Thứ nhất, về chủ thể quyền của quyền
ASXH, nên mở rộng chủ thể từ “công dân”
sang “mọi người”. Quyền được hưởng
ASXH với tư cách là một quyền cơ bản của
con người cần được đảm bảo trên thực tế đối
với tất cả mọi chủ thể dù họ có hay không
có tư cách công dân, mặc dù có thể xác định
những cách thức và mức độ khác nhau trong
việc bảo đảm quyền này cho công dân và
những người nước ngoài đang sinh sống và
làm việc lâu dài ở Việt Nam. Mở rộng phạm
vi chủ thể của quyền này cũng là để phù hợp
với các quy tắc và tiêu chuẩn quốc tế. Cụ thể,
theo các khuyến nghị tại Bình luận chung số
16 của Uỷ ban về các Quyền kinh tế, xã hội,
văn hoá, mọi sự phân biệt đối xử dựa trên
cơ sở quốc tịch đều bị cấm và những người
nước ngoài, bao gồm cả lao động di cư, có
đóng góp cho một chương trình ASXH thì
phải được hưởng lợi từ sự đóng góp đó hoặc
được lấy lại những đóng góp của họ khi họ
rời khỏi đất nước nhận lao động di cư. Người
nước ngoài cần phải được tiếp cận với những
chương trình bảo hiểm không cần đóng góp
để có thể được hỗ trợ thu nhập, tiếp cận chăm
sóc y tế và hỗ trợ gia đình với chi phí có thể
chi trả được. Mọi người, không phân biệt
quốc tịch, nơi cư trú hoặc tình trạng nhập cư
đều có quyền được chăm sóc y tế sơ cấp và
khẩn cấp. Những đối tượng dễ bị gạt ra ngoài
lề xã hội như người tị nạn, người không quốc
tịch, người xin tị nạn cần được đối xử bình
đẳng trong việc tiếp cận với các chương trình
ASXH không cần đóng góp, bao gồm việc
tiếp cận hợp lý với các dịch vụ y tế và hỗ trợ
gia đình, phù hợp với các tiêu chuẩn quốc
tế10.
Thứ hai, cần có biện pháp tăng cường
nguồn ngân sách và bảo đảm tính ổn định
của nguồn ngân sách dành cho ASXH, trong
đó chú trọng việc xây dựng cả hai cơ chế
không dựa trên đóng góp và dựa trên đóng
góp, đồng thời huy động sự tham gia từ
cộng đồng, người dân nhằm giảm bớt gánh
nặng lên Nhà nước trong việc thực hiện các
chương trình ASXH.
Thứ ba, cần tiếp tục xây dựng, hoàn
thiện cơ chế giám sát phù hợp với việc thực
hiện các quyền được hưởng ASXH, nhằm
ngăn ngừa, phát hiện, xử lý những hành vi
tham nhũng, tùy tiện của các chủ thể có liên
quan.
11 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 20/01/2022 | Lượt xem: 223 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Quyền được hưởng an sinh xã hội trong luật nhân quyền quốc tế và những vấn đề đặt ra với Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Vũ Công Giao*
Nguyễn Thuỳ Dương**
* PGS,TS. Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội.
** ThS. Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội.
Tóm tắt:
Quyền được hưởng an sinh xã hội là một trong những quyền
kinh tế, xã hội cơ bản của con người và đã được ghi nhận trong
Tuyên ngôn toàn thế giới về Nhân quyền năm 1948 và một số
văn kiện quốc tế quan trọng khác. Ở Việt Nam, quyền được
hưởng an sinh xã hội đã được ghi nhận trong Hiến pháp năm
2013, song việc đảm bảo quyền này trên thực tế hiện đang gặp
một số khó khăn. Các tác giả bài viết cho rằng, để bảo đảm
quyền này, Nhà nước cần huy động các nguồn tài chính ngoài
ngân sách cho các chương trình an sinh xã hội. Thêm vào đó,
cần tuyên truyền nâng cao nhận thức cho các chủ thể liên quan
và mở rộng quy định về chủ thể của quyền này phù hợp với
hướng dẫn của các cơ quan nhân quyền Liên hiệp quốc.
Abstract:
The right to the social security of person is one of the basic
human economic and social rights. It was proclaimed in
the Universal Declaration of Human Rights in 1948 and
in several of core international instruments. In Viet Nam,
the right to the social security has been recognized in the
Constitution of 2013 but it faces with several difficulties
in practice of its enforcement. The authors believe that, in
order to improve this right, in addition to state budget, it
is necessary to mobilize other financing resources for the
social security programs. Furthermore, it is also to raise the
awareness of other stakeholders, and expanding the right’s
holders in line with the guidelines of UN human rights
agencies are also needed to improve the right to the social
security in Vietnam.
Thông tin bài viết:
Từ khóa: quyền kinh tế, xã hội, văn hóa;
quyền được hưởng an sinh xã hội; Tuyên ngôn
toàn thế giới về Nhân quyền; Công ước quốc
tế về các Quyền kinh tế, xã hội, văn hoá; Hiến
pháp năm 2013.
Lịch sử bài viết:
Nhận bài: 29/10/2107
Biên tập: 09/11/2017
Duyệt bài: 16/11/2017
Article Infomation:
Keywords: Economic, social and cultural
rights; the right to social security; UDHR
1948; ICESCR 1966, 2013 Constitution.
Article History:
Received: 29 Oct. 2017
Edited: 09 Nov. 2017
Appproved: 16 Nov. 2017
QUYỀN ĐƯỢC HƯỞNG AN SINH XÃ HỘI
TRONG LUẬT NHÂN QUYỀN QUỐC TẾ VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA VỚI VIỆT NAM
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
13Số 01(353) T01/2018
1. Dẫn nhập
Quyền được hưởng an sinh xã hội -
ASXH (the right to social security) là một
trong những quyền con người cơ bản, được
xếp vào nhóm quyền kinh tế, xã hội, văn
hoá. Quyền này được ghi nhận trong Điều
22 (đồng thời được nhắc đến trong Điều 25)
của Tuyên ngôn toàn thế giới về Nhân quyền
(UDHR) năm 1948. “Với tư cách là thành
viên của xã hội, mọi người đều có quyền
được hưởng ASXH cũng như được thực
hiện các quyền về kinh tế, xã hội và văn hóa
không thể thiếu đối với nhân phẩm và tự do
phát triển nhân cách của mình, thông qua nỗ
lực quốc gia, hợp tác quốc tế và phù hợp với
hệ thống tổ chức và nguồn lực của mỗi quốc
gia” (Điều 22 UDHR)
Với tư cách là một trong những quyền
con người cơ bản, quyền ASXH sau đó đã
được tái khẳng định và cụ thể hoá trong
những văn kiện quốc tế quan trọng khác về
nhân quyền, tiêu biểu như: Công ước quốc
tế về các Quyền kinh tế, xã hội, văn hoá
(ICESCR) năm 1966 ghi nhận: “Các quốc
gia thành viên Công ước này thừa nhận
quyền của mọi người được hưởng ASXH, kể
cả bảo hiểm xã hội” (Điều 9); Công ước của
Liên hiệp quốc về Quyền trẻ em (CRC) quy
định: “1. Các quốc gia thành viên thừa nhận
mọi trẻ em đều có quyền hưởng ASXH, kể
cả bảo hiểm xã hội, và phải thi hành những
biện pháp cần thiết để thực hiện đầy đủ
quyền này phù hợp với pháp luật nước mình.
2. Khi thích hợp, các quyền lợi này cần được
cung cấp trên cơ sở có tính đến các nguồn
lực, hoàn cảnh của trẻ em và của những
người chịu trách nhiệm nuôi dưỡng trẻ em,
cũng như yếu tố khác có liên quan đến việc
xin được hưởng những quyền lợi đó do trẻ
em hay người đại diện cho trẻ em thực hiện”
(Điều 26); Công ước về Quyền của người
khuyết tật (CRPD) nêu: “2. Quốc gia thành
viên công nhận quyền của người khuyết tật
được hưởng phúc lợi xã hội và được hưởng
quyền đó mà không có sự phân biệt đối xử
trên cơ sở sự khuyết tật, và tiến hành các
bước thích hợp để bảo vệ và thúc đẩy việc
biến quyền này thành hiện thực, trong đó có
các biện pháp: a. Bảo đảm cho người khuyết
tật tiếp cận bình đẳng đối với dịch vụ nước
sạch, bảo đảm cho họ tiếp cận các dịch vụ,
thiết bị và sự hỗ trợ khác phục vụ những nhu
cầu xuất phát từ tình trạng khuyết tật; b. Bảo
đảm quyền của người khuyết tật, đặc biệt là
phụ nữ và bé gái khuyết tật, người già khuyết
tật được hưởng các chương trình phúc lợi xã
hội và chương trình xoá đói giảm nghèo; c.
Bảo đảm cho người khuyết tật và gia đình họ
sống trong tình trạng nghèo khổ được tiếp
cận sự giúp đỡ từ quỹ hỗ trợ người khuyết
tật, trong đó có thể bằng cách đào tạo, tư vấn
hoặc hỗ trợ tài chính và động viên tạm thời
một cách thích hợp; d. Bảo đảm cho người
khuyết tật tiếp cận các chương trình nhà ở
công cộng; e. Bảo đảm cho người khuyết tật
tiếp cận các chương trình và phúc lợi hưu
trí” (Điều 28 khoản 2).
Xét ở góc độ tổng quát, quyền được
hưởng ASXH có nội hàm rộng, trong đó
ngoài những vấn đề được đồng thuận, có một
số khía cạnh gây tranh luận giữa các quốc
gia và các học giả trong quá trình pháp điển
hoá quyền này vào luật nhân quyền quốc tế,
mà có thể tóm tắt trong mục dưới đây.
2. Đặc điểm, bản chất và quá trình pháp
điển hoá quyền được hưởng an sinh xã
hội trong luật nhân quyền quốc tế
Phân tích lịch sử phát triển của quyền
con người, Karel Vasak đã đưa ra ý tưởng
về “các thế hệ quyền con người”, trong đó,
thế hệ thứ nhất là các quyền dân sự, chính
trị, thế hệ thứ hai là các quyền kinh tế, văn
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
14 Số 01(353) T01/2018
hóa, xã hội và thế hệ thứ ba là các quyền
tập thể1. Các quyền kinh tế, xã hội, trong đó
có quyền được hưởng ASXH, thuộc thế hệ
nhân quyền thứ hai, bắt đầu được đề xướng
và vận động từ những năm cuối thế kỷ 19
nhằm hướng tới việc đảm bảo bình đẳng về
điều kiện và trong đối xử đối với con người.
Đi sâu hơn về nguồn gốc, các quyền
kinh tế, văn hoá, xã hội ra đời và phát triển
do những biến đổi lớn trong lịch sử phương
Tây, đó là sự hình thành quốc gia - dân tộc
dần chuyển sang các nền dân chủ rộng rãi
sau Cách mạng Pháp, và chủ nghĩa tư bản
trở thành phương thức sản xuất thống trị sau
cuộc Cách mạng công nghiệp ở châu Âu.
Những biến động này đã đặt ra yêu cầu đối
với các quốc gia phải có thể chế phúc lợi
đáp ứng đòi hỏi ngày càng tăng về ASXH
và sự bình đẳng về cơ hội kinh tế. Sự phát
triển của kinh tế, xã hội tạo ra những biến
đổi trong cấu trúc, chức năng và tính chính
đáng của bản thân nhà nước, được phản ánh
thông qua sự mở rộng dần của các quy định
về mô hình nhà nước phúc lợi. Chính các
quy định về mô hình nhà nước phúc lợi là
tiền thân về mặt quy phạm và thiết chế của
ASXH như một quyền con người, cũng như
của các quyền về kinh tế, xã hội và văn hóa
nói chung.
Các chế độ chính trị khác nhau có
những cơ chế khác nhau để điều chỉnh các
quyền về phúc lợi xã hội. Trong những chế
độ dân chủ, các quyền xã hội, trong đó có
quyền được hưởng ASXH là hệ quả tất yếu
của các quyền dân chủ, và chính sự cạnh
tranh giành phiếu bầu của cử tri giữa các
đảng phái chính trị sẽ thúc đẩy sự mở rộng
của các quyền này. Trong khi đó, ở những
1 Nguyễn Đăng Dung, Phạm Hồng Thái, Vũ Công Giao, Lã Khánh Tùng (biên soạn), Hỏi đáp về Quyền con người,
Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 2012, tr. 30.
chế độ chuyên chế và độc tài, giới cầm
quyền sử dụng các quyền xã hội như là một
phương tiện để bảo đảm sự ổn định chính trị,
nhằm đối phó với sự phát triển nhanh chóng
và ngày càng cấp tiến của phong trào công
nhân.
Trong giai đoạn đầu, khi các quyền
ASXH mới được ghi nhận trong pháp luật
của một số nước Tây Âu, trách nhiệm bảo
đảm các quyền này được chia sẻ giữa người
sử dụng lao động, người lao động và nhà
nước; tuy nhiên cùng với thời gian, những
trách nhiệm căn bản trong việc bảo đảm
quyền này dần dần được chuyển cho nhà
nước. Theo đó, nhà nước có nghĩa vụ bảo
đảm mức độ ASXH tối thiểu cho mọi công
dân. Sự mở rộng nghĩa vụ của nhà nước
trong việc bảo đảm các quyền về xã hội và
kinh tế xuất phát từ nguyên tắc bình đẳng
về lợi ích và quan niệm xem nhà nước như
là chủ thể chính có trách nhiệm đáp ứng các
nhu cầu về ASXH.
Những quy định về quyền được hưởng
ASXH trong pháp luật của một số quốc gia
Tây Âu có vai trò quan trọng với sự hình
thành và phát triển của pháp luật quốc tế về
quyền này. Đó là bởi pháp luật quốc tế được
xây dựng dựa trên sự thỏa thuận giữa các
quốc gia, trong khi quan điểm của các quốc
gia luôn dựa trên nền tảng những nguyên
tắc, quy định trong pháp luật của nước mình.
Nói cách khác, các quyền kinh tế - xã hội nói
chung, quyền được hưởng ASXH nói riêng
hình thành và phát triển từ cấp độ quốc gia
rồi đến cấp độ quốc tế.
Ở góc độ quốc tế, quyền được hưởng
ASXH lần đầu tiên được khẳng định một
cách rõ ràng dưới góc độ quyền con người
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
15Số 01(353) T01/2018
trong Tuyên bố Philadelphia năm 1944, trong
đó kêu gọi mở rộng “các biện pháp ASXH
để cung cấp thu nhập cơ bản cho tất cả mọi
người cần sự bảo vệ và cần sự chăm sóc y tế
toàn diện”2. Sau đó, quyền này tiếp tục được
ghi nhận với tư cách là một quyền cơ bản
của con người trong Tuyên ngôn toàn thế
giới về Nhân quyền (UDHR) năm 1948 và
một số công ước quốc tế khác về nhân quyền
do Đại hội đồng Liên hiệp quốc thông qua
(đã nêu ở phần trên). Không chỉ vậy, quyền
này còn được ghi nhận trong nhiều văn kiện
khu vực về quyền con người như: Tuyên bố
châu Mỹ về các Quyền và nghĩa vụ của
con người (Điều XVI); Nghị định thư bổ
sung Công ước châu Mỹ về Nhân quyền
trong lĩnh vực các quyền kinh tế, xã hội và
văn hoá (Nghị định thư San Salvador, Điều
9); Hiến chương xã hội châu Âu (sửa đổi
năm 1996, các Điều 12, 13 và 14). Năm
2001 đã diễn ra một sự kiện quan trọng trong
sự phát triển của quyền được hưởng ASXH,
đó là Hội nghị Lao động quốc tế (bao gồm
đại diện của các chính phủ, các tổ chức của
người sử dụng lao động và người lao động)
trong chương trình nghị sự của mình, Hội
nghị đã khẳng định ASXH không chỉ là “một
quyền con người cơ bản” mà còn là “một
phương tiện cơ bản để tạo sự gắn kết xã hội”3.
Về bản chất, không như những quyền
dân sự, chính trị - mà hầu hết được xem là
“tuyệt đối” (absolute) và cần phải thực hiện
“ngay lập tức” (immediate), các quyền kinh
tế, xã hội và văn hóa, trong đó có quyền
được hưởng ASXH, được coi là “mang tính
kế hoạch” (programmatic) hay “khát vọng”
2 Tuyên bố về các mục tiêu và mục đích của Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO), Phụ lục Điều lệ của ILO, phần III(f).
3 Xem thêm Bình luận chung số 16 của Uỷ ban về các Quyền kinh tế, xã hội, văn hoá, đoạn 6.
4 Bard-Ander Andreassen, Điều 22, Tuyên ngôn Nhân quyền 1948, Mục tiêu chung của toàn nhân loại, Gudmundur
Alfredsson & Asbjørn Eide (Chủ biên), Nxb Lao động - Xã hội, Hà Nội, 2011, tr.469, 472.
5 Nghiêm Kim Hoa – Vũ Công Giao, Giới thiệu Công ước quốc tế về các Quyền kinh tế, văn hóa, xã hội (ICESCR 1966),
Nxb Hồng Đức, Hà Nội, 2012, tr.111.
(aspirations). Do đó việc thực thi đầy đủ các
quyền kinh tế, văn hóa, xã hội, trong đó có
quyền được hưởng ASXH, chỉ đạt được khi
có nguồn lực được tạo ra thông qua phát triển
kinh tế. Dù vậy, luật nhân quyền quốc tế đòi
hỏi các quốc gia phải có chiến lược từng
bước thực hiện quyền này, trước hết là đảm
bảo quyền được hưởng ASXH ở mức độ tối
thiểu mà cộng đồng quốc tế chấp nhận, đồng
thời phải không ngừng nâng cao mức độ bảo
đảm quyền này bằng cách sử dụng hợp lý
các nguồn lực hiện có của đất nước4.
Quyền được hưởng ASXH có thể
được nhìn nhận dưới cả góc độ quyền kinh
tế và quyền xã hội. Quyền này có mối liên
hệ phụ thuộc với các quyền kinh tế, văn hóa,
xã hội khác, và giống như tất cả các quyền
con người được ghi nhận trong ICESCR, nó
cũng có sự liên kết bền vững với các quyền
dân sự và chính trị.
3. Nội hàm của quyền được hưởng an sinh
xã hội và nghĩa vụ của các quốc gia trong
việc bảo đảm quyền này
Theo Bình luận chung số 16 của Uỷ
ban về các Quyền kinh tế, xã hội, văn hoá
(cơ quan giám sát thực hiện ICESCR),
ASXH đóng vai trò quan trọng trong việc
tái phân phối, thúc đẩy xóa đói giảm nghèo,
hòa nhập xã hội, ngăn chặn trình trạng bị gạt
ra bên lề của sự phát triển, đảm bảo nhân
phẩm cho tất cả mọi người, đặc biệt khi họ
gặp phải những hoàn cảnh khó khăn trong
cuộc sống5. Việc thực thi quyền được hưởng
ASXH trên thực tế có thể ảnh hưởng trực tiếp
hoặc gián tiếp đến việc thực hiện các quyền
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
16 Số 01(353) T01/2018
kinh tế, xã hội khác, trong đó biểu hiện rõ
nhất là các quyền: Quyền được thụ hưởng
mức sống phù hợp (về ăn, mặc, ở) và được
"không ngừng cải thiện đời sống" (Điều 11
ICESCR); Quyền được hưởng một "tiêu
chuẩn sức khoẻ về thể chất và tinh thần ở
mức cao nhất có thể" (Điều 12 ICESCR);
Quyền được hưởng ASXH bao gồm
quyền tiếp cận và duy trì những lợi ích, bằng
tiền mặt hoặc bằng hiện vật, dựa trên sự bình
đẳng, không có sự phân biệt đối xử nào,
để bảo vệ con người khỏi các hoàn cảnh:
(a) thiếu thu nhập từ việc làm do bệnh tật,
khuyết tật, thai sản, tai nạn lao động, thất
nghiệp, tuổi già, hoặc cái chết của một thành
viên trong gia đình; (b) không có khả năng
chi trả cho các dịch vụ chăm sóc sức khỏe;
(c) không đủ khả năng hỗ trợ gia đình, đặc
biệt là đối với trẻ em và những người lớn
sống phụ thuộc. Mọi người đều có quyền
được hưởng ASXH mà không có bất kỳ sự
phân biệt nào dựa trên các yếu tố như thành
phần, chủng tộc, tôn giáo, màu da, v.v
ASXH là chương trình xã hội có thể
được điều chỉnh khi áp dụng sao cho phù
hợp với điều kiện thực tế. Tuy nhiên, trong
mọi bối cảnh, các chương trình ASXH đều
cần đảm bảo các yếu tố sau:
Thứ nhất, tính sẵn có, thể hiện ở việc
hệ thống ASXH phải có một hoặc nhiều cơ
chế cung cấp những trợ cấp cho người rơi
vào những trường hợp rủi ro xã hội và rủi ro
khác. Hệ thống ASXH cần được thành lập
theo pháp luật quốc gia và quản lý bởi cơ
quan công quyền. Hệ thống này cần mang
tính bền vững để đảm bảo việc thực hiện
quyền được hưởng ASXH đối với thế hệ
hiện tại và tương lai.
Thứ hai, tính bao quát, thể hiện ở việc
hệ thống ASXH phải bao gồm các dịch vụ
chính sau: (a) Chăm sóc sức khỏe; (b) Ốm
đau; (c) Người cao tuổi; (d) Thất nghiệp; (e)
Tai nạn nghề nghiệp; (f) Hỗ trợ gia đình và
trẻ em; (g) Nghỉ thai sản; (h) Khuyết tật; (i)
Trợ cấp cho các nạn nhân và trẻ mồ côi.
Thứ ba, tính thích đáng, thể hiện ở việc
trợ cấp xã hội, bằng tiền mặt hay bằng hiện
vật, đều phải thích đáng về số lượng và thời
gian nhằm đảm bảo các cá nhân có thể thụ
hưởng đầy đủ các quyền liên quan đến việc
bảo vệ và hỗ trợ gia đình, quyền có mức sống
thích đáng và khả năng tiếp cận thích đáng
với các dịch vụ chăm sóc sức khỏe.
Thứ tư, tính có thể tiếp cận được, thể
hiện ở việc các chương trình ASXH phải có
thể trang trải được; hợp lý, tương ứng và
minh bạch; có sự tham gia quản lý từ các
cá nhân hưởng lợi từ chương trình; đảm bảo
quyền tiếp cận thông tin đối với các cá nhân
và tổ chức.
Liên quan đến nghĩa vụ của các quốc
gia trong việc bảo đảm quyền này, theo
ICESCR, cũng như các quyền con người
khác, quốc gia có nghĩa vụ tôn trọng, bảo vệ
và thực thi nhằm từng bước hướng tới thực
hiện đầy đủ quyền được hưởng ASXH, cụ
thể là:
- Nghĩa vụ tôn trọng: thể hiện ở việc
các quốc gia không can thiệp tuỳ tiện, bất
hợp lý, một cách trực tiếp hoặc gián tiếp
vào việc thụ hưởng các quyền được hưởng
ASXH của con người.
- Nghĩa vụ bảo vệ, thể hiện ở việc
các quốc gia phải có biện pháp ngăn chặn
và trừng phạt những vi phạm quyền được
hưởng ASXH do bất kỳ chủ thể nào gây ra
(cá nhân, nhóm, doanh nghiệp, các cơ quan,
viên chức nhà nước...), ví dụ như việc cản
trở sự tiếp cận bình đẳng hoặc áp dụng các
điều kiện thụ hưởng bất hợp lý với người dân
trong các chương trình ASXH. Đối với các
chương trình ASXH được điều hành và kiểm
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
17Số 01(353) T01/2018
soát bởi các bên thứ ba, các quốc gia cũng
có trách nhiệm đảm bảo rằng các chủ thể tư
nhân không vi phạm các nguyên tắc về sự
bình đẳng, phù hợp, chi phí phải chăng, và
có thể tiếp cận quyền ASXH bằng cách thiết
lập một hệ thống quy định pháp luật và cơ
chế giám sát hiệu quả, cùng với những chế
tài pháp lý thích đáng với những hành động
vi phạm.
- Nghĩa vụ thực thi. Theo Điều 2
ICESCR, các quốc gia thành viên phải có
các biện pháp hiệu quả, và định kỳ sửa đổi
những biện pháp này khi cần thiết, để thực
hiện đầy đủ quyền của tất cả mọi người trong
lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội, trong đó
có các quyền về ASXH, trong phạm vi tối
đa các nguồn lực sẵn có của nước mình mà
không có bất kỳ phân biệt đối xử nào. Đặc
biệt, các quốc gia có nghĩa vụ tạo điều kiện
trợ giúp các cá nhân và cộng đồng trong việc
thụ hưởng quyền ASXH. Nghĩa vụ tức là
điều mà quốc gia bắt buộc phải làm theo tiêu
chuẩn và định mức được cộng đồng quốc tế
chấp nhận - khác với hành động nhân đạo là
việc mà quốc gia có thể làm hoặc làm theo
cách thức và mức độ chủ quan của mình. Để
thực hiện nghĩa vụ này, các quốc gia phải áp
dụng tất cả các biện pháp phù hợp, bao gồm
các biện pháp pháp lý, các chiến lược, chính
sách và chương trình để bảo đảm thực hiện
các quyền ASXH và đồng thời có cơ chế
đảm bảo rằng pháp luật, chiến lược và chính
sách hiện hành luôn được xem xét đánh giá
về mức độ tương thích với các yêu cầu đặt
ra đối với việc thực hiện quyền được hưởng
ASXH theo tinh thần của luật nhân quyền
quốc tế, hướng tới việc xây dựng hệ thống
ASXH hợp lý và có thể tiếp cận được đối
với tất cả mọi người và điều chỉnh các rủi ro
xã hội.
Liên quan đến việc xây dựng cơ chế
pháp lý đảm bảo quyền ASXH, các quốc
gia cần thông qua một khung pháp lý bao
gồm: (a) những chỉ tiêu hay mục đích phải
đạt được và khung thời gian; (b) các phương
tiện để có thể đạt được mục đích; (c) sự hợp
tác với xã hội dân sự, khu vực tư nhân và các
tổ chức quốc tế; (d) cơ quan có trách nhiệm
thực hiện; (e) cơ chế giám sát quốc gia và (f)
các biện pháp và thủ tục thực hiện. Trong đó,
đặc biệt cần lưu ý đến việc tạo nguồn cung
cấp những lợi ích ASXH nhằm đảm bảo cho
mọi người dân được hưởng quyền con người
này ở mức tối thiểu, cụ thể là đảm bảo quyền
tiếp cận đối với các chương trình cung cấp
mức độ phúc lợi xã hội cơ bản tối thiểu cho các
cá nhân và gia đình, cho phép họ nhận được ít
nhất là sự chăm sóc sức khỏe cần thiết, nhà ở
cơ bản, nước sạch và vệ sinh, thực phẩm và
những hình thức giáo dục cơ bản nhất. Đó có
thể là việc xây dựng các cơ chế dựa trên
việc đóng góp hay đóng bảo hiểm (ví dụ: bảo
hiểm xã hội) từ các khoản đóng góp bắt buộc
từ người lao động, sử dụng lao động, và đôi
khi cả Nhà nước, cùng với việc chi trả cho
các khoản trợ cấp và các chi phí hành chính
từ một quỹ chung; hoặc các cơ chế không cần
đóng góp như là các chương trình phổ cập
(về nguyên tắc cung cấp trợ cấp liên quan
cho tất cả những người gặp rủi ro hay cần
trợ giúp đặc biệt) hoặc hướng tới các chương
trình hỗ trợ xã hội (trong đó những người có
nhu cầu có thể được nhận trợ cấp).
Bên cạnh việc xây dựng khung pháp lý
đảm bảo quyền ASXH, mỗi quốc gia đều cần
xây dựng một chiến lược và kế hoạch hành
động quốc gia để thực hiện quyền, trừ khi
quốc gia có thể chứng minh rõ ràng rằng họ
đã có một hệ thống ASXH toàn diện và được
giám sát, đánh giá thường xuyên để đảm
bảo sự phù hợp với quyền ASXH. Việc xây
dựng và thực hiện chiến lược và kế hoạch
hành động cần phải phù hợp với hoàn cảnh;
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
18 Số 01(353) T01/2018
đảm bảo sự bình đẳng; có tính đến yếu tố
bình đẳng giới và quyền của các nhóm dễ
bị tổn thương trong xã hội. Các chiến lược
và kế hoạch hành động phải được xây dựng
dựa trên pháp luật và các nguyên tắc nhân
quyền; phải bao gồm tất cả các khía cạnh của
quyền ASXH; cần đặt ra các chỉ tiêu hoặc
mục tiêu cần đạt được và với khung thời
gian cụ thể cùng với các mốc chuẩn và chỉ
số đánh giá, được liên tục giám sát và có cơ
chế bảo đảm nguồn tài chính và nguồn nhân
lực để thực hiện.
Ngoài nghĩa vụ tạo điều kiện, quốc gia
còn có nghĩa vụ thúc đẩy các quyền ASXH
trên cơ sở tiến hành các biện pháp nhằm đảm
bảo có những chương trình phù hợp về giáo
dục và nâng cao nhận thức cho công chúng
liên quan đến việc tiếp cận các chương trình
ASXH, đặc biệt là công chúng ở nông thôn và
các khu vực đô thị nghèo, hay trong các nhóm
thiểu số về ngôn ngữ và các nhóm thiểu số
khác. Bên cạnh đó, thực hiện các biện pháp
thích hợp để đảm bảo rằng khu vực tư nhân
và xã hội dân sự nhận thức được tầm quan
trọng của quyền này trong hoạt động của họ
cũng đóng góp một phần tích cực trong việc
tạo một môi trường thuận lợi cho việc thực
hiện quyền ASXH.
Trong quá trình thực thi những nghĩa
vụ chủ động cũng như thụ động để hiện thực
hóa quyền được hưởng ASXH, các quốc gia
cần đảm bảo các yêu cầu sau:
Thứ nhất, nguyên tắc không phân biệt
đối xử và bình đẳng. Các quốc gia thành viên
công ước có nghĩa vụ đảm bảo các quyền
ASXH được thực hiện một cách bình đẳng,
không có sự phân biệt đối xử nào, trong pháp
luật hoặc trong thực tế, trực tiếp hay gián
tiếp, dựa trên các lý do chủng tộc, màu da,
giới tính, tuổi tác, ngôn ngữ, tôn giáo, quan
điểm chính trị hoặc các quan điểm khác,
nguồn gốc quốc gia hay xã hội, tài sản, dòng
dõi, khuyết tật về thể chất hay tinh thần, tình
trạng sức khỏe (bao gồm cả HIV/AIDS),
khuynh hướng tình dục, vị thế dân sự, chính
trị, xã hội hay các vị thế khác.
Thứ hai, bảo đảm các quyền ASXH
cho người lao động không được bảo đảm đầy
đủ về ASXH (người làm bán thời gian, lao
động đơn giản, lao động tự do và lao động
tại gia).
Thứ ba, đảm bảo hệ thống ASXH bao
gồm cả những người lao động trong khu vực
kinh tế phi chính thức.
Thứ tư, đảm bảo quyền được hưởng
ASXH của các nhóm dễ bị tổn thương, bao
gồm: người bản địa và các nhóm thiểu số;
người nước ngoài (bao gồm cả người lao
động di cư, người tị nạn, người xin tị nạn,
người không có quốc tịch); người bị mất nơi
ở và người di cư trong nước. Dù nguồn ngân
sách có hạn, các quốc gia vẫn nên ưu tiên
xây dựng các chương trình có chi phí thấp
và chương trình lựa chọn để hỗ trợ ngay lập
tức những người không thể tiếp cận được với
ASXH, hướng đến mục tiêu lâu dài là lồng
ghép nhóm dễ bị tổn thương/bị gạt ra ngoài
lề xã hội vào trong các cơ chế ASXH thông
thường.
Ngoài chủ thể nhà nước, nghĩa vụ đảm
bảo quyền được hưởng ASXH còn thuộc về
những chủ thể khác có liên quan. Cũng theo
Bình luận chung số 16 của Uỷ ban về các
Quyền kinh tế, xã hội, văn hoá, những chủ
thể phi nhà nước có nghĩa vụ trong việc thực
thi các quyền ASXH có thể là các cơ quan và
tổ chức chuyên môn của Liên hiệp quốc có
liên quan như ILO, WHO, FAO, UNICEF,
UNDP và Chương trình tái định cư con
người cũng như các tổ chức quốc tế liên
quan đến thương mại, tổ chức tài chính quốc
tế như Tổ chức Thương mại thế giới, Quỹ
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
19Số 01(353) T01/2018
Tiền tệ quốc tế và Ngân hàng Thế giới. Các
cơ quan và tổ chức trên tùy theo chuyên môn
và tiềm lực của mình sẽ hợp tác, trợ giúp
các quốc gia trong quá trình thực hiện quyền
này6.
4. Những yêu cầu đặt ra trong việc bảo
đảm quyền được hưởng an sinh xã hội ở
Việt Nam
Nhận thức tầm quan trọng của các
quyền được hưởng ASXH trong sự ổn định,
phát triển của đất nước, Nhà nước Việt Nam
đã xây dựng và đang tiếp tục hoàn thiện hệ
thống pháp luật về ASXH. Hiện tại, quyền
được hưởng ASXH đã được Hiến pháp năm
2013 ghi nhận với tư cách là một quyền cơ
bản của công dân. Cụ thể, Điều 34 Hiến
pháp quy định: “Công dân có quyền được
bảo đảm ASXH”. Như vậy, mọi công dân
Việt Nam đều có quyền được hưởng ASXH,
không phân biệt giới tính, tôn giáo, tín
ngưỡng, nghề nghiệp, thành phần xã hội
Hiến pháp cũng đồng thời khẳng định trách
nhiệm của Nhà nước trong việc đảm bảo
các quyền hưởng ASXH: “Ở nước Cộng
hòa XHCN Việt Nam, các quyền con người,
quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế,
văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng,
bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp
luật” (khoản 1 Điều 14). Ngoài ra, trách
nhiệm của Nhà nước trong lĩnh vực này
còn được cụ thể hóa tại khoản 2 Điều 59:
“Nhà nước tạo bình đẳng về cơ hội để công
dân thụ hưởng phúc lợi xã hội, phát triển hệ
thống ASXH, có chính sách trợ giúp người
cao tuổi, người khuyết tật, người nghèo và
người có hoàn cảnh khó khăn khác”.
6 Xem thêm Bình luận chung số 16 của Uỷ ban về các Quyền kinh tế, xã hội, văn hoá.
7 Nguyễn Trọng Đàm, Hoàn thiện chính sách ASXH phù hợp với quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước,
Nguồn: Ngày truy cập: 27/10/2017.
Những quy định của Hiến pháp về bảo
đảm quyền ASXH cũng được cụ thể hóa
trong nhiều văn bản pháp luật chuyên ngành
như: Bộ luật Lao động, Luật Bảo hiểm xã
hội, Luật Người cao tuổi, Luật Trẻ em, Luật
Người khuyết tật Trong việc xây dựng
hệ thống pháp luật về ASXH, Nhà nước đã
chú ý tới các yếu tố: (i) tăng cường cơ hội
có việc làm, bảo đảm thu nhập tối thiểu cho
người lao động thông qua hỗ trợ cá nhân và
hộ gia đình phát triển sản xuất, hỗ trợ tín
dụng, giải quyết việc làm và kết nối thông
tin thị trường lao động; (ii) mở rộng cơ hội
cho người lao động tham gia hệ thống chính
sách bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp
nhằm đối phó với những tình huống rủi ro
như bị giảm sút hoặc mất khả năng lao động;
(iii) tăng cường sự tiếp cận của người dân
đối với những dịch vụ xã hội cơ bản, như
giáo dục, y tế, nhà ở, nước sạch và vệ sinh
môi trường; (iv) hỗ trợ đột xuất cho người
dân khi gặp các rủi ro không lường trước
hoặc vượt quá khả năng kiểm soát (mất mùa,
thiên tai, động đất, chiến tranh, đói nghèo...)
thông qua các khoản tiền mặt và hiện vật
do ngân sách nhà nước bảo đảm7; (v) hỗ trợ
thường xuyên đối với những các cá nhân
có hoàn cảnh đặc thù, cá nhân thuộc nhóm
yếu thế trong xã hội (người cao tuổi, người
khuyết tật).
Bên cạnh việc xây dựng hệ thống pháp
luật, Nhà nước Việt Nam cũng đã ban hành
nhiều chính sách thiết thực liên quan đến
các chương trình ASXH và bước đầu đã đạt
được một số thành tựu đáng khích lệ.
Những thành tựu trong việc bảo đảm
quyền được hưởng ASXH ở Việt Nam trong
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
20 Số 01(353) T01/2018
thời gian qua do một số nguyên nhân sau:
Thứ nhất, Nhà nước thể hiện cam kết
chính trị rất rõ ràng và mạnh mẽ với việc
thực hiện các nghĩa vụ quốc tế về tôn trọng,
bảo vệ và thực thi các quyền con người
thông qua việc ký kết một loạt điều ước
quốc tế về nhân quyền, trong đó có Công
ước quốc tế về các Quyền kinh tế, văn hóa,
xã hội (ICESCR, 1966), Công ước về Quyền
trẻ em (CRC, 1989), Công ước về Xoá bỏ
những hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ
(CEDAW, 1979), Công ước về Quyền của
người khuyết tật (CRPD, 2007).
Thứ hai, Hiến pháp năm 1992 và năm
2013 đã có những sửa đổi, bổ sung lớn so
với các Hiến pháp trước đây theo hướng
nhấn mạnh tầm quan trọng của việc bảo đảm
quyền con người và nghĩa vụ của Nhà nước
trong vấn đề này, qua đó tạo thuận lợi cho
việc hiện thực hoá các quyền con người nói
chung, quyền được hưởng ASXH nói riêng
trên thực tế. Đặc biệt, lần đầu tiên, quyền
được hưởng ASXH được quy định một cách
rõ ràng với tư cách như là một quyền hiến
định cụ thể, riêng biệt trong Hiến pháp năm
2013, đạo luật tối cao của một quốc gia, thể
hiện sự quan tâm của các nhà lập hiến đối
với quyền này. Quy định này của Hiến pháp
năm 2013 đã xác lập nền tảng pháp lý quan
trọng cho việc hoàn thiện hệ thống pháp
luật về quyền được hưởng ASXH ở nước ta
trong thời gian tới.
Thứ ba, hoạt động của các cơ quan
nhà nước và tổ chức xã hội trong việc bảo vệ
và thúc đẩy quyền con người. Kể từ Đổi mới
(1986) đến nay, các hoạt động nghiên cứu,
giáo dục và thúc đẩy, hỗ trợ thực hiện quyền
con người đã được thực hiện ngày càng
nhiều và hiệu quả ở nước ta. Ngày càng có
nhiều cơ quan, tổ chức, cá nhân tham gia vào
những hoạt động này, qua đó góp phần nâng
cao nhận thức của các cơ quan nhà nước và
người dân về quyền con người, cũng như
hình thành các cơ chế, biện pháp thực hiện,
thúc đẩy và giám sát bảo đảm thực hiện các
quyền con người, đặc biệt là các quyền về
kinh tế, xã hội, văn hoá của những nhóm xã
hội dễ bị tổn thương. Những hoạt động này
đã góp phần thúc đẩy đáng kể việc thực thi
quyền được hưởng ASXH ở nước ta trong
thời gian qua.
Thứ tư, cơ chế pháp lý bảo vệ và giám
sát thực hiện các quyền con người, quyền
công dân đã bắt đầu hình thành. Cơ chế này
có sự tham gia toàn diện của cả hệ thống
chính trị (Quốc hội, Chính phủ, Tòa án nhân
dân, Viện kiểm sát nhân dân, Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam) và các tổ chức, đoàn thể xã
hội, góp phần phát hiện, ngăn ngừa và xử
lý những vi phạm các quyền hiến định một
cách kịp thời.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành
công đã nêu trên, việc đảm bảo quyền được
hưởng ASXH ở nước ta trên thực tế vẫn còn
nhiều bất cập, mức độ bảo đảm (xét cả về
phạm vi đối tượng được hưởng và giá trị của
sự hỗ trợ) còn hạn chế. Điều này do nhiều
nguyên nhân khác nhau. Nguyên nhân đầu
tiên có thể kể đến là nguồn ngân sách nhà
nước dành cho ASXH còn hạn hẹp, dẫn đến
trong một số trường hợp, mức trợ cấp chưa
đảm bảo mức sống tối thiểu cho người được
nhận trợ cấp. Ví dụ, theo các quy định tại
khoản 1 Điều 4 Nghị định số 136/2013/NĐ-
CP ngày 21/10/2013 quy định chính sách
trợ giúp xã hội đối với đối tượng bảo trợ xã
hội và khoản 1, khoản 2 Điều 16 Nghị định
28/2012/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng
dẫn thi hành một số điều của Luật Người
khuyết tật, mức chuẩn trợ cấp, trợ giúp xã
hội cho người khuyết tật chỉ là 270.000 đồng
và hệ số tính mức trợ cấp xã hội hàng tháng
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
21Số 01(353) T01/2018
đối với người khuyết tật sống tại hộ gia đình
sẽ được tính như sau: người khuyết tật đặc
biệt nặng: hệ số hai (2,0); người khuyết tật
đặc biệt nặng là người cao tuổi, người khuyết
tật đặc biệt nặng là trẻ em: hệ số số hai phẩy
năm (2,5); người khuyết tật nặng: hệ số một
phẩy năm (1,5); người khuyết tật nặng là
người cao tuổi, người khuyết tật nặng là trẻ
em: hệ số hai (2,0). Như vậy, kể cả đã nhân
hệ số, số tiền trợ cấp nhận được cũng khó
có thể đảm bảo mức sống thích đáng cho
người khuyết tật, đặc biệt với những người
khuyết tật đặc biệt nặng, là “những người do
khuyết tật dẫn đến mất hoàn toàn chức năng,
không tự kiểm soát hoặc không tự thực hiện
được các hoạt động đi lại, mặc quần áo, vệ
sinh cá nhân và những việc khác phục vụ
nhu cầu sinh hoạt cá nhân hàng ngày mà cần
có người theo dõi, trợ giúp, chăm sóc hoàn
toàn”8.
Những nguyên nhân khác có thể kể đó
là nhận thức về vai trò của ASXH của nhiều
công chức, tổ chức, doanh nghiệp và người
dân chưa thực sự đúng và đầy đủ. Bên cạnh
đó, công tác tuyên truyền, phổ biến chính
sách, pháp luật, thanh tra, kiểm tra việc thực
hiện chính sách ASXH chưa được quan tâm
đúng mức. Các văn bản chính sách pháp luật
về ASXH còn có sự chồng chéo và tản mạn
gây khó khăn cho việc tổ chức thực hiện,
đặc biệt là ở cấp cơ sở. Cơ chế giám sát,
bảo vệ quyền con người, quyền công dân đã
hình thành, song còn mang tính hình thức,
chưa thực sự phát huy hiệu quả, đặc biệt
trong việc giải quyết khiếu nại, tố cáo và bồi
thường cho những chủ thể bị thiệt hại do bị
vi phạm quyền9.
8 Điều 3 Nghị định 28/2012/NĐ-CP ngày 10/4/2012.
9 Xem Lương Minh Tuân, “Quyền được đảm bảo ASXH, quyền được sống trong môi trường trong lành trong Hiến pháp
năm 2013: Khả năng thực hiện và kiến nghị” trong cuốn “Thực thi các quyền hiến định trong Hiến pháp 2013” (sách
tham khảo), Trịnh Quốc Toản - Vũ Công Giao (chủ biên), Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 2015.
Từ những bất cập, hạn chế kể trên,
để nâng cao mức độ đảm bảo quyền được
hưởng ASXH ở nước ta, cần xem xét một số
biện pháp sau:
Thứ nhất, về chủ thể quyền của quyền
ASXH, nên mở rộng chủ thể từ “công dân”
sang “mọi người”. Quyền được hưởng
ASXH với tư cách là một quyền cơ bản của
con người cần được đảm bảo trên thực tế đối
với tất cả mọi chủ thể dù họ có hay không
có tư cách công dân, mặc dù có thể xác định
những cách thức và mức độ khác nhau trong
việc bảo đảm quyền này cho công dân và
những người nước ngoài đang sinh sống và
làm việc lâu dài ở Việt Nam. Mở rộng phạm
vi chủ thể của quyền này cũng là để phù hợp
với các quy tắc và tiêu chuẩn quốc tế. Cụ thể,
theo các khuyến nghị tại Bình luận chung số
16 của Uỷ ban về các Quyền kinh tế, xã hội,
văn hoá, mọi sự phân biệt đối xử dựa trên
cơ sở quốc tịch đều bị cấm và những người
nước ngoài, bao gồm cả lao động di cư, có
đóng góp cho một chương trình ASXH thì
phải được hưởng lợi từ sự đóng góp đó hoặc
được lấy lại những đóng góp của họ khi họ
rời khỏi đất nước nhận lao động di cư. Người
nước ngoài cần phải được tiếp cận với những
chương trình bảo hiểm không cần đóng góp
để có thể được hỗ trợ thu nhập, tiếp cận chăm
sóc y tế và hỗ trợ gia đình với chi phí có thể
chi trả được. Mọi người, không phân biệt
quốc tịch, nơi cư trú hoặc tình trạng nhập cư
đều có quyền được chăm sóc y tế sơ cấp và
khẩn cấp. Những đối tượng dễ bị gạt ra ngoài
lề xã hội như người tị nạn, người không quốc
tịch, người xin tị nạn cần được đối xử bình
đẳng trong việc tiếp cận với các chương trình
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
22 Số 01(353) T01/2018
ASXH không cần đóng góp, bao gồm việc
tiếp cận hợp lý với các dịch vụ y tế và hỗ trợ
gia đình, phù hợp với các tiêu chuẩn quốc
tế10.
Thứ hai, cần có biện pháp tăng cường
nguồn ngân sách và bảo đảm tính ổn định
của nguồn ngân sách dành cho ASXH, trong
đó chú trọng việc xây dựng cả hai cơ chế
không dựa trên đóng góp và dựa trên đóng
góp, đồng thời huy động sự tham gia từ
cộng đồng, người dân nhằm giảm bớt gánh
nặng lên Nhà nước trong việc thực hiện các
chương trình ASXH.
Thứ ba, cần tiếp tục xây dựng, hoàn
thiện cơ chế giám sát phù hợp với việc thực
hiện các quyền được hưởng ASXH, nhằm
ngăn ngừa, phát hiện, xử lý những hành vi
tham nhũng, tùy tiện của các chủ thể có liên
quan. Cơ chế này cần được quy định cụ thể
trong pháp luật và cần được trao cho một cơ
10 Bình luận chung số 16, Uỷ ban về các Quyền kinh tế, xã hội, văn hoá, đoạn 36, 37, 38.
11 Xem thêm Vũ Văn Phúc, ASXH ở nước ta: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn. Nguồn:
vn/Home/Thong-tin-ly-luan/2012/15184/An-sinh-xa-hoi-o-nuoc-ta-Mot-so-van-de-ly.aspx. Ngày truy cập: 27/10/2017
quan giám sát độc lập trong lĩnh vực nhân
quyền (ví dụ như cơ quan nhân quyền quốc
gia đang được Nhà nước nghiên cứu xây
dựng).
Thứ tư, cần có biện pháp đảm bảo sự
tham gia thực sự và hiệu quả của công chúng
trong quá trình thực hiện quyền. Để thực
hiện được điều này, cần đẩy mạnh các hoạt
động giáo dục, tuyên truyền để người dân
hiểu biết về quyền và cách thức thực hiện
quyền này cũng như vai trò của ASXH trong
phát triển bền vững11. Bên cạnh đó, cần đảm
bảo quyền tiếp cận thông tin về ASXH đối
với người dân, đặc biệt là cho những nhóm
dễ bị tổn thương là đối tượng hưởng lợi chủ
yếu của các chương trình ASXH như người
khuyết tật, người lao động di cư, các dân tộc
thiểu số
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Đăng Dung, Phạm Hồng Thái, Vũ Công Giao, Lã Khánh Tùng (biên soạn), Hỏi đáp về Quyền con
người, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, 2012
2. Gudmundur Alfredsson & Asbjørn Eide (Chủ biên), Tuyên ngôn Nhân quyền 1948, Mục tiêu chung của toàn
nhân loại, NXB Lao động – Xã hội, 2011.
3. Nghiêm Kim Hoa – Vũ Công Giao, Giới thiệu Công ước quốc tế về các Quyền kinh tế, văn hóa, xã hội
(ICESCR 1966), NXB Hồng Đức, Hà Nội, 2012.
4. Lương Minh Tuân, “Quyền được đảm bảo ASXH, quyền được sống trong môi trường trong lành trong Hiến
pháp 2013: khả năng thực hiện và kiến nghị” trong cuốn “Thực thi các quyền hiến định trong Hiến pháp
2013” (sách tham khảo), Trịnh Quốc Toản – Vũ Công Giao (chủ biên), NXB Đại học Quốc gia Hà Nội,
2015.
5. Nguyễn Trọng Đàm, Hoàn thiện chính sách ASXH phù hợp với quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất
nước, Nguồn:
6. Vũ Văn Phúc, ASXH ở nước ta: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn. Nguồn:
vn/Home/Thong-tin-ly-luan/2012/15184/An-sinh-xa-hoi-o-nuoc-ta-Mot-so-van-de-ly.aspx. Ngày truy cập:
27/10/2017
7. ILO, Tuyên bố về các mục tiêu và mục đích của Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO), Phụ lục Điều lệ của ILO.
8. Uỷ ban về các quyền kinh tế, xã hội, văn hoá, Bình luận chung số 16.
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
23Số 01(353) T01/2018
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- quyen_duoc_huong_an_sinh_xa_hoi_trong_luat_nhan_quyen_quoc_t.pdf