Quản lý hoạt động của hội
Dự thảo quy định các vấn đề liên quan
đến quản lý nhà nước về hoạt động của hội
tại Điều 39 và Điều 40 là quá cồng kềnh,
phức tạp. Theo đó, Bộ Nội vụ và bộ chủ
quản đều có quyền quản lý hoạt động của
hội theo hướng, hội hoạt động trong lĩnh vực
nào thì bộ chủ quản trong lĩnh vực đó cũng
có thẩm quyền quản lý hội bằng các hoạt
động thanh tra, kiểm tra, giám sát. Điều này
không phù hợp với xu thế phát triển của xã
hội nói chung cũng như của nền kinh tế thị
trường. Bởi lẽ, hội là pháp nhân dân sự, hội
hoạt động cũng giống như cá nhân, công
dân, pháp nhân, doanh nghiệp đều phải tuân
thủ pháp luật nói chung và luật chuyên
ngành. Do vậy, các bộ chuyên ngành có
thẩm quyền quản lý đối với các hoạt động
của các tổ chức trong lĩnh vực bộ, ngành
quản lý là điều đương nhiên. Chính vì vậy,
Dự thảo có quy định về quyền thanh tra,
kiểm tra sẽ tạo nên sự phức tạp, rườm rà
trong quản lý nhà nước
7 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 25/01/2022 | Lượt xem: 242 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Quyền lập hội trong luật quốc tế và pháp luật một số nước, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
QUYÏÌN LÊÅP HÖÅI TRONG LUÊÅT QUÖËC TÏË
VAÂ PHAÁP LUÊÅT MÖÅT SÖË NÛÚÁC
NGô hữu PhướC*
Trên cơ sở phân tích, làm sáng tỏ các quy định về quyền tự do lập hội (TDLH)
trong Công ước về Quyền TDLH và bảo vệ quyền lập hội năm 1948 (Công ước
TDLH) của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO); Tuyên ngôn thế giới về Quyền con
người năm 1948; Công ước quốc tế về các Quyền dân sự và chính trị của Liên
hiệp quốc (LHQ) năm 1966 và Luật về Hội của một số nước trên thế giới như Cộng
hòa Pháp, Thụy Điển, Slovakia, Slovenia, Bồ Đào Nha, Ba Lan, Hungary.... và
các quy định về quyền TDLH trong hệ thống pháp luật Việt Nam từ năm 1946 đến
nay, bài viết đề xuất một số ý kiến góp phần xây dựng và hoàn thiện Dự thảo Luật
về Hội dự kiến trình Quốc hội thông qua tại kỳ họp thứ hai, Quốc hội khoá XIV.
1. Quyền lập hội trong các văn kiện quốc tế
Lời nói đầu của Nghị quyết số 15/21 của
Hội đồng Nhân quyền ngày 30/9/2010 đã
ghi nhận, quyền TDLH là một trong những
quyền cơ bản của con người trong một xã
hội dân chủ. Bởi vì, quyền TDLH sẽ cho
phép các thành viên “bày tỏ quan điểm
chính trị, tham gia vào các mục tiêu văn học,
nghệ thuật và các hoạt động kinh tế, xã hội
và văn hóa khác, tham gia vào việc thờ
phụng tôn giáo và các niềm tin khác, hình
thành và gia nhập các tổ chức công đoàn và
hợp tác xã, bầu chọn những người lãnh đạo
đại diện cho mình và buộc họ phải chịu trách
nhiệm”. Đồng thời, Nghị quyết này cũng “1.
Kêu gọi các quốc gia tôn trọng và bảo vệ
đầy đủ quyền của mọi cá nhân hội họp hòa
bình và lập hội một cách tự do, bao gồm liên
quan đến các cuộc bầu cử, bao gồm những
người có quan điểm hay niềm tin bất đồng
hoặc thiểu số, những người bảo vệ nhân
quyền, những người hoạt động công đoàn và
những người khác, bao gồm lao động di trú,
muốn thực thi hoặc thúc đẩy các quyền này,
và thực hiện mọi biện pháp cần thiết để bảo
đảm rằng bất kỳ hạn chế nào đối với việc
thực thi tự do hội họp hòa bình và lập hội
phải phù hợp với các nghĩa vụ của mình theo
luật quốc tế về nhân quyền; ... 3. Khuyến
khích xã hội dân sự, bao gồm các tổ chức
phi chính phủ và các chủ thể khác, thúc đẩy
việc thụ hưởng các quyền hội họp hòa bình
và lập hội, ghi nhận rằng xã hội dân sự hỗ
trợ việc đạt được các mục tiêu và nguyên tắc
của LHQ”1.
Về phương diện pháp luật quốc tế, cùng
với quyền tự do hội họp hòa bình, quyền
TDLH lần đầu tiên được ghi nhận và quy
* TS. Phó trưởng Khoa luật Quốc tế, Trưởng bộ môn Công pháp quốc tế, Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh.
1 Xem toàn văn của Nghị quyết số 15/21 của Hội đồng Nhân quyền ngày 30/9/2010 tại địa chỉ website:
58
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁP Söë 21(325) T11/2016
KINH NGHIÏåM QUÖËC TÏË
định trong Tuyên ngôn thế giới về Quyền
con người năm 1948, Công ước về TDLH
và bảo vệ quyền lập hội của ILO năm 1948
và Công ước quốc tế về các Quyền dân sự
và chính trị của LHQ năm 1966.
Điều 20 của Tuyên ngôn thế giới về
Quyền con người quy định: “Mọi người đều
có quyền tự do hội họp và lập hội một cách
ôn hòa. Không ai bị ép buộc phải tham gia
vào bất cứ tổ chức nào”. Công ước quốc tế
của LHQ về các Quyền dân sự và chính trị
năm 1966 tiếp tục khẳng định và cụ thể hóa
nội dung Điều 20 của Tuyên ngôn thế giới
về Quyền con người tại Điều 222.
Với tính cách là một Điều ước chuyên
ngành về lĩnh vực lao động, Công ước về
TDLH và bảo vệ quyền lập hội năm 19483
đã quy định khá cụ thể quyền lập hội và bảo
vệ quyền lập hội của người lao động trên
toàn thế giới. Theo Công ước, “Người lao
động và người sử dụng lao động, không bị
phân biệt về bất cứ yếu tố gì, đều có quyền
thành lập, chỉ phải tuân theo các quy định tổ
chức liên quan, và gia nhập các tổ chức mà
họ tự lựa chọn mà không cần phải xin phép
trước”4. Đồng thời, Công ước cũng yêu cầu,
“Các cơ quan công quyền phải kiềm chế bất
cứ can thiệp nào mà có thể hạn chế quyền
này hay ngăn cản việc thực thi quyền này
theo pháp luật”5. Bên cạnh đó, Công ước
còn quy định, “Các tổ chức của người lao
động và người sử dụng lao động không thể
bị giải tán hay tạm ngưng hoạt động bởi cơ
quan hành chính”6. Do vậy,“Luật của quốc
gia sở tại cũng không thể hạn chế, hay áp
dụng theo cách hạn chế những bảo đảm mà
Công ước này nêu ra”7. Đồng thời, “Mỗi
thành viên của ILO mà Công ước này có
hiệu lực đều phải cam kết thực hiện các biện
pháp cần thiết phù hợp để đảm bảo cho
người lao động và người sử dụng lao động
có thể tự do thực hiện quyền lập hội”8.
Có thể khẳng định rằng, quyền TDLH
là quyền rất quan trọng của con người trong
xã hội dân sự nhằm bảo đảm cho những
người cùng xu hướng, sở thích, ý chí, lý
tưởng, quan điểm được giao lưu, gặp gỡ,
tiếp xúc với nhau. Tuy nhiên, về phương
diện pháp luật, khi thực hiện các quyền này
phải theo khuôn khổ của pháp luật của quốc
gia. Có nghĩa là, khi thực hiện quyền lập hội
phải đảm bảo không xâm hại đến lợi ích
quốc gia, lợi ích xã hội và lợi ích của những
người khác trong cộng đồng.
Ở Việt Nam, quyền tự do hội họp, lập
hội của công dân lần đầu tiên được quy định
tại Điều 10 Hiến pháp năm 19469. Trên cơ
sở đó, ngày 20/5/1957, Chủ tịch nước Việt
Nam dân chủ cộng hòa đã ký Sắc lệnh số
102/SL/L004 ban hành Luật về Hội. Các
bản Hiến pháp năm 195910, năm 198011, năm
2 Xem toàn văn Công ước quốc tế về các Quyền dân sự và chính trị của LHQ năm 1966 tại địa chỉ website:
phapluat.vn/van-ban/Linh-vuc-khac/Cong-uoc-quoc-te-ve-quyen-dan-su-va-chinh-tri-270274.aspx.
3 Xem toàn văn Công ước về TDLH tại địa chỉ website:
87-nam-1948-quyen-tu-do-hiep-hoi-bao-ve-quyen-duoc-to-chuc-103343.aspx.
4 Khoản 1 Điều 3 Công ước về TDLH.
5 Khoản 2 Điều 3 Công ước về TDLH
6 Điều 4 Công ước về TDLH
7 Khoản 2 Điều 8 Công ước về TDLH
8 Điều 8 Công ước về TDLH.
9 Điều thứ 10 Hiến pháp năm 1946 quy định: “Công dân Việt Nam có quyền: tự do ngôn luận; tự do xuất bản; tự do tổ
chức và hội họp; tự do tín ngưỡng; tự do cư trú, đi lại trong nước và ra nước ngoài”.
10 Điều 25 Hiến pháp năm 1959 quy định: “Công dân nước Việt Nam dân chủ cộng hoà có các quyền tự do ngôn luận, báo
chí, hội họp, lập hội và biểu tình. Nhà nước bảo đảm những điều kiện vật chất cần thiết để công dân được hưởng các
quyền đó”.
11 Điều 67 Hiến pháp năm 1980 quy định: “Công dân có các quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do hội họp, tự do lập
hội, tự do biểu tình, phù hợp với lợi ích của chủ nghĩa xã hội và của nhân dân. Nhà nước tạo điều kiện vật chất cần thiết
để công dân sử dụng các quyền đó. Không ai được lợi dụng các quyền tự do dân chủ để xâm phạm lợi ích của Nhà nước
và của nhân dân”.
59
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁPSöë 21(325) T11/2016
KINH NGHIÏåM QUÖËC TÏË
199212 và Hiến pháp năm 2013 đều kế thừa
và ghi nhận quyền TDLH là một trong
quyền cơ bản của công dân. Điều 25 Hiến
pháp năm 2013 quy định,“Công dân có
quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp
cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình.
Việc thực hiện các quyền này do pháp luật
quy định”.
2. Pháp luật một số quốc gia về quyền tự
do lập hội
a. Cơ sở pháp lý ghi nhận về quyền
TDLH
Quyền TDLH được ghi nhận trong Hiến
pháp hầu hết các quốc gia trên thế giới với
tính cách là một quyền cơ bản và quan trọng
của công dân. Trên cơ sở Hiến pháp, nhiều
nước ban hành một đạo luật riêng về hội,
xuất phát từ quan điểm pháp lý cho rằng đặc
thù của các hội là tổ chức hoạt động phi lợi
nhuận, như Anh (Luật về Liên kết năm
1825, Luật Công đoàn năm 1871), Cộng
hòa Pháp (Luật về Hợp đồng hội năm
190113), Cộng hòa liên bang Đức (Luật về
Thành lập hội năm 1964), Mauritanie (Luật
về Hội năm 196414), Roumanie (Luật về Hội
năm 1921), Slovenia (Luật về Hội năm
1995)15, Đến cuối thập niên 1980, làn
sóng dân chủ ở Đông Âu tăng mạnh cùng
với sự chấm dứt của chiến tranh lạnh đã tạo
môi trường mới để nhiều quốc gia trong khu
vực này ban hành các Luật về Hội hiện đại
và cởi mở hơn như: Luật về Hội của Ba Lan
năm 1989, Luật về Hội của Hungary năm
1989, Luật về Tổ chức phi chính phủ của
Liên bang Nga năm 2006
Trong khi đó, xuất phát từ quan niệm
cho rằng TDLH cũng là một dạng của tự do
thỏa thuận hợp đồng, và hội là do các cá
nhân cùng thỏa thuận thành lập, một số nước
lại quy định quyền TDLH trong Luật Dân
sự, như Thái Lan, Hàn Quốc, Hà Lan, Bồ
Đào Nha
Ở các nước trong khu vực ASEAN,
khuôn khổ pháp lý về hội của các quốc gia
nhìn chung vẫn còn hạn chế, mặc dù các
quốc gia trong khu vực hầu hết đã ban hành
các đạo luật riêng về hội như: Luật về Hội
của Việt Nam năm 195716, Luật về Hội của
Malaysia năm 1996, Luật Tổ chức xã hội
của Indonesia năm 2013, Luật về Đăng ký
hội của Myanmar năm 2014
b. Các nội dung cơ bản của Luật về
Hội một số nước
Về tên gọi
Tên của luật là “Luật về Hội” chiếm đa
số. Ở Việt Nam hiện nay đang có quan điểm
cho rằng, nên đặt tên Luật này là “Luật về
Lập hội”17. Tuy nhiên, theo chúng tôi, đặt
tên của Luật là “Luật về Hội” sẽ phù hợp với
nội dung và bao quát được phạm vi điều
chỉnh của luật là tổng thể các vấn đề pháp lý
liên quan đến lập hội, tổ chức, hoạt động của
hội, quản lý nhà nước về hội, đăng ký và
quản lý hoạt động của tổ chức phi chính phủ
nước ngoài tại Việt Nam theo quy định tại
Điều 1 Dự thảo về phạm vi điều chỉnh.
12 Điều 69 Hiến pháp năm 1992 quy định: “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí; có quyền được thông tin;
có quyền hội họp, lập hội, biểu tình theo quy định của pháp luật”.
13 Nguyên bản tiếng Pháp là: Loi relative au contra d’association (Luật về Hợp đồng hội); Xem toàn văn nội dung của Luật
này tại địa chỉ website: https://www.service-public.fr/associations/vosdroits/R2631.
14 Xem toàn văn của Luật này tại địa chỉ website:
98-Associations.pdf.
15 Xem nội dung các Luật về Hội các nước châu Âu tại địa chỉ website: https://books.google.com.vn/ books?id=
yDdQ73BfT9AC&pg=PA212&lpg=PA212&dq=Loi+de+la+Pologne+sur+les+associations+de+1989&source=bl&ots=i-
epJ1ZMqd&sig=X3gU-f5_jg0dnAnrJAcn4DvFbo0&hl =en&sa=X&ved=0ahUKEwiU186EhsXPAhXGupQKHY8aBcMQ6AEI-
ITAB#v=onepage&q=Loi%20de%20la%20Pologne%20sur%20les%20associations%20de%201989&f=false.
16 Luật số 102-SL/L004 ngày 20/5/1957 của Việt Nam dân chủ cộng hòa.
17 Một số ý kiến góp ý cho Dự thảo Luật về Hội tại địa chỉ website của Viện Khoa học Pháp lý, Bộ Tư pháp tại địa chỉ website:
60
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁP Söë 21(325) T11/2016
KINH NGHIÏåM QUÖËC TÏË
Phạm vi điều chỉnh của Luật về Hội
Luật về Hội các quốc gia thường quy
định về các hội, hiệp hội và thường không
áp dụng đối với các tổ chức tôn giáo, đảng
phái chính trị. Tuy nhiên, một số quốc gia
xác định phạm vi điều chỉnh rất rộng. Ví dụ,
Luật về Hội của Hungary năm 1989 quy
định chung cho các tổ chức xã hội dân sự,
bao gồm cả các đảng phái chính trị hay các
tổ chức công đoàn. Luật về Hội của Malaysia
năm 1996 điều chỉnh cả các công ty có trên
7 người, gồm cả các đảng phái, công đoàn.
Ở một số nước, để thuận lợi trong việc quản
lý, một số đạo luật phân chia hội thành các
loại khác nhau. Luật về Hội của Ba Lan
phân chia thành các hội có đăng ký và hội
không đăng ký (hội đơn giản). Các hội này
sẽ có thủ tục thành lập và phạm vi quyền hạn
khác nhau. Bên cạnh đó, các nước cũng quy
định các vấn đề liên quan đến hạn chế lập
hội; áp đặt những cấm đoán nhất định đối
với hoạt động của hội18; hạn chế đối với
người có thể lập hội... Đặc biệt, Luật về Hội
nhiều nước nghiêm cấm việc thành lập hội
để thực hiện các hoạt động gây phương hại
đến xã hội, đến hệ thống chính trị hoặc trật
tự công cộng, như Luật về Hội của Ba Lan
năm 1989.
Định nghĩa và phân loại hội
Luật các nước đều định nghĩa khá tương
đồng về hội, theo đó, “hội là một tổ chức tự
nguyện, tự quản, bền vững và nhằm mục
đích phi lợi nhuận. Hội có thể theo đuổi tất
cả các mục đích phi lợi nhuận nhưng không
gây nguy hiểm cho hệ thống chính trị - xã
hội và trật tự công cộng của quốc gia. Hội
có hai loại là hội đăng ký và hội không đăng
ký”19. Tuy nhiên, Luật về Hội của Thụy
Điển lại phân hội thành 3 loại, hội theo đuổi
một ý tưởng được thực hiện bởi các hoạt
động kinh tế; hội theo đuổi một ý tưởng
được thực bằng các hoạt động không nhằm
mục đích kinh tế và hội phụ thuộc vào lợi
ích kinh tế của các thành viên của hội bằng
các hoạt động phi kinh tế20.
Điều kiện lập hội, gia nhập hội
Luật về Hội các quốc gia thường quy
định các điều kiện về số lượng thành viên
của hội, quốc tịch và độ tuổi của thành viên
sáng lập và gia nhập hội.
- Về số lượng thành viên để thành lập
hội, Luật về Hội các quốc gia quy định
không giống nhau. Ví dụ, theo Luật về Hợp
đồng hội của Pháp là từ 2 người trở lên, Luật
về Hội của Ecuador là 5 người, Luật về
Hội của Ấn Độ là 7 người, Luật về Hội của
Rumani thì cần phải có 21 người nhưng
Luật về Hội của Ba Lan lại quy định hội có
đăng ký là 15 người, hội không đăng ký
phải có ít nhất là 3 người; Luật về Hội của
Slovenie lại quy định hội trong nước là 10
người nhưng hội nước ngoài thì phải có ít
nhất 10 người có quốc tịch nước ngoài.
- Về quốc tịch, Luật về Hội các nước
đều quy định, mọi công dân đều có quyền
lập hội, trừ một số trường hợp luật định như
cán bộ, công chức, lực lượng vũ trang Đối
với quyền lập hội của người nước ngoài, các
quốc gia có nhiều cách điều chỉnh khác
nhau. Luật về Hội của Ba Lan phân biệt
người nước ngoài thành hai nhóm là người
cư trú và người không cư trú. Người cư trú
trên lãnh thổ Ba Lan có quyền tự do nhập
hội, người không cư trú tại Ba Lan thì tùy
từng trường hợp cụ thể mà cơ quan có thẩm
quyền có thể cho phép hoặc không cho phép
18 Điều 3 Luật về Hợp đồng hội của Pháp năm 1901 cấm các hội thành lập nhằm mục đích trái pháp luật, đạo đức xã hội
hoặc làm suy yếu Chính phủ, sự toàn vẹn của lãnh thổ quốc gia.
19 Định nghĩa về hội trong Luật về Hội của Ba Lan năm 1989.
20 Xem thêm tài liệu về Hội một số nước châu Âu tại địa chỉ website: https://books.google.com.vn/
books?id=yDdQ73BfT9AC&pg=PA212&lpg=PA212&dq=Loi+de+la+Pologne+sur+les+associat ions+
de+1989&source=bl&ots = i-epJ1ZMqd&sig=X3gU-f5_jg0dnAnrJAcn4DvFbo0&hl= en&sa=X&ved= 0ahUKEwiU186EhsX-
PAhXGupQKHY8aBcMQ6AEIITAB#v=onepage&q=Loi%20de%20la%20Pologne%20sur%20les%20associations%20de%2
01989&f=false.
61
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁPSöë 21(325) T11/2016
KINH NGHIÏåM QUÖËC TÏË
lập hội. Trong khi đó, Luật về Hội của Thụy
Điển lại quy định công dân, pháp nhân (kể
cả pháp nhân công và pháp nhân tư), công
dân nước ngoài (thường trú hoặc không
thường trú tại Thụy Điển) đều có thể thành
lập hội.
- Về độ tuổi, pháp luật các quốc gia đều
quy định khá giống nhau, theo đó công dân
phải đủ 18 tuổi (người thành niên) sẽ có
quyền thành lập và gia nhập hội. Trong một
số trường hợp đặc biệt, người từ 16 tuổi đến
dưới 18 tuổi cũng có thể trở thành thành
viên của các hội, với điều kiện đa số thành
viên hội đồng quản trị của hội phải là người
đã thành niên, có đủ năng lực để thực hiện
giao dịch hợp pháp (Luật về Hội của Ba Lan
năm 1989).
Thủ tục đăng ký thành lập hội
Tại một số quốc gia, thủ tục lập hội
được thực hiện rất thuận lợi, dễ dàng, theo
đó người thành lập chỉ cần thông báo hoặc
đăng ký cho cơ quan nhà nước có thẩm
quyền. Đa số các quốc gia chỉ yêu cầu nộp hồ
sơ đăng ký tại một cơ quan nhất định như tòa
án (theo Luật về Hội của Ba Lan, Hungary,
Rumani, Pháp), cơ quan công chứng
(Hà Lan, Rumani, Brasil), Bộ Nội vụ
(Slovakia). Cũng có một số quốc gia có cơ
quan chuyên trách việc đăng ký hội (như Cơ
quan đăng ký hội của Malaysia). Thông
thường, Ban sáng lập hội phải nộp cho cơ
quan đăng ký (tòa án hoặc cơ quan công
chứng, cơ quan chuyên trách về hội) giấy
đăng ký kèm theo các loại văn bản như: quy
chế hoặc điều lệ của hội, danh sách thành
viên sáng lập, địa chỉ văn phòng tạm thời
của hội Sau một thời hạn nhất định, cơ
quan đăng ký sẽ có trả lời về việc đăng ký.
Các quyền của hội
Trong số các quyền của hội thì quyền về
tài chính, tài sản, quyền về tổ chức, nhân sự
là những quyền quan trọng nhất. Trong đó,
quyền về tài chính và tài sản thường được
các nước quy định, hội có quyền huy động
các nguồn đóng góp từ trong nước và quốc
tế. Theo Luật về Hội của Ba Lan, hội không
có tư cách pháp nhân (hội đơn giản) chỉ có
nguồn thu từ đóng góp của các thành viên.
Luật về Hội của Hungary năm 1989 cho
phép hội có thể hoạt động kinh doanh nhằm
có điều kiện kinh tế để đạt được các mục
đích của nó.
Về quyền chủ động về nhân sự và tổ
chức thì Luật về Hội thường cho phép các
hội có quyền chủ động về nhân sự và tổ
chức. Tuy nhiên, một số nước có quy định
khái quát về bộ máy lãnh đạo hội như hội
đồng quản trị, ban điều hành của hội. Các
hội cũng có thể có tổ chức trực thuộc, tổ
chức thành viên, chi nhánh ở địa phương.
Cơ quan giám sát, xử lý vi phạm
Bên cạnh việc thiết lập khuôn khổ pháp
lý riêng cho các hội, để bảo đảm trật tự, các
quốc gia cũng có cơ quan, thủ tục giám sát
việc thực thi quyền tự do lập hội. Thẩm
quyền giám sát thường được trao cho văn
phòng công tố (Hungary), Bộ Tư pháp, Bộ
Nội vụ (Slovenie) hoặc một cơ quan khác.
Để xử lý các vi phạm của hội, các quốc gia
có các hình thức chế tài như phạt tiền, giải
tán hội. Bên cạnh đó, các cơ chế giải quyết
khiếu nại đối với quyền lập hội, quyền hội
họp cũng được quy định rõ ràng.
Chấm dứt hoạt động của hội
Ở một số nước, các hội có thể chủ động
chấm dứt hoạt động hoặc bị cơ quan nhà
nước (chủ yếu là tòa án) chấm dứt hoạt
động. Việc chấm dứt hoạt động của hội
thường bao gồm các thủ tục: xử lý, thanh lý
tài sản và các nghĩa vụ khác, tuyên bố giải
thể. Việc xử lý tài sản của hội được chia
thành hai phương thức đối với hai nhóm tài
sản. Đối với các loại tài sản có được từ
nguồn tài trợ của các tổ chức hoặc của nhà
nước, sau khi thanh toán toàn bộ các nghĩa
vụ của tổ chức, số còn lại do cơ quan có
thẩm quyền (tòa án) quyết định. Đối với các
loại tài sản tự có của hội, sau khi thanh toán
hết các nghĩa vụ, số còn lại do hội quyết
định theo điều lệ hoặc theo thỏa thuận của
62
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁP Söë 21(325) T11/2016
KINH NGHIÏåM QUÖËC TÏË
các thành viên. Tuyên bố giải thể được thực
hiện sau khi đã thanh toán các nghĩa vụ về
tài sản, thanh lý tài sản và các nghĩa vụ khác
của hội. Thời điểm tuyên bố giải thể hội là
lúc chấm dứt hoàn toàn các hoạt động cũng
như tư cách pháp lý của hội trên thực tế.
Chế độ nộp thuế
Luật về Hội các nước châu Âu thường
quy định, các hội hoạt động nhằm mục đích
kinh tế phải đóng thuế theo quy định của nhà
nước.
3. một số kiến nghị hoàn thiện Dự thảo
Luật về hội của Việt Nam
Đối tượng áp dụng của Luật về Hội
Quy định về “đối tượng áp dụng” của
Luật về Hội (Điều 2) nhằm trả lời cho câu
hỏi “ai, cơ quan, cá nhân, tổ chức, pháp nhân
nào là đối tượng chịu sự điều chỉnh của
Luật?”. Do vậy, Luật về Hội chỉ cần quy
định đối tượng áp dụng như khoản 1 là đầy
đủ mà không cần phải quy định khoản 2 về
đối tượng không áp dụng. Theo đó, chỉ có
các tổ chức là thành viên của Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam (trừ Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam, Công đoàn Việt Nam, Hội Nông dân
Việt Nam, Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ
Chí Minh, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam,
Hội Cựu chiến binh Việt Nam và cơ sở tín
ngưỡng, tổ chức tôn giáo tại Việt Nam), thì
cá nhân, tổ chức có liên quan đến việc thành
lập, hoạt động và quản lý nhà nước về hội21
và tổ chức phi chính phủ nước ngoài22 mới
là đối tượng áp dụng của Luật về Hội còn
các cá nhân, tổ chức khác ngoài quy định tại
khoản 1 không phải là đối tượng áp dụng
của Luật về Hội.
Do vậy, chúng tôi viết lại Điều 2 Dự
thảo. Mặt khác, nên sắp xếp lại cách hành
văn của khoản 3 Điều 2, theo đó Dự thảo
nên điều chỉnh theo hướng “Trường hợp có
sự khác nhau giữa Luật này với các luật
khác về tổ chức, hoạt động và quản lý nhà
nước về hội thì áp dụng theo quy định của
Luật này; hội đã có luật điều chỉnh riêng thì
áp dụng theo quy định của luật đó”. Chúng
tôi cho rằng, quy định như vậy sẽ ngắn gọn,
logic hơn nhằm tránh tình trạng liệt kê
nhưng không đầy đủ. Mặt khác, quy định
như vậy, trong tương lai nếu Nhà nước ban
hành các luật riêng để điều chỉnh tổ chức và
hoạt động của hội khác ngoài hội của luật
sư, hội công chứng viên thì chúng ta cũng
không cần sửa đổi, bổ sung vào Luật về Hội.
Nguyên tắc tổ chức và hoạt động của
hội
Điều 4 Dự thảo quy định:“1. Tuân thủ
Hiến pháp, pháp luật. 2. Tự nguyện, tự chủ,
tự quản, tự trang trải kinh phí hoạt động và
tự chịu trách nhiệm trước pháp luật. 3. Thực
hiện đúng tôn chỉ, mục đích và điều lệ hội.
4. Bảo đảm dân chủ, bình đẳng, công khai,
minh bạch. 5. Hoạt động thường xuyên và
không vì lợi nhuận”. Chúng tôi cho rằng, nên
bỏ đoạn “tự trang trải kinh phí hoạt động” tại
khoản 2 điều này. Bởi lẽ, khi đã là một tổ
chức “tự chủ” có nghĩa là hội phải tự chủ về
các hoạt động của hội trong đó có tự chủ về
tài chính và kinh phí hoạt động của hội. Do
vậy, khoản 2 Điều 4 Dự thảo chỉ cần quy
định ngắn gọn là “Tự nguyện, tự chủ, tự
quản và tự chịu trách nhiệm trước pháp luật”.
Thủ tục thành lập hội
Các quy định từ Điều 14 đến Điều 18
Dự thảo sẽ hạn chế đến quyền lập hội của
người dân. Khi xin lập hội nhưng không
được chấp nhận, bị từ chối thì người xin
thành lập hội có được khiếu nại không? Đây
là một vấn đề rất quan trọng nhưng Dự thảo
không quy định một cách rõ ràng. Ngoài ra,
các điều kiện, tiêu chí để cơ quan quản lý
nhà nước xem xét chấp nhận hay không
chấp nhận một hồ sơ xin thành lập hội cũng
chưa được quy định cụ thể trong Dự thảo.
21 Điểm b khoản 1 Điều 2 Dự thảo Luật về Hội.
22 Điểm c khoản 1 Điều 2 Dự thảo Luật về Hội.
63
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁPSöë 21(325) T11/2016
KINH NGHIÏåM QUÖËC TÏË
Tóm lại, cho dù nhìn nhận từ thực tiễn
tư pháp hay từ góc độ lập pháp, cho đến nay
vẫn không có ngưỡng thị phần thống nhất
dùng để phán đoán vị trí thống lĩnh thị
trường. Ngưỡng thị phần này phụ thuộc vào
trình độ phát triển kinh tế của từng quốc gia,
kết cấu thị trường, đặc điểm ngành Tuy
nhiên, chúng ta có thể nhìn thấy điểm chung
ở đây là nếu doanh nghiệp có thị phần tương
đối lớn thì không cần phải xem xét tới các
nhân tố ảnh hưởng khác mà có thể suy đoán
ngay doanh nghiệp này có vị trí thống lĩnh
thị trường, trừ khi bị đơn có thể đưa ra phản
chứng. Trong trường hợp doanh nghiệp có
thị phần tương đối nhỏ thì cần phải xem xét
đến các yếu tố như trạng thái cạnh tranh thị
trường, tính phụ thuộc giữa các chủ thể kinh
doanh, điều kiện kỹ thuật, sau đó mới có
thể đưa ra kết luận về vị trí thị trường của
doanh nghiệp. Trong thực tế, phán đoán
doanh nghiệp có thị phần tương đối nhỏ liệu
có vị trí thống lĩnh thị trường hay không là
khó khăn nhất. Ngoài ra, trong trường hợp
doanh nghiệp có thị phần rất nhỏ, mặc dù về
mặt lý luận, doanh nghiệp này cũng có thể
đạt được vị trí thống lĩnh thị trường, song từ
thực tiễn cho thấy, trường hợp này rất ít xảy
ra. Vì vậy, luật chống lũng đoạn thường trao
cho cơ quan chấp pháp quyền suy đoán ngay
doanh nghiệp này hoàn toàn không có vị trí
thống lĩnh thị trường mà không cần phải
xem xét các yếu tố bổ trợ khác n
Vai trò...
(TiÕp theo trang 57)
Điều này có thể dẫn đến sự tùy tiện trong
việc ra quyết định của cơ quan có thẩm
quyền, chấp nhận hoặc từ chối thành lập hội
theo cảm tính; trường hợp này thì chấp nhận
nhưng trường hợp tương tự kia thì không
chấp nhận. Bên cạnh đó, tại sao đã có sự
đồng lòng, nhất trí của các thành viên trong
hội sau đại hội thành lập thể hiện ra bằng
việc thông qua điều lệ hội và bầu người lãnh
đạo hội (đó là sự đồng thuận của tập thể hội)
nhưng vẫn còn một thủ tục là phải trình cho
cơ quan nhà nước để xem có được chấp
nhận hay không? Trong khi đó, Dự thảo lại
không có quy định điều kiện, tiêu chí để
được chấp nhận; điều kiện, tiêu chí nào sẽ
không được chấp nhận đối với điều lệ hội và
người đứng đầu? Chính vì vậy, quy định này
sẽ ảnh hưởng đến quyền lập hội của người
dân đồng thời dễ tạo cơ hội tùy tiện trong
hành xử của cán bộ, công chức, của cơ quan
công quyền khi xét duyệt hồ sơ xin thành lập
hội. Theo chúng tôi, cần phải đơn giản hóa
thủ tục thành lập hội để đảm bảo quyền lập
hội của người dân một cách thuận lợi, dễ
dàng hơn, giảm các thủ tục mang tính hành
chính, công quyền.
Quản lý hoạt động của hội
Dự thảo quy định các vấn đề liên quan
đến quản lý nhà nước về hoạt động của hội
tại Điều 39 và Điều 40 là quá cồng kềnh,
phức tạp. Theo đó, Bộ Nội vụ và bộ chủ
quản đều có quyền quản lý hoạt động của
hội theo hướng, hội hoạt động trong lĩnh vực
nào thì bộ chủ quản trong lĩnh vực đó cũng
có thẩm quyền quản lý hội bằng các hoạt
động thanh tra, kiểm tra, giám sát. Điều này
không phù hợp với xu thế phát triển của xã
hội nói chung cũng như của nền kinh tế thị
trường. Bởi lẽ, hội là pháp nhân dân sự, hội
hoạt động cũng giống như cá nhân, công
dân, pháp nhân, doanh nghiệp đều phải tuân
thủ pháp luật nói chung và luật chuyên
ngành. Do vậy, các bộ chuyên ngành có
thẩm quyền quản lý đối với các hoạt động
của các tổ chức trong lĩnh vực bộ, ngành
quản lý là điều đương nhiên. Chính vì vậy,
Dự thảo có quy định về quyền thanh tra,
kiểm tra sẽ tạo nên sự phức tạp, rườm rà
trong quản lý nhà nước n
KINH NGHIÏåM QUÖËC TÏË
64
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁP Söë 21(325) T11/2016
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- quyen_lap_hoi_trong_luat_quoc_te_va_phap_luat_mot_so_nuoc.pdf