu trên cho thấy, thủ tục cai nghiện bắt
buộc đã được thực hiện theo trình tự, thủ tục
tư pháp rút gọn13. Tính ưu việt của thủ tục tư
pháp so với thủ tục hành chính trong việc áp
dụng các biện pháp xử lý hành chính khác
thể hiện chủ yếu ở các điểm cơ bản như:
- Chủ thể phán xét về hành vi vi phạm
là Tòa án thông qua hoạt động xét xử công
khai, có sự tranh tụng giữa hai bên (trong
khi đó đối với thủ tục hành chính thì bên
phát hiện hành vi vi phạm hành chính cũng
là người xem xét xử lý vi phạm);
- Thủ tục xử lý được thực hiện theo
các nguyên tắc hoạt động đặc thù của Tòa
án như: nguyên tắc độc lập xét xử, nguyên
tắc xét xử tập thể và quyết định theo đa số;
nguyên tắc tranh tụng công khai, bình đẳng.
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
29Số 23(399) T12/2019
- Đặc trưng thủ tục tư pháp của Tòa án
là tính nghiêm ngặt, chặt chẽ, bắt buộc về quy
trình trong giải quyết các loại vụ việc. Điều
này khác hẳn với các thủ tục hành chính khi
đề cao tính linh hoạt, tinh gọn, hiệu quả, giảm
bớt các quy trình. Bằng việc đặt ra luật thủ
tục, người ta đã buộc Tòa án phải hoạt động
đúng mục đích, bảo vệ quyền con người, bảo
vệ an ninh, trật tự xã hội, giới hạn sự lạm
quyền của những người nắm quyền tư pháp.
- Phán quyết của Tòa án nhân danh
Nhà nước, do vậy việc bảo đảm hiệu lực
thi hành sẽ cao hơn so với quyết định của
cơ quan hành chính nhà nước.
- Khắc phục tối đa sự can thiệp trái
pháp luật của các chủ thể khác trong quá
trình xử lý (như sự can thiệp của cơ quan
hành chính cấp trên, của những người liên
quan...).
- Có nhiều cơ chế giám sát độc lập với
Tòa án hơn như giám sát của Tòa án nhân
dân cấp trên, của Viện kiểm sát nhân dân,
của cơ quan dân cử, của nhân dân...).
- Trách nhiệm của Thẩm phán trong
việc quyết định áp dụng biện pháp cưỡng
chế cai nghiện của Thẩm phán được đề cao.
Nếu quyết định ban hành bị hủy, sửa bị cấp
phúc thẩm hủy, sửa sẽ ảnh hưởng tới trách
nhiệm cá nhân của Thẩm phán.
Như vậy, nước ta đã nhận thấy rõ hai
vấn đề: một là, nghiện ma túy là một dạng
bệnh lý cần chữa trị; hai là, việc áp dụng
biện pháp cưỡng chế cai nghiện cần tuân
theo thủ tục tư pháp và do Tòa án quyết định.
Mỗi khâu, mỗi con người nếu không thi
hành đúng nhiệm vụ một cách công minh,
khách quan đều tiềm ẩn nguy cơ lạm dụng
quyền lực, tạo ra sự bất bình đẳng giữa các
bên trong quan hệ pháp lý, gây ảnh hưởng
tới quyền của người nghiện mà sau này sẽ bị
hạn chế bởi quyết định của Tòa án.
Người bị đề nghị đưa đi cai nghiện bắt
buộc là những người yếu thế trong mối quan
hệ pháp lý với một bên là các cơ quan nhà
nước, người có thẩm quyền giải quyết hồ
sơ đề nghị. Họ khó có khả năng bình đẳng
với bên đề nghị và Tòa án trong việc chứng
minh, thu thập chứng cứ và trình bày chứng
cứ và cũng không dễ dàng tiếp cận các dịch
vụ trợ giúp pháp lý như thuê luật sư và tìm
hiểu các quy định của pháp luật, các thủ tục
pháp lý. Do đó, họ rất cần những đảm bảo để
có được sự công bằng.
Những hạn chế của thủ tục cưỡng
chế cai nghiện hiện hành trong đảm bảo
quyền con người hiện nay
Từ phía các quy định của pháp luật
- Thời hạn giải quyết hồ sơ ngắn không
đảm bảo cho việc Tòa án tống đạt văn bản
đến tận tay người nghiện ma túy, ảnh hưởng
tới việc nghiên cứu hồ sơ của Thẩm phán và
kiểm sát viên.
- Việc xây dựng hồ sơ chưa đầy đủ,
chưa thu thập hết các tình tiết tăng nặng,
giảm nhẹ, chứng minh nhân thân người bị
đề nghị. Thực tế hiện nay trong bản tóm tắt
lý lịch trong hồ sơ đề nghị chỉ nêu người
bị đề nghị có mấy tiền án, mấy tiền sự mà
không cụ thể về hành vi, tội phạm gì, tài liệu
nào chứng minh.
- Thiếu các chứng cứ để đánh giá tình
trạng nghiện ma túy làm căn cứ quyết định
thời gian cai nghiện phù hợp. Hồ sơ đề nghị
hiện chỉ có phiếu trả lời kết quả dương tính
với ma túy mà không phản ánh được tình
trạng nghiện ma túy của người bị đề nghị.
Đây là tình tiết rất quan trọng để tạo ra sự
công bằng giữa những người nghiện ma túy
về thời gian cai nghiện bắt buộc bị áp dụng.
Từ phía Tòa án, Thẩm phán trong quá
trình giải quyết hồ sơ
- Tòa án thường có xu hướng bảo vệ
lợi ích của Nhà nước hơn. Trong mối quan
hệ giữa các chủ thể trong thủ tục áp dụng
biện pháp cưỡng chế cai nghiện, Tòa án
thường có xu hướng bảo vệ lợi ích của Nhà
nước hơn. Điều đó thể hiện ở việc Tòa án
tôn trọng các tài liệu, chứng cứ đã có trong
hồ sơ để quyết định áp dụng hay không áp
dụng biện pháp cai nghiện bắt buộc, ít khi
yêu cầu cầu các tài liệu phải tuân thủ thuộc
tính chứng cứ như trong tố tụng hình sự hoặc
tố tụng dân sự.
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
30 Số 23(399) T12/2019
- Có sự chênh lệch trong xác định thời
hạn cai nghiện bắt buộc giữa các Thẩm phán.
Việc đưa ra thời hạn cai nghiện chủ yếu là để
cách ly người nghiện khỏi ma túy càng lâu
càng tốt chứ chưa thực sự quan tâm đúng
mức tới việc người nghiện cần bao nhiêu
thời gian để cai nghiện, ổn định sức khỏe,
học nghề và quay trở lại thành công dân có
ích. Các Thẩm phán chủ yếu phụ thuộc vào
hồ sơ và đề nghị của cơ quan đề nghị chứ
chưa nắm rõ tình trạng nghiện, thời gian
cai nghiện cần thiết là bao lâu nên còn tùy
nghi khi đưa ra thời gian cai nghiện với từng
vụ việc.
Từ phía người bị đề nghị
Người nghiện ma túy không tham gia
vào quá trình lập hồ sơ, không hiểu biết các
quyền và nghĩa vụ của mình. Ngay từ khi lập
hồ sơ, người nghiện ma túy đã biết việc họ
chuẩn bị đi cai nghiện bắt buộc nên thường
có tâm lý trốn tránh, không hợp tác nên cũng
không biết trong hồ sơ có những tài liệu gì,
các tài liệu đó có hợp pháp không, đã có các
tình tiết giảm nhẹ hay chưa.
3. Định hướng tăng cường bảo đảm các
thủ tục công bằng trong áp dụng biện
pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc
nhằm tiệm cận các tiêu chuẩn của tố tụng
hình sự
Biện pháp cưỡng chế cai nghiện không
hoàn toàn là thủ tục tố tụng hình sự, dân sự,
hoặc hành chính mà "lai" giữa các loại với
nhau. Tính cưỡng chế gần với hình phạt tù;
còn thủ tục giống với phiên tòa rút gọn; tranh
tụng giống tố tụng hình sự và dân sự.14.
Do đó, việc "tư pháp hóa" thủ tục này là tất
yếu và Nhà nước cần thừa nhận các chuẩn
mực của trình tự công bằng và nguyên tắc
tiến bộ trong lĩnh vực này để đảm quyền của
người bị đề nghị, tránh những vi phạm tố
tụng để phán quyết của Tòa án nhân danh
Nhà nước được các chủ thể trong xã hội tôn
14 Bùi Tiến Đạt: Công lý thủ tục – lý luận, kinh nghiệm quốc tế và pháp luật Việt Nam, trong sách: Đào Trí Úc - Vũ Công
Giao đồng chủ biên, “Công lý và quyền tiếp cận công lý”, Nxb. Hồng Đức, 2018, tr.57.
15 Tương tự như với biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng, đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc.
trọng, là biểu hiện của công lý, lẽ công bằng.
Nhà nước cần thiết lập các cơ chế
pháp lý chặt chẽ và khoa học để các nguyên
tắc và các quy định trong hoạt động xét xử
được tuân thủ, chấp hành và áp dụng một
cách nghiêm chỉnh, thống nhất và triệt để.
- Cần thiết sửa đổi Luật Xử lý vi phạm
hành chính năm 2012 và Pháp lệnh số 09
theo hướng ghi nhận thủ tục áp dụng biện
pháp cai nghiện bắt buộc là thủ tục tố tụng
và mở rộng phạm vi của Pháp lệnh số 09
đối với cả giai đoạn lập hồ sơ đề nghị. Việc
đưa người nghiện ma túy không có nơi cư
trú nhất định vào lưu trú tạm thời tại các cơ
sở xã hội trong giai đoạn chờ quyết định
của Tòa án bắt buộc phải do Tòa án quyết
định bởi nó đã tước bỏ tự do của con người
(bắt, tạm giữ) khi chưa có phán quyết nào.
Toàn bộ quy trình từ lập hồ sơ đến Tòa án
giải quyết hồ sơ và đi chấp hành quyết định
cưỡng chế cai nghiện phải tuân thủ trình tự
công bằng.
- Giảm thiểu các khâu trung gian, các
đầu mối trong quá trình lập hồ sơ đề nghị.
Theo chúng tôi, để cắt giảm các khâu trung
gian không cần thiết và phát huy đúng chức
năng, nhiệm vụ, chuyên môn của từng cơ
quan thì quá trình lập hồ sơ chỉ gồm Công an
cấp xã hoặc Công an cấp huyện15 với vai trò
là cơ quan đề nghị thay cho vị trí của Phòng
Lao động – Thương binh và Xã hội như hiện
nay. Cơ quan Công an có nhiều lợi thế trong
tiếp xúc với người nghiện ma túy, quản lý
địa bàn, thu thập tài liệu, chứng cứ. Chưa
kể, Bộ Công an đang thí điểm chủ trương
chính quy hóa lực lượng Công an cấp xã.
Trong thời gian tới, chất lượng chuyên môn
và số lượng biên chế Công an cấp xã sẽ được
nâng cao.
Sau khi lập hồ sơ xong, Công an cấp
xã chuyển hồ sơ tới Tòa án nhân dân cấp
huyện. Tòa án sau đó chuyển cho Viện kiểm
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
31Số 23(399) T12/2019
sát cùng cấp nghiên cứu theo đúng quy trình
đã được quy định rõ trong Pháp lệnh số 09.
Tại phiên họp, Công an cấp xã hoặc
Công an cấp huyện sẽ trực tiếp bảo vệ
quan điểm đề nghị của mình bằng các tài
liệu, chứng cứ chứng minh theo đúng tinh
thần của “thủ tục tố tụng công bằng” – coi
trọng giá trị của chứng cứ, chứng minh,
quy trình tố tụng đúng pháp luật.
- Nghiên cứu bổ sung thêm các tài liệu
chứng minh tình trạng nghiện ma túy, các
tài liệu chứng minh nhân thân của người
bị đề nghị vào hồ sơ đề nghị. Đặc biệt, chú
trọng thu thập các tài liệu có lợi, các tình
tiết giảm nhẹ. Các tài liệu pháp luật yêu cầu
phải thông báo, cấp, tống đạt cho người bị
đề nghị hoặc người thân thích của họ phải
được thể hiện bằng biên bản, lưu kèm hồ sơ.
Cơ quan đề nghị có trách nhiệm chứng minh
các tài liệu, chứng cứ đã thu thập trong hồ
sơ là hợp pháp.
- Quy định cụ thể về trách nhiệm pháp
lý với hành vi xâm phạm quyền của người bị
đề nghị. Những hành vi của người có thẩm
quyền từ quá trình lập hồ sơ đến khi đưa
người vào trung tâm cai nghiện ma túy bắt
buộc, nếu xâm phạm đến quyền con người
của người bị đề nghị cần xử lý nghiêm khắc.
Một khi xác định trình tự, thủ tục áp dụng
biện pháp cưỡng chế cai nghiện là thủ tục
tố tụng sẽ dẫn đến quy định quyền và nghĩa
vụ của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến
hành tố tụng và những hành vi xâm phạm
hoạt động tư pháp có thể bị xử lý. Các cơ
quan, chủ thể tham gia trong thủ tục này sẽ
phải cẩn trọng, trách nhiệm hơn.
- Bảo đảm quyền của người bị đề
nghị được giải trình trước Tòa án, tranh
luận với cơ quan đề nghị áp dụng biện
pháp xử lý hành chính. Đây là điểm khác
biệt chính giữa trình tự tư pháp và trình
tự hành chính, là bước tiến lớn trong việc
tạo ra sự bình đẳng về địa vị của các chủ
16 Điều 7 Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017.
thể tham gia tố tụng tại phiên họp. Không
chỉ Tòa án thực hiện đúng quy định của
pháp luật tố tụng, tạo điều kiện cho người
bị đề nghị, người bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của họ được tham gia tranh luận,
trình bày ý kiến, xuất trình tài liệu, chứng
cứ, mà bản thân những người này cũng
phải biết cách tự bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp khi tham gia tố tụng tại Tòa án,
đặc biệt là tại phiên họp.
Bổ sung quyền của người nghiện ma
túy được trợ giúp pháp lý miễn phí nếu họ
có các điều kiện tương tự như bị can/bị cáo
trong vụ án hình sự hoặc đương sự trong
các vụ án dân sự16 để người nghiện ma túy
có cơ hội được tư vấn, tiếp cận công lý dễ
dàng hơn. Vấn đề này chưa được pháp luật
quan tâm.
- Bổ sung thẩm quyền giám đốc thẩm,
tái thẩm đối với quyết định cưỡng chế cai
nghiện bắt buộc. Nếu có chứng cứ chứng
minh quá trình giải quyết hồ sơ, Thẩm phán,
Thư ký vi phạm nghiêm trọng thủ tục, không
đảm bảo quyền của người bị đề nghị, làm sai
lệch hồ sơ vụ việc, phát sinh tình tiết mới
làm thay đổi bản chất vụ việc thì phải hủy
quyết định của cấp sơ thẩm. Do đó, cần bổ
sung quyền của người bị đề nghị được yêu
cầu xem xét lại hồ sơ theo trình tự giám đốc
thẩm, tái thẩm để đảm bảo quyền lợi hợp
pháp của người bị đề nghị; tránh oan sai
kéo dài.
- Tăng cường hoạt động kiểm tra,
giám sát của Viện kiểm sát nhân dân và các
cơ quan dân cử trong giám sát hoạt động tố
tụng; hoạt động giải quyết kháng nghị, kiến
nghị, kiểm tra nghiệp vụ của Tòa án nhân
dân cấp trên nhằm phát hiện các vi phạm
nghiêm trọng trình tự, thủ tục, xâm phạm
đến quyền con người của người trong quá
trình tố tụng tại Tòa án
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
32 Số 23(399) T12/2019
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- quyen_cua_nguoi_bi_de_nghi_ap_dung_bien_phap_dua_vao_co_so_c.pdf