Một là, quy định của Pháp lệnh năm
1993 có nhiều điểm không còn phù hợp,
không thống nhất với các quy định tương
ứng của pháp luật THADS và các quy định
của pháp luật khác có liên quan. Do đó, cần
nghiên cứu sửa đổi, bổ sung những quy định
của Pháp lệnh này nhằm bảo đảm tính thống
nhất của hệ thống pháp luật.
Hai là, trước mắt cần rà soát, nghiên
cứu, bổ sung vào trong các quy định của
pháp luật TTDS, pháp luật THADS những
quy định cụ thể về quyền miễn trừ đối với
các biện pháp cưỡng chế bảo đảm thi hành
phán quyết của Tòa án, nhằm bảo vệ quyền
và lợi ích chính đáng của Nhà nước Cộng
hòa XHCN Việt Nam, cơ quan nhà nước
Việt Nam ở trung ương, ở địa phương cũng
như các doanh nghiệp nhà nước, doanh
nghiệp tư nhân, cá nhân khi tham gia vào
các giao dịch kinh tế, thương mại với Nhà
nước nước ngoài, tổ chức, doanh nghiệp, cá
nhân nước ngoài.
Ba là, cần rà soát hệ thống pháp luật
Việt Nam, đặc biệt là các quy định của pháp
luật THADS có liên quan đến Công ước
quốc tế về Quyền ưu đãi, miễn trừ đối với
quyền tài phán và quyền miễn trừ tài sản
quốc gia của Liên hiệp quốc năm 2004, đồng
thời rà soát các Công ước quốc tế có liên
quan mà Việt Nam là thành viên, nghiên cứu
đề xuất cơ sở lý luận, thực tiễn để kiến nghị
Việt Nam sớm gia nhập Công ước này16, tạo
hành lang pháp lý an toàn cho việc tham gia
ngày càng sâu rộng của Việt Nam vào các
quan hệ dân sự, kinh tế, thương mại với các
đối tác nước ngoài, đặc biệt là bổ sung hành
lang pháp lý quốc tế để thực hiện có hiệu
quả quy định mới của BLDS năm 2015 và
Bộ luật TTDS năm 2015 trong thời gian tới.
Bốn là, cần sớm nghiên cứu xây dựng
Luật về Quyền miễn trừ trong lĩnh vực tư
pháp của quốc gia nước ngoài tại Việt Nam
8 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 19/01/2022 | Lượt xem: 277 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Quyền miễn trừ đối với các biện pháp cưỡng chế bảo đảm thi hành phán quyết của tòa án, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tóm tắt:
Quy định của pháp luật Việt Nam về quyền miễn trừ đối với các
biện pháp cưỡng chế bảo đảm thi hành phán quyết của Tòa án còn
nhiều hạn chế. Vì vậy, cần phải nghiên cứu tổng thể quy định của
pháp luật Việt Nam cũng như các quy định của pháp luật quốc tế
có liên quan để đề xuất giải pháp hoàn thiện.
Nguyễn Văn Nghĩa*
* Tổng cục THA dân sự, Bộ Tư pháp, NCS. Luật học, Trường Đại học Passau, CHLB Đức.
Abstract
Vietnam’s legal provisions on the immunity from the enforcement
measures to ensure the enforcement of court judgments do appear
shortcomings. Therefore, it is necessary to thoroughly review,
study the concerned provisions of Vietnamese law as well as the
relevant international ones for further improvements.
Thông tin bài viết:
Từ khóa: quyền miễn trừ, biện pháp
cưỡng chế thi hành án, thi hành phán
quyết của Tòa án.
Lịch sử bài viết:
Nhận bài : 09/04/2018
Biên tập : 10/07/2018
Duyệt bài : 17/07/2018
Article Infomation:
Keywords: immunity right,
enforcement measures, enforcement
of court judgements.
Article History:
Received : 09 Apr. 2018
Edited : 10 Jul. 2018
Approved : 17 Jul. 2018
QUYỀN MIỄN TRỪ ĐỐI VỚI CÁC BIỆN PHÁP CƯỠNG CHẾ
BẢO ĐẢM THI HÀNH PHÁN QUYẾT CỦA TÒA ÁN
1. Quy định của pháp luật Việt Nam
liên quan đến quyền miễn trừ đối với các
biện pháp cưỡng chế bảo đảm thi hành án
(THA), trước hết phải đề cập đến Pháp lệnh
về Quyền ưu đãi, miễn trừ dành cho cơ quan
đại diện ngoại giao, cơ quan lãnh sự và cơ
quan đại diện của tổ chức quốc tế tại Việt
Nam năm 1993 (Pháp lệnh năm 1993). Theo
quy định của Điều 1 và khoản 1 Điều 17
Pháp lệnh năm 1993, đối tượng được hưởng
quyền ưu đãi, miễn trừ bao gồm cơ quan đại
diện ngoại giao, cơ quan lãnh sự nước ngoài,
cơ quan đại diện của tổ chức quốc tế tại Việt
Nam và thành viên của những cơ quan đó,
cũng như thành viên gia đình họ. Mục đích
của những quyền ưu đãi, miễn trừ này nhằm
tạo điều kiện thuận lợi cho các cơ quan và
thành viên của các cơ quan nói trên thực
hiện có hiệu quả chức năng, nhiệm vụ chính
thức với tư cách đại diện tại Việt Nam.
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
22 Số 18(370) T9/2018
Các quyền miễn trừ cơ bản liên quan
đến các biện pháp cưỡng chế bảo đảm thi
hành phán quyết của Tòa án áp dụng đối với
các chủ thể, đối tượng trong lĩnh vực ngoại
giao, bao gồm:
Một là, quyền miễn trừ áp dụng biện
pháp bảo đảm THA đối với trụ sở của cơ
quan đại diện ngoại giao và tài sản trong
trụ sở, kể cả phương tiện giao thông của
cơ quan. Điểm b khoản 1 Điều 4 Pháp lệnh
năm 1993 quy định, trụ sở của cơ quan đại
diện ngoại giao là những toà nhà hoặc các
bộ phận của toà nhà và những phần đất trực
thuộc được sử dụng vào mục đích chính thức
của cơ quan, kể cả nhà ở của người đứng
đầu cơ quan. Trụ sở của cơ quan đại diện
ngoại giao là bất khả xâm phạm. Nhà chức
trách Việt Nam chỉ được phép vào cơ quan
đại diện ngoại giao khi có sự đồng ý của
người đứng đầu cơ quan hoặc người được
uỷ quyền1. Trụ sở của cơ quan đại diện ngoại
giao và tài sản trong trụ sở, kể cả phương
tiện giao thông của cơ quan không thể bị
khám xét, trưng dụng, tịch thu hoặc áp dụng
biện pháp bảo đảm THA2. Như vậy, theo
quy định này, chấp hành viên cơ quan THA
dân sự (THADS) sẽ không được quyền áp
dụng các biện pháp bảo đảm THA, bao gồm
biện pháp phong tỏa tài khoản; tạm giữ tài
sản, giấy tờ; tạm dừng việc đăng ký, chuyển
dịch, thay đổi hiện trạng về tài sản3 đối với
trụ sở của cơ quan đại diện ngoại giao và
tài sản trong trụ sở, kể cả phương tiện giao
thông của cơ quan đại diện ngoại giao.
Hai là, viên chức ngoại giao được
1 Khoản 2 Điều 5 Pháp lệnh về Quyền ưu đãi, miễn trừ ngoại giao năm 1993.
2 Khoản 3 Điều 5 Pháp lệnh về Quyền ưu đãi, miễn trừ ngoại giao năm 1993.
3 Khoản 3 Điều 66 Luật THADS sửa đổi, bổ sung năm 2014.
4 Điều 17. “1- Thành viên gia đình của viên chức ngoại giao không phải là công dân Việt Nam được hưởng những quyền
ưu đãi, miễn trừ quy định tại các điều từ 10 đến 16 của Pháp lệnh này.
2. Nhân viên hành chính kỹ thuật và thành viên gia đình họ không phải là công dân Việt Nam hoặc không phải là người
thường trú tại Việt Nam được hưởng những quyền ưu đãi, miễn trừ quy định tại các điều từ 10 đến 15 của Pháp lệnh
này; riêng quy định tại khoản 1 Điều 12 chỉ được áp dụng khi họ thực hiện chức năng chính thức. Họ còn được hưởng
những ưu đãi, miễn trừ quy định tại khoản 1 Điều 16 của Pháp lệnh này đối với những đồ vật nhập khẩu để bố trí nơi ở
lần đầu của họ.
3. Nhân viên phục vụ không phải là công dân Việt Nam hoặc không phải là người thường trú tại Việt Nam được hưởng
những quyền miễn trừ khi thực hiện chức năng của họ và được miễn thuế và lệ phí đối với tiền lương của họ.
hưởng quyền miễn trừ đối với các biện pháp
THA, trừ trường hợp họ tham gia với tư
cách cá nhân vào các tranh chấp liên quan
đến bất động sản có trên lãnh thổ Việt Nam;
việc thừa kế; hoạt động thương mại hoặc
nghề nghiệp mà viên chức ngoại giao tiến
hành tại Việt Nam ngoài phạm vi chức năng
chính thức của họ. Trong trường hợp phải áp
dụng biện pháp THA thì việc đó phải được
tiến hành trên cơ sở tôn trọng quyền bất khả
xâm phạm về thân thể và nơi ở của viên
chức ngoại giao.
Pháp lệnh năm 1993 không đề cập đến
các biện pháp THA bao gồm các biện pháp
nào, Luật THADS sửa đổi, bổ sung năm
2014 cũng không dùng khái niệm biện pháp
THA một cách chung chung như các văn
bản pháp luật THADS trước đây. Tuy nhiên,
ở đây, các biện pháp THA có thể được hiểu
là toàn bộ các trình tự, thủ tục THADS theo
quy định của pháp luật về THADS. Mặc dù
vậy, trong quá trình áp dụng các biện pháp
THA đối với các viên chức ngoại giao cũng
phải đặc biệt lưu ý tôn trọng quyền bất khả
xâm phạm về thân thể và nơi ở của họ theo
quy định của Hiến pháp, Bộ luật Dân sự
(BLDS), Luật Cư trú, các quy định khác của
pháp luật Việt Nam và các văn bản pháp luật
quốc tế có liên quan.
Ba là, việc từ bỏ quyền miễn trừ xét xử
về dân sự hoặc xử phạt hành chính đối với
các viên chức ngoại giao và những người
được quy định tại Điều 174 của Pháp lệnh
năm 1993 không bao gồm việc từ bỏ quyền
miễn trừ đối với biện pháp THA và quyết
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
23Số 18(370) T9/2018
định xử phạt hành chính. Việc từ bỏ quyền
miễn trừ đối với biện pháp THA và quyết
định xử phạt hành chính cần được thể hiện
rõ ràng và riêng biệt5.
Theo quy định của Pháp lệnh năm
1993, cần phân biệt quyền miễn trừ xét xử
về dân sự hoặc xử phạt hành chính với quyền
miễn trừ đối với biện pháp THA. Theo đó,
việc từ bỏ quyền miễn trừ xét xử về dân
sự không đồng nghĩa với việc từ bỏ quyền
miễn trừ đối với các biện pháp THA. Việc
từ bỏ quyền miễn trừ đối với biện pháp THA
cần được thể hiện rõ ràng và riêng biệt. Tuy
nhiên, pháp luật THADS cũng như các văn
bản pháp luật khác có liên quan lại không
quy định cụ thể về việc từ bỏ quyền miễn trừ
đối với các biện pháp THA. Ví dụ, các văn
bản này không quy định về hình thức, nội
dung, thẩm quyền, thời hạn, hậu quả pháp
lý, v.v.. của việc từ bỏ quyền miễn trừ đối
với biện pháp THA.
Bốn là, việc từ bỏ quyền miễn trừ đối
với biện pháp THA đối với viên chức và
nhân viên lãnh sự. Khoản 3 Điều 30 Pháp
lệnh năm 1993 quy định việc từ bỏ quyền
miễn trừ xét xử về dân sự và xử phạt hành
chính đối với viên chức và nhân viên lãnh
sự quy định tại Điều 28 của Pháp lệnh này
không bao gồm việc từ bỏ quyền miễn trừ
đối với biện pháp THA và quyết định xử
phạt hành chính. Việc từ bỏ quyền miễn trừ
đối với biện pháp THA và quyết định xử
phạt hành chính cần được thể hiện rõ ràng
và riêng biệt.
Về nội dung liên quan đến quyền miễn
trừ xét xử về dân sự và quyền miễn trừ đối
với các biện pháp THA, Điều 28 Pháp lệnh
năm 1993 quy định, viên chức lãnh sự và
nhân viên lãnh sự khi thực hiện chức năng
của mình được hưởng quyền miễn trừ xét xử
về dân sự và xử phạt hành chính, trừ trường
4. Người phục vụ riêng không phải là công dân Việt Nam hoặc không phải là người thường trú tại Việt Nam được miễn
thuế và lệ phí đối với tiền công của họ.”
5 Khoản 3 Điều 13 Pháp lệnh về Quyền ưu đãi, miễn trừ ngoại giao năm 1993.
6 Đã hết hiệu lực thi hành.
7 Điều 84.
hợp liên quan đến vụ kiện dân sự về một hợp
đồng do viên chức lãnh sự hoặc nhân viên
lãnh sự ký kết không với tư cách là người
được nước cử lãnh sự uỷ quyền; hoặc về tai
nạn giao thông xảy ra tại Việt Nam mà bên
thứ ba đòi bồi thường thiệt hại.
Những phân tích nêu trên cho thấy,
phạm vi đối tượng được quyền miễn trừ đối
với các biện pháp THA chỉ được giới hạn
trong phạm vi hẹp thuộc lĩnh vực ngoại giao.
Tuy nhiên, giữa quy định của Pháp lệnh năm
1993 và các quy định của pháp luật THADS
chưa bảo đảm tính thống nhất và đồng bộ.
Một trong những nguyên nhân dẫn đến sự
thiếu thống nhất này là do Pháp lệnh năm
1993 chậm được sửa đổi, bổ sung cho phù
hợp với tình hình thực tiễn.
2. Quy định của pháp luật tố tụng dân
sự (TTDS) Việt Nam về quyền miễn trừ đối
với các biện pháp THA chưa được quy định
đầy đủ và chưa bảo đảm tính ổn định.
Trước đây, Pháp lệnh Thủ tục giải
quyết các vụ án dân sự năm 1989 (Pháp lệnh
năm 1989)6 quy định: “Vụ án dân sự có liên
quan đến Nhà nước nước ngoài hoặc người
được hưởng quy chế ngoại giao được giải
quyết bằng con đường ngoại giao, trừ trường
hợp Nhà nước nước ngoài hoặc người được
hưởng quy chế ngoại giao đồng ý tham
gia tố tụng tại tòa án Việt Nam”7. Điều 86
Pháp lệnh này về thi hành những quy định
về TTDS trong những điều ước quốc tế về
tương trợ tư pháp và pháp lý quy định: “Đối
với những việc có liên quan đến công dân,
pháp nhân các nước mà Cộng hoà XHCN
Việt Nam đã ký kết điều ước quốc tế về tư
pháp và pháp lý thì TTDS được tiến hành
theo quy định của những điều ước đó”. Như
vậy, mặc dù Pháp lệnh năm 1989 quy định
về quyền miễn trừ của Nhà nước nước ngoài
trong TTDS quốc tế, nhưng không đề cập
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
24 Số 18(370) T9/2018
đến nội dung của quyền miễn trừ đối với các
biện pháp THA. Kể từ ngày 01/01/2005, khi
Bộ luật TTDS năm 2004 (Bộ luật TTDS) có
hiệu lực pháp luật cho đến trước năm 2015,
không còn văn bản nào thừa nhận quyền
miễn trừ tư pháp của Nhà nước nước ngoài
ở Việt Nam.
Để khắc phục những hạn chế nêu trên,
Bộ luật TTDS năm 2015 đã bổ sung nhiều
điều khoản liên quan đến quyền ưu đãi,
miễn trừ của cơ quan, tổ chức nước ngoài
và tổ chức quốc tế, cơ quan đại diện của tổ
chức quốc tế tại Việt Nam, Nhà nước nước
ngoài. Khoản 3, 4 Điều 2 Bộ luật TTDS năm
2015 quy định: “3. Bộ luật TTDS được áp
dụng đối với việc giải quyết vụ việc dân sự
có yếu tố nước ngoài; trường hợp điều ước
quốc tế mà Cộng hòa XHCN Việt Nam là
thành viên có quy định khác thì áp dụng quy
định của điều ước quốc tế đó. 4. Cơ quan, tổ
chức, cá nhân nước ngoài thuộc đối tượng
được hưởng quyền ưu đãi, miễn trừ ngoại
giao hoặc quyền ưu đãi, miễn trừ lãnh sự
theo pháp luật Việt Nam, theo điều ước quốc
tế mà Cộng hòa XHCN Việt Nam là thành
viên thì vụ việc dân sự có liên quan đến cơ
quan, tổ chức, cá nhân đó được giải quyết
bằng con đường ngoại giao”.
Ngoài ra, khoản 2 Điều 467 Bộ luật
này cũng quy định: “2. Năng lực pháp luật
TTDS của tổ chức quốc tế, cơ quan đại diện
của tổ chức quốc tế được xác định trên cơ
sở điều ước quốc tế là căn cứ để thành lập
tổ chức đó, quy chế hoạt động của tổ chức
quốc tế hoặc điều ước quốc tế mà Cộng hòa
XHCN Việt Nam là thành viên. Trường hợp
tổ chức quốc tế tuyên bố từ bỏ quyền ưu đãi,
quyền miễn trừ thì năng lực pháp luật TTDS
của tổ chức quốc tế đó được xác định theo
pháp luật Việt Nam”.
Đặc biệt, điểm đ khoản 1 Điều 472
Bộ luật TTDS năm 2015 quy định, nếu bị
8 Bành Quốc Tuấn, Những cơ sở đề xuất ban hành Luật về Quyền miễn trừ trong lĩnh vực tư pháp của quốc gia nước
ngoài tại Việt Nam, Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ, Tập 17, Số 4. 2014, tr. 113-114 và Nguyễn Thị Thu
Thủy, Quyền miễn trừ tư pháp của quốc gia trong Tư pháp quốc tế, Luận văn ThS, Trường Đại học Luật Hà Nội, 2012.
9 Bành Quốc Tuấn, tlđd, tr. 114-115.
đơn được hưởng quyền miễn trừ tư pháp thì
Tòa án Việt Nam phải trả lại đơn khởi kiện,
đơn yêu cầu hoặc đình chỉ giải quyết vụ việc
dân sự có yếu tố nước ngoài mặc dù vụ việc
dân sự thuộc thẩm quyền chung của Tòa án
Việt Nam.
Có thể nói rằng, Bộ luật TTDS năm
2015 cũng mới chỉ dừng lại ở việc quy định
có tính nguyên tắc về quyền ưu đãi, miễn trừ
ngoại giao hoặc quyền ưu đãi, miễn trừ lãnh
sự đối với các đối tượng được hưởng quyền
ưu đãi, miễn trừ ngoại giao và trách nhiệm
của Tòa án trong việc trả lại đơn khởi kiện,
đơn yêu cầu hoặc đình chỉ giải quyết vụ việc
dân sự có yếu tố nước ngoài nếu bị đơn được
hưởng quyền miễn trừ tư pháp.
Hiện nay, thuật ngữ “tư pháp” hoặc
“quyền miễn trừ tư pháp” là những khái
niệm đang có những cách hiểu khác nhau8.
Tuy nhiên, có thể hiểu, quyền miễn trừ tư
pháp bao gồm ba nội dung sau: miễn trừ tài
phán tại bất cứ Tòa án quốc gia nào (còn gọi
là quyền miễn trừ xét xử, Immunity From
Jurisdiction); miễn trừ đối với các biện pháp
cưỡng chế nhằm đảm bảo đơn kiện, nếu quốc
gia đồng ý cho tổ chức, cá nhân nước ngoài
kiện mình, tức là đồng ý cho Tòa án nước
ngoài xét xử vụ kiện mà quốc gia là bị đơn;
miễn trừ đối với các biện pháp cưỡng chế
nhằm đảm bảo thi hành quyết định của Tòa
án trong trường hợp quốc gia đồng ý cho các
tổ chức, cá nhân nước ngoài khởi kiện cũng
như đồng ý cho Tòa án xét xử vụ kiện đó”9.
Như vậy, nội hàm khái niệm “quyền miễn
trừ tư pháp” không chỉ liên quan đến chức
năng, nhiệm vụ của Tòa án mà còn liên quan
trực tiếp đến chức năng, nhiệm vụ của cơ
quan THADS. Trong khi đó, điểm đ khoản
1 Điều 472 Bộ luật TTDS năm 2015 lại mới
chỉ đề cập đến nhiệm vụ của Tòa án mà chưa
quy định về nhiệm vụ của cơ quan THADS.
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
25Số 18(370) T9/2018
3. Quy định của BLDS năm 2015 về
quyền miễn trừ đối với các biện pháp cưỡng
chế bảo đảm thi hành phán quyết của Tòa án.
Để bảo đảm bao quát, dự báo được sự
đa dạng của pháp nhân trong giao lưu dân
sự, BLDS năm 2015 đã quy định ba loại
pháp nhân cơ bản là: (i) pháp nhân thương
mại (pháp nhân hoạt động vì mục tiêu chính
là tìm kiếm lợi nhuận), được quy định tại
Điều 75; (ii) pháp nhân phi thương mại
(pháp nhân hoạt động không vì mục tiêu
chính là tìm kiếm lợi nhuận và nếu có lợi
nhuận thì cũng không được phân chia cho
các thành viên), được quy định tại Điều
76; (iii) pháp nhân công (bao gồm các cơ
quan nhà nước, đơn vị vũ trang nhân dân, tổ
chức sự nghiệp công lập, tổ chức chính trị,
tổ chức chính trị - xã hội)10. Trong đó, pháp
nhân công bình đẳng với cá nhân, pháp nhân
khác khi tham gia các quan hệ dân sự; pháp
nhân công chiếm hữu, sử dụng, định đoạt
tài sản công được Nhà nước giao phải đúng
mục đích, hiệu quả, theo đúng quy định của
pháp luật; Nhà nước không chịu trách nhiệm
về các nghĩa vụ dân sự của pháp nhân công,
trừ trường hợp luật có quy định khác.
Cụ thể, Điều 99 BLDS năm 2015 quy
định trách nhiệm về nghĩa vụ dân sự như
sau: “1. Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt
Nam, cơ quan nhà nước ở trung ương, ở địa
phương chịu trách nhiệm về nghĩa vụ dân
sự của mình bằng tài sản mà mình là đại
diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý, trừ
trường hợp tài sản đã được chuyển giao cho
pháp nhân theo quy định tại khoản 2 Điều
này. 2. Pháp nhân do Nhà nước Cộng hòa
XHCN Việt Nam, cơ quan nhà nước ở trung
ương, ở địa phương thành lập không chịu
trách nhiệm về nghĩa vụ phát sinh từ quan
hệ dân sự của Nhà nước Cộng hòa XHCN
Việt Nam, cơ quan nhà nước ở trung ương,
ở địa phương. 3. Nhà nước Cộng hòa XHCN
Việt Nam, cơ quan nhà nước ở trung ương, ở
10 Chính phủ, Tờ trình số 287/TT-CP ngày 15/08/2014 về Dự án BLDS (sửa đổi).
11 Điều 100 BLDS năm 2015.
địa phương không chịu trách nhiệm về nghĩa
vụ dân sự của pháp nhân do mình thành lập,
bao gồm cả doanh nghiệp nhà nước, trừ
trường hợp Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt
Nam, cơ quan nhà nước ở trung ương, ở địa
phương bảo lãnh cho nghĩa vụ dân sự của
pháp nhân này theo quy định của pháp luật.
4. Cơ quan nhà nước ở trung ương, ở địa
phương không chịu trách nhiệm về nghĩa vụ
dân sự của Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt
Nam, cơ quan nhà nước khác ở trung ương,
ở địa phương, trừ trường hợp luật liên quan
có quy định khác”.
Trách nhiệm về nghĩa vụ dân sự của
Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, cơ
quan nhà nước ở trung ương, ở địa phương
trong quan hệ dân sự với một bên là Nhà
nước, pháp nhân, cá nhân nước ngoài được
quy định như sau: “1. Nhà nước Cộng hòa
XHCN Việt Nam, cơ quan nhà nước ở trung
ương, ở địa phương chịu trách nhiệm về
nghĩa vụ dân sự do mình xác lập với nhà
nước, pháp nhân, cá nhân nước ngoài trong
trường hợp sau đây: a) Điều ước quốc tế mà
Cộng hòa XHCN Việt Nam là thành viên có
quy định về việc từ bỏ quyền miễn trừ; b)
Các bên trong quan hệ dân sự có thỏa thuận
từ bỏ quyền miễn trừ; c) Nhà nước Cộng hòa
XHCN Việt Nam, cơ quan nhà nước ở trung
ương, ở địa phương từ bỏ quyền miễn trừ.
2. Trách nhiệm về nghĩa vụ dân sự của Nhà
nước, cơ quan nhà nước của nước ngoài khi
tham gia quan hệ dân sự với Nhà nước Cộng
hòa XHCN Việt Nam, cơ quan nhà nước
ở trung ương, ở địa phương, pháp nhân,
cá nhân Việt Nam được áp dụng tương tự
khoản 1 Điều này”11.
Có thể nói rằng, quy định của Chương
V, BLDS năm 2015 là những nội dung hoàn
toàn mới, tiến bộ đề cập đến trách nhiệm của
Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, cơ
quan nhà nước ở trung ương, ở địa phương
khi tham gia các quan hệ dân sự với một bên
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
26 Số 18(370) T9/2018
là Nhà nước, pháp nhân, cá nhân nước ngoài
cũng như trách nhiệm về nghĩa vụ dân sự
của Nhà nước, cơ quan nhà nước của nước
ngoài khi tham gia quan hệ dân sự với Nhà
nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, cơ quan
nhà nước ở trung ương, ở địa phương, pháp
nhân, cá nhân Việt Nam.
BLDS năm 2015 không quy định cụ
thể về nội dung quyền miễn trừ bao gồm
những quyền gì và được thực hiện trong
những trường hợp nào mà chỉ dẫn chiếu đến
các điều ước quốc tế hoặc để ngỏ cho sự thỏa
thuận giữa các bên khi thực hiện các giao
dịch dân sự. Điều này có thể được hiểu là
quyền miễn trừ đối với các biện pháp cưỡng
chế bảo đảm thi hành phán quyết của Tòa án
sẽ được áp dụng theo các điều ước quốc tế
mà Việt Nam là thành viên hoặc tùy theo sự
thỏa thuận giữa các bên Việt Nam và các bên
nước ngoài có liên quan trong từng quan hệ
dân sự cụ thể.
Mặc dù vậy, BLDS năm 2015 đã quy
định những vấn đề có tính nguyên tắc về
trách nhiệm của Nhà nước đối với pháp nhân
do mình thành lập. Cụ thể, khoản 3 Điều 99
BLDS năm 2015 quy định: “Nhà nước Cộng
hòa XHCN Việt Nam, cơ quan nhà nước ở
trung ương, ở địa phương không chịu trách
nhiệm về nghĩa vụ dân sự của pháp nhân do
mình thành lập, bao gồm cả doanh nghiệp
nhà nước, trừ trường hợp Nhà nước Cộng
hòa XHCN Việt Nam, cơ quan nhà nước
ở trung ương, ở địa phương bảo lãnh cho
nghĩa vụ dân sự của pháp nhân này theo quy
định của pháp luật”. Có thể nói, quy định
này là một giải pháp dự phòng để giải quyết
các trường hợp tranh chấp và THADS có thể
sẽ xảy ra tương tự trong tương lai. Quy định
mới được bổ sung này có thể được rút ra từ
bài học kinh nghiệm trong vụ tàu Cần Giờ
12 Bành Quốc Tuấn, tlđd, tr. 127-128 và Chú thích số 24: PGS. TS. Đỗ Văn Đại, PGS. TS. Mai Hồng Quỳ: Tư pháp quốc
tế Việt Nam, Nxb. Đại học quốc gia TP. Hồ Chí Minh, 2006, tr.69 - tr.70; xem bản tiếng Anh vụ việc tàu Cần Giờ tại:
trc. 26.3.2018.
13 Bành Quốc Tuấn, tlđd, tr. 123.
bị phía Tanzania bắt giữ năm 2003 và các vụ
tranh chấp về tư pháp quốc tế khác trên thế
giới. Tóm tắt nội dung vụ việc tàu Cần Giờ
như sau: “Năm 1999, một doanh nghiệp có
tên là Mohamed Enterprises của Tanzania
ký hợp đồng và thanh toán trước toàn bộ số
tiền khoảng 1,4 triệu USD để mua 6.000 tấn
gạo của Công ty Thanh Hòa ở Tiền Giang.
Sau đó, Công ty Thanh Hòa đã thuê một tàu
chở gạo để thực hiện hợp đồng trên. Nhưng
con tàu mà Công ty Thanh Hòa thuê lại là
một con tàu “ma”, trên đường chở gạo đã
trốn bặt tăm. Không nhận được gạo, Công ty
Mohamed Enterprises đã khởi kiện đối tác
của Việt Nam Sự việc cứ kéo dài không
được xử lý dứt điểm. Bốn năm sau (2003),
tàu Sài Gòn của Công ty SEA Saigon cập
cảng Tanzania đã bị bắt giữ làm con tin
nhằm tạo áp lực buộc phía Việt Nam thanh
toán số nợ năm 1999. Ngày 22/7/2005, Tòa
án Tanzania tuyên phạt phía Việt Nam gần
2 triệu USD bao gồm tiền bồi thường thiệt
hại từ hợp đồng gạo với Công ty Mohamed
Enterprises và tiền lãi phát sinh. Phán quyết
ghi rõ, Chính phủ Việt Nam là bị đơn thứ 12
của vụ án. Theo Tòa án, quyền miễn trừ tư
pháp của quốc gia Việt Nam trong trường
hợp này không tuyệt đối vì Chính phủ Việt
Nam đã tham gia tích cực vào các giai đoạn
của việc thực hiện hợp đồng. Vì vậy, Chính
phủ Việt Nam không được hưởng quyền
miễn trừ xét xử”12. Vụ việc khác tương
tự xảy ra vào tháng 7 năm 2011, cơ quan
quản lý nợ của CHLB Đức đã tạm giữ chiếc
Boeing 737 của Thái tử Vajiralongkorn tại
sân bay Munich để buộc chính phủ Thái phải
trả khoản nợ tương đương 57 triệu USD cho
công ty Walter Bau13.
4. Quy định của Công ước Liên hiệp
quốc về Miễn trừ tài phán và miễn trừ tài sản
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
27Số 18(370) T9/2018
của quốc gia năm 200414. Công ước này do
Đại hội đồng Liên hiệp quốc thông qua ngày
02/12/2004. Đây là Công ước quốc tế quy
định về các vấn đề liên quan đến quyền miễn
trừ trong lĩnh vực tư pháp của quốc gia. Đến
nay, Công ước vẫn chưa có hiệu lực, mặc
dù đã có 28 quốc gia ký kết và 21 nước phê
chuẩn gia nhập15. Quyền miễn trừ của quốc
gia trong lĩnh vực tư pháp được quy định tại
Công ước này gồm quyền miễn trừ tư pháp
và quyền miễn trừ đối với tài sản thuộc quan
hệ sở hữu của quốc gia.
Quyền miễn trừ tư pháp gồm ba nội
dung: miễn trừ tài phán tại bất cứ Tòa án
quốc gia nào hay còn gọi là quyền miễn trừ
xét xử (Điều 5 và Điều 6 Công ước); quyền
miễn trừ đối với các biện pháp cưỡng chế
nhằm đảm bảo đơn kiện, nếu quốc gia đồng
ý cho tổ chức, cá nhân nước ngoài kiện mình,
tức là đồng ý cho Tòa án nước ngoài xét xử
vụ kiện mà quốc gia là bị đơn (Điều 18 Công
ước); quyền miễn trừ đối với các biện pháp
cưỡng chế nhằm đảm bảo thi hành phán
quyết của Tòa án trong trường hợp quốc gia
đồng ý cho các tổ chức, cá nhân nước ngoài
khởi kiện cũng như đồng ý cho Tòa án xét
xử vụ kiện đó (Điều 19 Công ước).
Theo đó, Điều 19 Công ước quy định:
Không có biện pháp cưỡng chế THA nào
được thực hiện sau khi có phán quyết của
Tòa án như áp dụng biện pháp tịch thu, bắt
giữ, THA đối với tài sản một quốc gia liên
quan đến thủ tục tố tụng được thực hiện
trước Tòa án của quốc gia khác, trừ khi và
ngoại trừ các trường hợp sau đây:
a) Quốc gia đó đã thể hiện sự đồng ý
thông qua: (1) Thỏa thuận quốc tế; (2) Thỏa
thuận Trọng tài hoặc Hợp đồng bằng văn
bản; hoặc (3) Bởi một tuyên bố trước Tòa án
hoặc một thỏa thuận bằng văn bản sau khi
phát sinh tranh chấp giữa các bên;
14 United Nations Convention on Jurisdictional Immunities of States and their Property 2004, https://treaties.un.org/Pages/
ShowMTDSGDetails.aspx?src=UNTSONLINE&tabid=2&mtdsg_no=III-13&chapter=3&lang=en, trc. 26.03.2018.
15 https://treaties.un.org/Pages/ShowMTDSGDetails.aspx?src=UNTSONLINE&tabid=2&mtdsg_no=III-13&chap-
ter=3&lang=en, ngày truy cập: 26.03.2018.
b) Quốc gia đó đã giao hoặc cung cấp
tài sản để thỏa mãn yêu cầu thi hành phán
quyết của Tòa án;
c) Có cơ sở khẳng định rằng tài sản rõ
ràng được sử dụng hoặc có ý định sử dụng
cho quốc gia hơn là những mục đích phi
thương mại của Chính phủ và tài sản đó nằm
trong lãnh thổ của quốc gia thành viên, miễn
là những biện pháp cưỡng chế THA sau khi
có phán quyết của Tòa án chỉ có thể được
thực hiện để tịch thu tài sản có mối liên hệ với
các chủ thể có liên quan đến vụ tranh chấp.
5. Từ những phân tích, so sánh các
quy định của pháp luật TTDS, pháp luật dân
sự, pháp luật THADS với các quy định về
quyền miễn trừ trong lĩnh vực ngoại giao,
lãnh sự cũng như trong tương quan so sánh
với các quy định của pháp luật quốc tế về
quyền miễn trừ đối với các biện pháp cưỡng
chế THA bảo đảm thi hành phán quyết của
Tòa án, có thể rút ra một số kết luận và kiến
nghị sau đây:
Một là, quy định của Pháp lệnh năm
1993 có nhiều điểm không còn phù hợp,
không thống nhất với các quy định tương
ứng của pháp luật THADS và các quy định
của pháp luật khác có liên quan. Do đó, cần
nghiên cứu sửa đổi, bổ sung những quy định
của Pháp lệnh này nhằm bảo đảm tính thống
nhất của hệ thống pháp luật.
Hai là, trước mắt cần rà soát, nghiên
cứu, bổ sung vào trong các quy định của
pháp luật TTDS, pháp luật THADS những
quy định cụ thể về quyền miễn trừ đối với
các biện pháp cưỡng chế bảo đảm thi hành
phán quyết của Tòa án, nhằm bảo vệ quyền
và lợi ích chính đáng của Nhà nước Cộng
hòa XHCN Việt Nam, cơ quan nhà nước
Việt Nam ở trung ương, ở địa phương cũng
như các doanh nghiệp nhà nước, doanh
nghiệp tư nhân, cá nhân khi tham gia vào
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
28 Số 18(370) T9/2018
các giao dịch kinh tế, thương mại với Nhà
nước nước ngoài, tổ chức, doanh nghiệp, cá
nhân nước ngoài.
Ba là, cần rà soát hệ thống pháp luật
Việt Nam, đặc biệt là các quy định của pháp
luật THADS có liên quan đến Công ước
quốc tế về Quyền ưu đãi, miễn trừ đối với
quyền tài phán và quyền miễn trừ tài sản
quốc gia của Liên hiệp quốc năm 2004, đồng
thời rà soát các Công ước quốc tế có liên
quan mà Việt Nam là thành viên, nghiên cứu
đề xuất cơ sở lý luận, thực tiễn để kiến nghị
16 Bành Quốc Tuấn, tlđd, tr. 130.
17 Bành Quốc Tuấn, tlđd, tr. 126-130 và ThS. Lê Thị Nam Giang và nhóm nghiên cứu, Tìm hiểu quyền miễn trừ
quốc gia trong quan hệ quốc tế,
cle&id=135:quyenmientruqg&catid=55&Itemid=178#_ftnref45, trc. 03.04.2018.
Việt Nam sớm gia nhập Công ước này16, tạo
hành lang pháp lý an toàn cho việc tham gia
ngày càng sâu rộng của Việt Nam vào các
quan hệ dân sự, kinh tế, thương mại với các
đối tác nước ngoài, đặc biệt là bổ sung hành
lang pháp lý quốc tế để thực hiện có hiệu
quả quy định mới của BLDS năm 2015 và
Bộ luật TTDS năm 2015 trong thời gian tới.
Bốn là, cần sớm nghiên cứu xây dựng
Luật về Quyền miễn trừ trong lĩnh vực tư
pháp của quốc gia nước ngoài tại Việt Nam17■
tạm thời, thường xuyên thay đổi, những nội
dung về khía cạnh tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ
thuật chuyên sâu, các thủ tục hành chính để
thực hiện quyền, nghĩa vụ của người dân..
Thứ hai, tập trung nâng cao tính dự báo
các quy định của pháp luật. Muốn làm được
điều này, cơ quan chủ trì soạn thảo, nhóm
nghiên cứu, tham mưu, ban soạn thảo hoặc
tổ Biên tập cần đầu tư nhiều hơn cho công
tác nghiên cứu đối tượng điều chỉnh của văn
bản, xác định rõ quy mô, nguyên nhân, các
yếu tố tác động vào chính sách pháp luật mà
văn bản được ban hành để giải quyết, nhận
diện được quy luật chi phối sự vận động của
vấn đề chính sách và xu hướng vận động của
vấn đề chính sách. Nói cách khác, năng lực
phân tích chính sách, đánh giá tác động đều
cần được tăng cường.
Thứ ba, tăng cường công tác tham
vấn ý kiến các đối tượng chịu sự tác động
của văn bản (đặc biệt là những đối tượng có
hành vi phải thay đổi do quy định mới của
văn bản, các cán bộ có trách nhiệm tổ chức
thực thi quy định mới của văn bản); dự báo
các phản ứng cần thiết, năng lực tiếp nhận
quy định mới của văn bản. Bên cạnh đó, cần
nâng cao và hoàn thiện kỹ năng, kỹ thuật
tham vấn, lấy ý kiến của cơ quan, tổ chức,
cá nhân.
Thứ tư, đề cao công tác rà soát
VBQPPL trong quá trình xây dựng pháp
luật. Chỉ ban hành quy định mới nếu các quy
định hiện hành thực sự chưa có đủ cơ sở để
giải quyết vấn đề chính sách mà Nhà nước
đang cần giải quyết hoặc có thể giải quyết
nhưng với hiệu quả thấp. Chỉ đặt vấn đề sửa
đổi, bổ sung những quy định bất hợp lý khi
có chứng minh rõ ràng về chi phí/lợi ích của
việc sửa đổi, bổ sung theo hướng lợi ích của
việc sửa đổi, bổ sung rõ ràng lớn hơn chi phí
của việc sửa đổi, bổ sung.
Thứ năm, cần tăng cường công tác
nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế trong việc
điều chỉnh pháp luật đối với những lĩnh vực
mà Việt Nam chưa có nhiều kinh nghiệm để
có thể chọn lọc được những kinh nghiệm tốt
trong quá trình xây dựng pháp luật■
(Tiếp theo trang 13)
BẢO ĐẢM TÍNH ỔN ĐỊNH CỦA...
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
29Số 18(370) T9/2018
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- quyen_mien_tru_doi_voi_cac_bien_phap_cuong_che_bao_dam_thi_h.pdf