Hướng thứ nhất, có thể bỏ hẳn quyền im
lặng của pháp nhân trong tố tụng hình sự.
Bởi lẽ, việc quy định quyền này cho pháp
nhân là không cần thiết và không phù hợp
với mục đích chống bức cung, nhục hình
trong quá trình thẩm vấn. Đồng thời, việc
sao chép cơ học các quy định này từ quyền
của thể nhân sang quyền của pháp nhân
cũng khiến các quy định này không có tác
dụng trên thực tế mà phát sinh ra nhiều vấn
đề pháp lý phức tạp, khó giải quyết.
Hướng thứ hai, trong trường hợp giữ lại
quyền im lặng cho pháp nhân, thì cần thiết
phải chuyển giao lại quyền im lặng của pháp
nhân cho chính pháp nhân đó chứ không thể
chỉ giao cho người đại diện của pháp nhân.
Đồng thời, bổ sung quy định cho bất kỳ
thành viên nào là người của pháp nhân cũng
có quyền viện dẫn quyền im lặng này để từ
chối cung cấp thông tin, lời khai mang tính
buộc tội pháp nhân. Điều này đảm bảo cho
pháp nhân, một tổ chức gồm nhiều thành
viên bên trong, được hưởng trọn vẹn quyền
im lặng mang tính tổng thể cho cả pháp
nhân và tính cá thể cho từng người của pháp
nhân. Đồng thời, cần bổ sung hành vi cung
cấp tài liệu liên quan có nội dung buộc tội
chính mình trong phạm vi bảo vệ của quyền
im lặng của pháp nhân. Theo đó, pháp nhân
có quyền giữ im lặng, không bị buộc phải
nhận tội hoặc cung cấp tài liệu, chứng cứ
chống lại mình. Quy định này nhằm cụ thể
hóa quyền im lặng phù hợp với tính chất của
pháp nhân và cách thức tổ chức, hoạt động
của pháp nhân
9 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 20/01/2022 | Lượt xem: 198 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Quyền im lặng của pháp nhân phạm tội trong tố tụng hình sự, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
QUYỀN IM LẶNG CỦA PHÁP NHÂN PHẠM TỘI
TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ
Tóm tắt:
Quyền im lặng là một quyền mới của người bị buộc tội trong tố
tụng hình sự. Đặc biệt hơn, việc quy định quyền này cho một chủ
thể mới là pháp nhân thương mại phạm tội cũng làm phát sinh một
số vấn đề pháp lý cần phải làm rõ. Bài viết trước hết phân tích lý
luận về quyền im lặng của thể nhân và quyền im lặng của pháp
nhân; về việc quy định trách nhiệm hình sự của pháp nhân trong
pháp luật hình sự và tố tụng hình sự; chỉ ra một số vấn đề pháp
lý cần làm rõ về quyền im lặng của pháp nhân phạm tội và đưa ra
một số gợi mở hoàn thiện.
Võ Minh Kỳ*
Nguyễn Phương Anh**
* ThS. Kiểm tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Ninh Kiều, thành phố Cần Thơ.
** ThS. Chuyên viên, Vụ pháp luật Hình sự và Hành chính, Bộ tư pháp.
Abstract:
The right to silence is a new right of the criminal suspects in
criminal procedure. Especially, this right is empowered to a
new subject- commercial legal entity, which may lead to several
ambiguous legal issues. This article firstly provides analysis of the
general theory of the right to silence of individuals and the right to
silence of the legal entities; on the regulations on criminal liability
of the legal entities in criminal laws and criminal procedure; a
number of legal issues that need to be clarified on the rights to
silence of criminal entities and relevant suggestions for further
improvements.
Thông tin bài viết:
Từ khóa: Quyền im lặng, thể nhân, pháp
nhân, tố tụng hình sự.
Lịch sử bài viết:
Nhận bài : 07/10/2019
Biên tập : 23/10/2019
Duyệt bài : 27/10/2019
Article Infomation:
Keywords: Right to silence, individuals,
legal entity, criminal procedure.
Article History:
Received : 07 Oct. 2019
Edited : 23 Oct. 2019
Approved : 27 Oct. 2019
1. Quyền im lặng của thể nhân và quyền
im lặng của pháp nhân phạm tội
Trong quy định của luật quốc tế cũng như
quy định của pháp luật ở nhiều quốc gia,
quyền im lặng được thừa nhận quyền con
người, một thành tố thiết yếu thiết lập nên
phiên tòa công bằng.
Công ước về các quyền dân sự và chính
trị 1966 (ICCPR) quy định, một người
không thể bị buộc để cho lời khai chống
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
16 Số 23(399) T12/2019
lại mình hoặc nhận mình có tội1. Cho đến
nay, ICCPR đã có 172 thành viên tham gia
là các quốc gia và vùng lãnh thổ. Ngoài ra,
còn có 06 quốc gia, vùng lãnh thổ khác đã
ký kết nhưng chưa được phê chuẩn (gồm
Trung Quốc, Comoros, Cuba, Nauru, Palau,
và Saint Lucia)2. Do đó, các quy định của
ICCPR được xem là hệ giá trị phổ quát mang
tính toàn cầu về các quyền con người dân sự
- chính trị nói chung, trong tố tụng hình sự
nói riêng. Mặt khác, tại Châu Âu, các đạo
luật chung của Châu Âu như Công ước Châu
Âu về quyền con người 1950, hoặc Hiến
chương về các quyền cơ bản của Liên minh
Châu Âu năm 2009 đều không ghi nhận trực
tiếp quyền im lặng như là một quyền cơ bản
trong tố tụng hình sự. Tuy nhiên, thông qua
các phán quyết của Tòa án nhân quyền Châu
Âu và Tòa án Công lý Châu Âu quyền im
lặng thường được xem là một thành tố của
quyền được xét xử công bằng, được bảo vệ
bởi các đạo luật chung3.
Ở cấp độ quốc gia, với các mức độ khác
nhau, hầu hết các quốc gia trên thế giới đều
tôn trọng và bảo vệ quyền im lặng4. Ví dụ,
Tu chính án thứ 5 của Hiến pháp Hoa Kỳ
quy định không ai bị buộc phải trở thành
nhân chứng chống lại mình trong bất kỳ vụ
án hình sự nào. Tương tự, Điều 38 của Hiến
pháp Nhật Bản 1946 cũng quy định “Không
ai bị buộc để cho lời khai chống lại mình”.
Dưới sự bảo vệ của quyền im lặng, nghi
1 Article 14, paragraph 3 (g), 1966 International Covenant on Civil and Political Rights.
2 Hiện nay, chỉ còn 19 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới vẫn chưa tham gia hay ký kết, có một số quốc gia nổi
bật như Malaysia, Myanmar, Singapore, Ả Rập Xê Út. Xem tại United Nations, Status of Ratification: Interactive
Dashboard, truy cập ngày 01/9/2019.
3 Xem thêm John Murray v. The United Kingdom, Application no. 18731/91, (ECtHR, 8 Feb 1996), 45; Saunders v. The
United Kingdom, Application no. 19187/91 (ECtHR, 17 Dec 1996), 68; và ECJ Case 374/87 (Orkem SA v Commission)
[1989] ECR 3283.
4 Ed Cape et al., Effective Criminal Defence in Europe, Oxford: Intersentia, 2010, p. 7; và Fenella M.W. Billing, The
Right to Silence in Transnational Criminal Proceedings: Comparative Law Perspectives, Japan: Springer, 2016, p. 43.
5 Fenella M.W. Billing, The Right to Silence in Transnational Criminal Proceedings: Comparative Law Perspectives,
Japan: Springer, 2016, p. 12.
6 Shmuel Leshem, “The Benefits of a Right to Silence for the Innocent,” The RAND Journal of Economics 41, no. 2
(2010), p. 412-413.
7 Xem thêm Scott A. Trainor, “A Comparative Analysis of a Corporation’s Right Against Self-Incrimination,” Fordham
Internaltional Law Journal, Vol. 18, Issue 5 (1994), p.2166-2185
phạm trong tố tụng hình sự được bảo vệ khỏi
sự cưỡng bức về thể chất hoặc tinh thần từ
phía nhà nước trong tố tụng hình sự thông
qua các biện pháp phi chính thức như bức
cung, dùng nhục hình, hoặc bằng các lệnh,
quyết định chính thức5. Vì vậy, quyền im
lặng chính là một công cụ bảo vệ quyền tự
do cá nhân trước quyền lực độc đoán của
nhà nước trong tố tụng hình sự và bảo vệ sự
thật vụ án bằng việc ngăn chặn người vô tội
phải nhận tội6.
Có thể nói, quyền im lặng là một quyền
cơ bản của con người trong tố tụng hình sự
và việc ghi nhận quyền này cho thể nhân
(con người tự nhiên) là một chuẩn mực quốc
tế về bảo vệ quyền con người. Tuy nhiên,
đối với việc trao quyền im lặng cho pháp
nhân phạm tội, hiện nay các quốc gia và các
hệ thống pháp luật có cách nhìn khác nhau
về vấn đề này7.
Tại Hoa Kỳ, vào năm 1906 trong vụ kiện
Hale v. Henkel, Hale là thủ quỹ của Công
ty MacAndrews & Forbes. Hale nhận một
trát hầu tòa (subpoena) ra trước đại bồi thẩm
đoàn (grand jury) liên quan đến cuộc điều
tra về giá thuốc lá theo đạo luật Sherman
1890 đối với Công ty MacAndrews &
Forbes. Hale đã xuất hiện trước đại bồi thẩm
đoàn nhưng đã viện dẫn quyền im lặng của
Tu chính án thứ 5 để từ chối cho lời khai và
từ chối cung cấp một số tài liệu của Công ty
MacAndrews & Forbes theo yêu cầu của đại
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
17Số 23(399) T12/2019
bồi thẩm đoàn bởi lẽ ông cho rằng việc yêu
cầu ông - một nhân viên của công ty - cung
cấp các tài liệu có thể chống lại chính công
ty đó là sự vi phạm của “không ai bị buộc
phải làm chứng chống lại mình trong một vụ
án hình sự”. Do đó, Hale bị kết tội khinh thị
tòa án (contempt) và ông đã nộp đơn kiện để
chống lại đòi hỏi việc ông phải cho lời khai
và cung cấp tài liệu.
Kết quả, Tòa án tối cao Hoa Kỳ đã đưa
ra phán quyết tuyên bố quyền im lặng trong
Tu chính án thứ 5 của Hiến pháp Hoa Kỳ
là một quyền cá nhân (personal right), và vì
vậy một nhân viên không thể viện dẫn quyền
im lặng của pháp nhân để từ chối cho lời
khai. Ngoài ra, Tòa án tối cao còn cho rằng
sự thành lập và hiện hữu của pháp nhân vốn
dựa trên sự chấp thuận của quyền lực nhà
nước thông qua các luật và quy định, do đó
tất cả các quyền và lợi ích của pháp nhân là
do nhà nước ban cho chứ không phải là các
quyền tự nhiên như của thể nhân. Pháp nhân
là một tạo vật của nhà nước8. Vì vậy, việc
cho phép pháp nhân sử dụng quyền im lặng
trong Tu chính án thứ 5 để bảo vệ lợi ích
của pháp nhân trước quyền lực nhà nước là
không có căn cứ9.
Tại Úc, xu hướng áp dụng cũng tương
tự Hoa Kỳ, tức không chấp nhận trao cho
pháp nhân quyền im lặng trong tố tụng
hình sự. Năm 1993, tại vụ kiện Enviroment
Protection Agency v. Caltex Refining Co.,
công ty Caltex Refining được cung cấp giấy
phép để thải ra biển một khối lượng chất thải
nhất định hằng năm. Tháng 3/1990, Caltex bị
cáo buộc đã vi phạm một số quy định trong
giấy phép đó và Cơ quan bảo vệ môi trường
8 Nguyên văn “the corporation is a creature of the State”. Xem tại Hale v. Henkel, 201 U.S. 43 (1906) đoạn thứ 44.
9 Xem thêm Hale v. Henkel, 201 U.S. 43 (1906), đoạn thứ 74-75.
10 Xem Environment Protection Authority v Caltex Refining Co Pty Ltd [1993] HCA 74; 178 CLR 477, đoạn 6, 7 và 8,
https://jade.io/article/67808, truy cập ngày 03/01/2020.
11 Xem thêm Environment Protection Authority v Caltex Refining Co Pty Ltd [1993] HCA 74; 178 CLR 477, đoạn 36,
37, 38 và 39, https://jade.io/article/67808, truy cập ngày 03/01/2020; và Adrienne Stone, “Environment Protection
Authority v. Caltex Refining Co PTY LTD – Corporations and the Privilege Against Self-incrimination [Case Note],”
UNSW Law Journal, Vol. 17 (2) (1994), p.629-633.
Úc đã ra yêu cầu Công ty Caltex cung cấp
một số tài liệu của công ty liên quan đến cáo
buộc trên. Caltex đã nộp đơn kiện để từ chối
cung cấp các tài liệu dựa trên cơ sở yêu cầu
này đã vi phạm quyền im lặng của công ty10.
Cuối cùng, Tòa án cao cấp Úc (the High
Court of Australia) đã ra phán quyết quyền
im lặng không dành cho pháp nhân, do đó,
Công ty Caltex không thể viện dẫn quyền
này để từ chối cung cấp tài liệu của công ty.
Lý giải cho phán quyết này, Tòa án cho rằng,
quyền im lặng về bản chất là một quyền con
người, nhằm bảo vệ người bị buộc tội khỏi
những cách đối xử (tồi tệ) mà chỉ có thể trải
qua bởi con người. Ngoài ra, Tòa án cao cấp
Úc còn khẳng định, điều cốt yếu của quyền
im lặng là nhằm duy trì sự cân bằng về quyền
lực giữa nhà nước và người bị buộc tội trong
tố tụng hình sự, tránh việc người bị buộc tội
ở thế yếu hơn đáng kể trước quyền lực nhà
nước. Pháp nhân, với nền tảng tài chính và
nhân lực, luôn ở một vị thế tốt hơn so với cá
nhân trong khả năng duy trì sự cân bằng về
quyền lực với nhà nước. Vì vậy, việc trao
quyền im lặng cho pháp nhân trong tố tụng
hình sự là không cần thiết11.
Tuy nhiên, Liên minh Châu Âu lại theo
xu hướng ngược lại và chấp nhận quyền im
lặng dành cho pháp nhân trong tố tụng hình
sự. Trong vụ án Orkem SA v. Commission,
Ủy ban Châu Âu đã yêu cầu Công ty Orkem
cung cấp một số tài liệu liên quan đến việc
điều tra về thỏa thuận hạn chế cạnh tranh
(cartel) đối với các chất polyethylene và
PVC. Công ty Orkem đã từ chối và viện dẫn
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
18 Số 23(399) T12/2019
quyền im lặng với lý lẽ việc cung cấp các tài
liệu này có thể dẫn đến việc buộc tội chính
công ty12.
Kết quả, Tòa án Công lý Châu Âu phán
quyết công ty Orkem thắng kiện, và từ đó
đã ghi nhận quyền im lặng của pháp nhân
dựa trên cơ sở quyền im lặng là một quyền
thành tố của quyền bào chữa thay vì xem xét
quyền im lặng như là một quyền độc lập của
cá nhân như xu hướng của Hoa Kỳ và Úc.
Quyền bào chữa là một quyền cơ bản được
bảo vệ bởi luật của Liên minh Châu Âu, và
được áp dụng cho cả thể nhân và pháp nhân.
Chính vì vậy, pháp nhân phải được hưởng
quyền im lặng trên cơ sở được hưởng quyền
bào chữa13.
Như vậy, có thể thấy rằng, việc trao
quyền im lặng cho pháp nhân là một vấn đề
đã được đặt ra trên thế giới và hiện tại có
nhiều quan điểm khác nhau về việc có nên
trao hay không trao cho pháp nhân quyền im
lặng trong tố tụng hình sự.
2. Pháp luật Việt Nam về pháp nhân
phạm tội và việc tham gia tố tụng hình sự
của pháp nhân phạm tội
2.1. Quy định của pháp luật hình sự về
pháp nhân phạm tội
Tội phạm là chế định quan trọng và chủ
yếu của luật hình sự. Nội dung của khái
niệm tội phạm đã “thể hiện một cách rõ nét
12 Xem thêm Scott A. Trainor, “A Comparative Analysis of a Corporation’s Right Against Self-Incrimination,” Fordham
Internaltional Law Journal, Vol. 18, Issue 5 (1994), p.2175-2176.
13 Xem thêm ECJ Case 374/87 (Orkem SA v Commission) [1989] ECR 3283.
14 Xem thêm Đào Trí úc (Chủ biên), Tội phạm học, luật hình sự và tố tụng hình sự Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà
Nội 1994, tr. 157.
15 Xem thêm Nguyễn Ngọc Hoà, Tội phạm trong luật hình sự Việt Nam, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội 1991, tr. 9, 34.
16 Xem thêm: Tờ trình Quốc hội về dự án Bộ luật hình sự (sửa đổi) tháng 4/2015, tr. 28.
17 Qua rà soát, tại thời điểm trình Quốc hội về dự án BLHS (sửa đổi) năm 2015, có 119/173 quốc gia thành viên UNCAC
có quy định về trách nhiệm hình sự của pháp nhân. Trong Hiệp hội các quốc gia ASEAN, có 05 nước chính thức và 02
nước đang trong quá trình xem xét (thời điểm đó có Việt Nam).
bản chất giai cấp, các đặc điểm chính trị xã
hội cũng như những đặc điểm pháp lý của
luật hình sự”14. Đồng thời, nó còn“được xem
như là điều kiện cần thiết có tính nguyên tắc
để giới hạn giữa tội phạm và không phải là
tội phạm, giữa trách nhiệm hình sự và những
trách nhiệm pháp lý khác”15.
Thực tế trên thế giới, vấn đề trách nhiệm
hình sự của pháp nhân đã được ghi nhận
trong pháp luật hình sự của nhiều nước, kể
cả Trung Quốc cũng đã có quy định trách
nhiệm hình sự đối với pháp nhân.
Tại Việt Nam, vấn đề này cũng đã được
đặt ra từ khi xây dựng BLHS năm 1999. Tuy
nhiên, vào thời điểm đó, tình hình vi phạm
của pháp nhân, nhất là trong các lĩnh vực
kinh tế, môi trường,... chưa đến mức nghiêm
trọng và phổ biến như hiện nay. Ngoài ra, ở
thời điểm đó cũng chưa xác định rõ phạm
vi trách nhiệm và loại pháp nhân phải chịu
trách nhiệm hình sự. Hơn nữa, trách nhiệm
hình sự của pháp nhân là một vấn đề phức
tạp, cần có thời gian nghiên cứu thấu đáo
hơn về mặt lý luận và thực tiễn. Do vậy,
BLHS năm 1999 chưa quy định trách nhiệm
hình sự của pháp nhân16.
Việc bổ sung chế định trách nhiệm hình
sự của pháp nhân vào BLHS năm 2015
không chỉ xuất phát từ yêu cầu cấp bách
của thực tiễn mà còn trên cơ sở tham khảo
kinh nghiệm quốc tế17 và là kết quả của gần
16 năm (từ 1999 đến 2015) kiên trì, bền bỉ
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
19Số 23(399) T12/2019
nghiên cứu, đề xuất của Chính phủ và đã
được Quốc hội chấp thuận nhằm góp phần
khắc phục những bất cập, hạn chế trong việc
xử lý các vi phạm pháp luật của pháp nhân
trong thời gian qua, nhất là những vi phạm
trong các lĩnh vực kinh tế và môi trường,
đồng thời tạo điều kiện bảo vệ tốt hơn quyền
lợi của người bị thiệt hại do các vi phạm của
pháp nhân gây ra.
Bên cạnh việc xuất phát từ đáp ứng yêu
cầu thực tiễn, việc quy định trách nhiệm
hình sự của pháp nhân cũng xuất phát từ
ba lý do sau đây: Một là, mặc dù Việt Nam
đã có chế tài xử lý hành chính để xử lý các
pháp nhân có hành vi vi phạm, và mặc dù
việc xử lý bằng hình thức xử phạt vi phạm
hành chính có thể đáp ứng tính kịp thời,
nhưng lại không giải quyết được triệt để và
răn đe các đối tượng có hành vi vi phạm;
Hai là, việc quy định trách nhiệm hình sự
của pháp nhân cũng đảm bảo tính công bằng
trong việc xử lý tội phạm, tránh trường hợp
cá nhân lợi dụng danh nghĩa tập thể, trốn
tránh trách nhiệm dưới danh nghĩa của công
ty, của doanh nghiệp để thực hiện hành vi
phạm tội; Ba là, với tư cách là quốc gia
thành viên APG,18 nước ta có trách nhiệm
thực hiện đầy đủ các Khuyến nghị của Lực
lượng đặc nhiệm tài chính về chống rửa tiền
(FATF), trong đó có Khuyến nghị 2 liên
quan đến việc “quy định trách nhiệm hình
sự đối với pháp nhân”. Hơn nữa, trong điều
kiện hội nhập kinh tế quốc tế ngày nay, nếu
Việt Nam chỉ áp dụng cơ chế xử phạt hành
chính đối với pháp nhân vi phạm thì sẽ có sự
bất công khi cùng hành vi vi phạm nghiêm
18 APG là tên viết tắt của nhóm Châu Á-Thái Bình Dương về phòng, chống rửa tiền và chống tài trợ khủng bố.
19 Điều 435 Bộ luật tố tụng hình sự 2015.
20 Nguyễn Hòa Bình, “Tổng quan những nội dung lớn sửa đổi, bổ sung trong Bộ luật Tố tụng hình sự 2015,” trong Những
nội dung mới của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, Nguyễn Hòa Bình (Chủ biên), Hà Nội: Nxb. Chính trị quốc gia –
sự thật, Hà Nội, 2016, tr. 35.
trọng tương tự nhau mà doanh nghiệp nước
ta hoạt động ở nước ngoài thì có thể bị xử lý
hình sự theo pháp luật của nước sở tại, còn
đối với doanh nghiệp hoạt động ở nước ta thì
chỉ bị xử phạt hành chính.
2.2. Pháp luật tố tụng hình sự về sự tham
gia tố tụng của pháp nhân phạm tội
Có thể thấy rằng, khác với thể nhân, pháp
nhân không thể tự mình tham gia tố tụng hình
sự mà phải thông qua người đại diện theo
pháp luật. Vì vậy, Bộ luật Tố tụng hình sự
năm 2015 (BLTTHS năm 2015) đã bổ sung
chế định về người đại diện theo pháp luật của
pháp nhân; đồng thời, quy định rõ các quyền
và nghĩa vụ của cá nhân trong quá trình tham
gia tố tụng hình sự với tư cách là người đại
diện của pháp nhân19. Pháp nhân, thông qua
một cá nhân cụ thể, thể hiện ý chí của mình,
có quyền đưa ra các lý lẽ, lập luận, đưa ra lời
khai, ý kiến, chứng cứ, đồ vật, tài liệu.. để
bảo vệ cho pháp nhân trong quá trình tham
gia tố tụng hình sự.
Theo đó, khi xác định có dấu hiệu tội
phạm do pháp nhân thực hiện, cơ quan tố
tụng phải khởi tố vụ án hình sự. Quá trình
tham gia tố tụng của pháp nhân, ngay từ
những giai đoạn đầu tiên được thông qua
người đại diện theo pháp luật của pháp
nhân20. Khoản 1 Điều 434 BLTTHS quy
định: “Mọi hoạt động tố tụng của pháp nhân
bị truy cứu trách nhiệm hình sự được thông
qua người đại diện theo pháp luật của pháp
nhân. Pháp nhân phải cử và bảo đảm cho
người đại diện theo pháp luật của mình tham
gia đầy đủ các hoạt động khởi tố, điều tra,
truy tố, xét xử, thi hành án theo yêu cầu của
cơ quan, người có thẩm quyền”.
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
20 Số 23(399) T12/2019
Để thống nhất với khái niệm tội phạm tại
Điều 8 của BLHS năm 2015, khái niệm bị
can, bị cáo trong BLTTHS cũng được quy
định bao gồm cả thể nhân và pháp nhân.
Khoản 1 Điều 60 BLTTHS năm 2015 quy
định bị can là người hoặc pháp nhân bị khởi
tố về hình sự. Quyền và nghĩa vụ của bị can
là pháp nhân được thực hiện thông qua người
đại diện theo pháp luật của pháp nhân theo
quy định của BLTTHS. Khoản 1 Điều 61 của
Bộ luật này cũng quy định bị cáo là người
hoặc pháp nhân đã bị Tòa án quyết định đưa
ra xét xử. Quyền và nghĩa vụ của bị cáo là
pháp nhân được thực hiện thông qua người
đại diện theo pháp luật của pháp nhân theo
quy định của BLTTHS.
Theo quy định của Bộ luật dân sự năm
2015 (BLDS năm 2015), đại diện là việc cá
nhân, pháp nhân (sau đây gọi chung là người
đại diện) nhân danh và vì lợi ích của cá nhân
hoặc pháp nhân khác xác lập, thực hiện giao
dịch dân sự (Điều 134). BLDS cũng liệt kê ba
trường hợp có thể người đại diện theo pháp
luật của pháp nhân, theo đó, (1) người được
pháp nhân chỉ định theo điều lệ; (2) người có
thẩm quyền đại diện theo quy định của pháp
luật; (3) người do Tòa án chỉ định trong quá
trình tố tụng tại Tòa án (Điều 137). BLHS
cũng không giới hạn số lượng người đại
diện của pháp nhân, theo đó, một pháp nhân
có thể có nhiều người đại diện theo pháp luật
và mỗi người đại diện có quyền đại diện cho
pháp nhân theo quy định tại Điều 140 và
Điều 141 của BLDS năm 2015.
Người đại diện theo pháp luật của pháp
nhân tham gia tố tụng là người do pháp luật
hoặc do cơ quan nhà nước có thẩm quyền
quy định để đại diện cho pháp nhân thực
21 Trịnh Quốc Toản, “Nghiên cứu một số quy định đặc thù về thủ tục tố tụng hình sự đối với pháp nhân trong Bộ luật tố
tụng hình sự năm 2015,” Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Luật học, Tập 34, Số 3(2018), tr. 11-25.
hiện các quyền và nghĩa vụ phát sinh từ giao
dịch của pháp nhân, đại diện cho pháp nhân
với tư cách nguyên đơn, bị đơn, người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trước Trọng
tài, Tòa án và các quyền và nghĩa vụ khác
theo quy định của pháp luật. Người đại diện
theo pháp luật của pháp nhân thường giữ
những chức vụ quan trọng trong pháp nhân
như Chủ tịch Hội đồng thành viên/Hội đồng
quản trị, Tổng Giám đốc, Giám đốc. Với
mỗi loại hình công ty, người đại diện theo
pháp luật sẽ giữ các chức danh khác nhau21.
3. Quyền im lặng của pháp nhân phạm tội
trong tố tụng hình sự tại Việt Nam
Điều 60 và Điều 61 BLTTHS năm 2015
quy định rõ bị can, bị cáo có quyền “không
buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính
mình hoặc buộc nhận mình có tội”. Bên cạnh
đó, theo quy định của Điều 435 BLTTHS
năm 2015, người đại diện có quyền “không
buộc phải đưa ra lời khai chống lại pháp
nhân mà mình đại diện hoặc buộc phải thừa
nhận pháp nhân mà mình đại diện có tội”.
Như vậy, có thể khẳng định, pháp luật TTHS
Việt Nam đã theo xu hướng của Liên minh
Châu Âu, chấp nhận trao quyền im lặng cho
pháp nhân thương mại phạm tội trong tố tụng
hình sự, và quyền này được thực hiện thông
qua người đại diện theo pháp luật của pháp
nhân.
Theo quy định của pháp luật TTHS,
quyền im lặng của pháp nhân đã được
chuyển giao qua người đại diện của pháp
nhân. Tuy nhiên, ở đây cần lưu ý một số vấn
đề sau:
Thứ nhất, mục tiêu của quyền im lặng là
nhằm bảo vệ người bị buộc tội trước tình
trạng dùng nhục hình của cơ quan điều tra
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
21Số 23(399) T12/2019
nhằm thu thập lời khai, đặc biệt là trong
trường hợp người bị buộc tội bị tạm giữ,
tạm giam22. Tuy nhiên, người đại diện của
pháp nhân phạm tội không thể bị áp dụng
các biện pháp ngăn chặn bắt, tạm giữ, tạm
giam, và bị cách ly khỏi đời sống xã hội.
Mặt khác, người đại diện của pháp nhân
phạm tội thường nhận được sự hỗ trợ từ lực
lượng luật sư tư nhân, hoặc từ bộ phận pháp
lý của pháp nhân, bởi nguồn tài lực dồi dào
so với cá nhân bị buộc tội. Do đó, nguy cơ
người đại diện của pháp nhân phạm tội có
khả năng bị bức cung, dùng nhục hình trong
quá trình thẩm vấn lấy lời khai là rất thấp,
nếu không muốn nói là hoàn toàn không có.
Vì vậy, việc quy định pháp nhân phạm tội có
quyền im lặng, và quyền im lặng được thực
hiện thông qua người đại diện nhằm mục
đích chống bức cung, nhục hình trong khi
thẩm vấn là hoàn toàn không cần thiết.
Thứ hai, tuy người đại diện của pháp nhân
đại diện cho pháp nhân tham gia tố tụng,
nhưng cơ quan có quyền quyết định mọi hoạt
động, thể hiện ý chí của pháp nhân thương
mại là chủ sở hữu công ty (nếu là công ty
trách nhiệm hữu hạn một thành viên), Hội
đồng thành viên (nếu là công ty trách nhiệm
hữu hạn hai thành viên trở lên), và Đại hội
đồng cổ đông hoặc Hội đồng quản trị (nếu là
công ty cổ phần). Quan trọng hơn, BLTTHS
năm 2015 cho phép cơ quan tiến hành tố
tụng chỉ định người đại diện theo pháp luật
của pháp nhân phạm tội trong trường hợp có
nhiều người đại diện khác nhau23. Mặt khác,
thông thường, khi một pháp nhân thương
mại thực hiện hành vi phạm tội thì người đại
22 Lê Kiên, “Tranh luận sôi nổi về quyền im lặng,” Báo điện tử Tuổi Trẻ, ngày 28/5/2015,
xa-hoi/20150528/tranh-luan-soi-noi-ve-quyen-im-lang/753264.html, truy cập ngày 09/9/2019.
23 Khoản 1 Điều 434 Bộ luật tố tụng hình sự 2015.
24 Xem thêm Võ Minh Kỳ, “Quyền im lặng và hành vi tự buộc tội trong tố tụng hình sự: Cách tiếp cận của Hoa Kỳ và kinh
nghiệm cho Việt Nam,” Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 9 (353), 2017, tr. 27-31.
diện theo pháp luật của pháp nhân đó đều có
khả năng liên quan, trực tiếp hoặc gián tiếp,
đến hành vi phạm tội của pháp nhân, thậm
chí có thể chịu trách nhiệm hình sự cá nhân.
Như vậy, có thể thấy, pháp nhân và người
đại diện của pháp nhân là hai chủ thể độc lập
với nhau, có khả năng xung đột lợi ích với
nhau trong cùng một vụ án hình sự.
Bên cạnh đó, quan trọng hơn, pháp nhân
thương mại là một tổ chức có cơ cấu tổ
chức chặt chẽ, với nhiều cá nhân, tổ chức
bên trong pháp nhân đó với tư cách là chủ
sở hữu, nhân viên, và người lao động khác.
Khi một cuộc điều tra hình sự xảy ra đối với
một pháp nhân thương mại cụ thể, nhiều khả
năng các cá nhân, tổ chức bên trong pháp
nhân đó sẽ được lấy lời khai nhưng các cá
nhân này lại không có quyền im lặng để từ
chối cung cấp các thông tin gây bất lợi cho
pháp nhân của mình. Có thể thấy, các cá
nhân đó thuộc về pháp nhân, là một bộ phận
cấu thành nên pháp nhân nhưng lại không có
quyền từ chối cung cấp các thông tin mang
tính buộc tội pháp nhân đã xâm phạm phần
nào đến quyền im lặng của pháp nhân trên
thực tế.
Thứ ba, căn cứ theo phân tích câu từ của
BLTTHS năm 2015, phạm vi tác động của
quyền im lặng chỉ bao gồm lời khai chống lại
mình và lời nhận tội (gọi chung là lời khai).
Có nghĩa là, quyền im lặng tại BLTTHS
năm 2015 chỉ có phạm vi tác động đến lời
khai mà không bảo vệ các hành vi mang tính
chất tự buộc tội, cụ thể là hành vi cung cấp
tài liệu mang tính buộc tội chính mình24.
Như vậy, quyền im lặng của pháp nhân tại
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
22 Số 23(399) T12/2019
Việt Nam cũng chỉ giới hạn đến phạm vi là
lời khai, lời nhận tội của người đại diện theo
pháp luật của pháp nhân. Có thể thấy, nếu
một pháp nhận bị buộc tội bị yêu cầu cung
cấp tài liệu có chứa nội dung mang tính buộc
tội chính mình, pháp nhân đó không thể
viện dẫn quyền im lặng của mình để từ chối
cung cấp.
Trong khi đó, như đã phân tích ở trên, khi
xem xét đến các hệ thống pháp luật khác trên
thế giới về quyền im lặng của pháp nhân,
vấn đề chủ yếu cần xem xét không chỉ là
pháp nhân hoặc người của pháp nhân đó có
bị buộc phải cung cấp lời khai hoặc lời nhận
tội buộc tội pháp nhân hay không, mà quan
trọng hơn là xem xét pháp nhân hoặc nhân
viên của pháp nhân có bị buộc phải cung cấp
các tài liệu mang tính buộc tội chính pháp
nhân đó hay không. Cách tiếp cận này phù
hợp với tính chất cơ bản của pháp nhân -
một tổ chức - chứ không phải là một con
người tự nhiên. Hành vi của tổ chức đó khác
với hành vi của cá nhân là ở chỗ, các hành
vi của tổ chức được thể hiện rất nhiều thông
qua các tài liệu nội bộ của tổ chức, được
lưu trữ bởi các bộ phận hoặc người có thẩm
quyền trong tổ chức. Do đó, việc buộc một
pháp nhân phải cung cấp tài liệu có chứa nội
dung mang tính buộc tội chính mình về bản
chất là sự xâm phạm đến quyền im lặng của
pháp nhân.
Từ các phân tích trên, có thể khẳng định,
việc BLTTHS năm 2015 trao cho pháp nhân
quyền im lặng là không cần thiết. Đồng thời,
việc chuyển giao quyền im lặng của pháp
nhân chỉ cho riêng người đại diện theo pháp
luật, và giới hạn phạm vi quyền im lặng
đến lời khai, lời nhận tội có khả năng khiến
quyền im lặng của pháp nhân bị vô hiệu hóa
trên thực tế.
4. Kiến nghị và kết luận
Trên cơ sở các phân tích trên, chúng tôi
cho rằng, cần hoàn thiện chế định về quyền
im lặng của pháp nhân phạm tội trong TTHS
của Việt Nam theo hai hướng sau:
Hướng thứ nhất, có thể bỏ hẳn quyền im
lặng của pháp nhân trong tố tụng hình sự.
Bởi lẽ, việc quy định quyền này cho pháp
nhân là không cần thiết và không phù hợp
với mục đích chống bức cung, nhục hình
trong quá trình thẩm vấn. Đồng thời, việc
sao chép cơ học các quy định này từ quyền
của thể nhân sang quyền của pháp nhân
cũng khiến các quy định này không có tác
dụng trên thực tế mà phát sinh ra nhiều vấn
đề pháp lý phức tạp, khó giải quyết.
Hướng thứ hai, trong trường hợp giữ lại
quyền im lặng cho pháp nhân, thì cần thiết
phải chuyển giao lại quyền im lặng của pháp
nhân cho chính pháp nhân đó chứ không thể
chỉ giao cho người đại diện của pháp nhân.
Đồng thời, bổ sung quy định cho bất kỳ
thành viên nào là người của pháp nhân cũng
có quyền viện dẫn quyền im lặng này để từ
chối cung cấp thông tin, lời khai mang tính
buộc tội pháp nhân. Điều này đảm bảo cho
pháp nhân, một tổ chức gồm nhiều thành
viên bên trong, được hưởng trọn vẹn quyền
im lặng mang tính tổng thể cho cả pháp
nhân và tính cá thể cho từng người của pháp
nhân. Đồng thời, cần bổ sung hành vi cung
cấp tài liệu liên quan có nội dung buộc tội
chính mình trong phạm vi bảo vệ của quyền
im lặng của pháp nhân. Theo đó, pháp nhân
có quyền giữ im lặng, không bị buộc phải
nhận tội hoặc cung cấp tài liệu, chứng cứ
chống lại mình. Quy định này nhằm cụ thể
hóa quyền im lặng phù hợp với tính chất của
pháp nhân và cách thức tổ chức, hoạt động
của pháp nhân
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
23Số 23(399) T12/2019
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. International Covenant on Civil and Political Rights 1966.
2. Adrienne Stone, “Environment Protection Authority v. Caltex Refining Co PTY LTD – Corporations and
the Privilege Against Self-incrimination [Case Note],” UNSW Law Journal, Vol. 17 (2) (1994).
3. Đào Trí úc (Chủ biên), Tội phạm học, luật hình sự và tố tụng hình sự Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia,
Hà Nội 1994.
4. Đinh Văn Quế, Bình luận Khoa học BLHS 1999 – Phần chung, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, 2000.
5. ECJ Case 374/87 (Orkem SA v Commission) [1989] ECR 3283.
6. Ed Cape et al., Effective Criminal Defence in Europe,Oxford: Intersentia, 2010.
7. Environmental Protection Authority v. Caltex Refining Co., 118 A.L.R. 392, 392 (1993) (Austl.).
8. Fenella M.W. Billing, The Right to Silence in Transnational Criminal Proceedings: Comparative Law
Perspectives, Japan: Springer, 2016.
9. Hale v. Henkel, 201 U.S. 43 (1906).
10. John Murray v. The United Kingdom, Application no. 18731/91, (ECtHR, 8 Feb 1996)
11. Lê Kiên, “Tranh luận sôi nổi về quyền im lặng,” Báo điện tử Tuổi Trẻ, ngày 28/5/2015,
vn/tin/chinh-tri-xa-hoi/20150528/tranh-luan-soi-noi-ve-quyen-im-lang/753264.html, truy cập ngày 09/9/2019.
12. Nguyễn Hòa Bình, “Tổng quan những nội dung lớn sửa đổi, bổ sung trong Bộ luật Tố tụng hình sự
2015”, trong Những nội dung mới của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, Nguyễn Hòa Bình (Chủ biên), Nxb.
Chính trị quốc gia – sự thật, Hà Nội, 2016.
Nguyễn Ngọc Hoà, Tội phạm trong luật hình sự Việt Nam, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, 1991
Saunders v. The United Kingdom, Application no. 19187/91 (ECtHR, 17 Dec 1996)
Scott A. Trainor, “A Comparative Analysis of a Corporation’s Right Against Self-Incrimination,” Fordham
Internaltional Law Journal, Vol. 18, Issue 5 (1994), p.2139-2186
Shmuel Leshem, “The Benefits of a Right to Silence for the Innocent,” The RAND Journal of Economics
41, no. 2 (2010), p. 398-416.
Tờ trình Quốc hội về dự án Bộ luật hình sự sửa đổi (tháng 4/2015)
Trịnh Quốc Toản, “Nghiên cứu một số quy định đặc thù về thủ tục tố tụng hình sự đối với pháp nhân trong
Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015,” Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Luật học, Tập 34, Số 3(2018), tr. 11-25
United Nations, Status of Ratification: Interactive Dashboard, [truy cập ngày
01/9/2019]
Võ Minh Kỳ, “Quyền im lặng và hành vi tự buộc tội trong tố tụng hình sự: Cách tiếp cận của Hoa Kỳ và kinh
nghiệm cho Việt Nam,” Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 9 (353), 2017, tr. 27-31
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
24 Số 23(399) T12/2019
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- quyen_im_lang_cua_phap_nhan_pham_toi_trong_to_tung_hinh_su.pdf