Thứ ba, thực hiện tốt Nghị định
09/2017/NĐ-CP của Chính phủ ban hành
ngày 9/2/2017 quy định chi tiết việc phát
ngôn và cung cấp thông tin cho báo chí
của các cơ quan hành chính nhà nước. Việc
thực hiện tốt Nghị định 09 sẽ giúp nâng cao
tính chủ động, hạn chế tình trạng né tránh
trong việc cung cấp thông tin cho báo chí,
góp phần giúp báo chí thông tin trung thực
mọi lĩnh vực xã hội quan tâm. Đồng thời,
giúp các cơ quan báo chí, nhà báo và tổ
chức, cá nhân tham gia hoạt động báo chí
tại Việt Nam có thêm những điều kiện thuận
lợi, cũng như tự đề cao trách nhiệm, thận
trọng trong tiếp cận và đăng tải các nguồn
thông tin chính thức kịp thời và chính xác.
Việc thực hiện tốt Nghị định 09 cũng góp
phần nâng cao chất lượng thông tin của báo
chí, đáp ứng nhu cầu minh bạch hóa thông
tin, quyền tiếp cận thông tin của người dân,
nâng cao trách nhiệm thông tin và giải trình
Thứ ba, thực hiện tốt Nghị định
09/2017/NĐ-CP của Chính phủ ban hành
ngày 9/2/2017 quy định chi tiết việc phát
ngôn và cung cấp thông tin cho báo chí
của các cơ quan hành chính nhà nước. Việc
thực hiện tốt Nghị định 09 sẽ giúp nâng cao
tính chủ động, hạn chế tình trạng né tránh
trong việc cung cấp thông tin cho báo chí,
góp phần giúp báo chí thông tin trung thực
mọi lĩnh vực xã hội quan tâm. Đồng thời,
giúp các cơ quan báo chí, nhà báo và tổ
chức, cá nhân tham gia hoạt động báo chí
tại Việt Nam có thêm những điều kiện thuận
lợi, cũng như tự đề cao trách nhiệm, thận
trọng trong tiếp cận và đăng tải các nguồn
thông tin chính thức kịp thời và chính xác.
Việc thực hiện tốt Nghị định 09 cũng góp
phần nâng cao chất lượng thông tin của báo
chí, đáp ứng nhu cầu minh bạch hóa thông
tin, quyền tiếp cận thông tin của người dân,
nâng cao trách nhiệm thông tin và giải trình
6 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 19/01/2022 | Lượt xem: 242 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Quyền tự do báo chí trong luật báo chí năm 2016 và một số kiến nghị triển khai thi hành luật, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Trần Huyền Phương*
* ThS. Khoa Dân Vận, trường Đào tạo cán bộ Lê Hồng Phong, Tp. Hà Nội.
Tóm tắt:
Tự do báo chí, tự do ngôn luận trên báo chí là quyền cơ bản
của con người. Trên thế giới ngày nay, tự do ngôn luận và
tự do báo chí là các yếu tố hết sức quan trọng đối với sự
ổn định, phát triển của mỗi quốc gia, đồng thời là biểu hiện
trực tiếp của quan niệm, chính sách nhân quyền ở quốc gia
đó. Bài viết nêu nội dung cơ bản của quyền tự do báo chí
trong Luật Báo chí năm 20161 và kiến nghị một số giải pháp
để triển khai thi hành Luật hiệu quả.
1 Luật Báo chí năm 2016 được Quốc hội thông qua ngày 5/4/2016 và có hiệu lực từ ngày 1/1/2017.
Abstract:
Freedom of press and freedom of discussions in the press
are ones of the basic human rights in a developed society.
Today, the freedom of speech and freedom of press are
crucial factors for the stability and development of a nation,
which is also the outstanding appearance of its notions
and policies on the human rights. This article provides
an outline of the concept of journalism, and the freedom
of the press, and also basis analysis of the press freedom
provisions embodied in the Press Law of 2016.
Thông tin bài viết:
Từ khóa: Quyền tự do báo chí, Luật Báo chí,
triển khai thi hành Luật Báo chí
Lịch sử bài viết:
Nhận bài: 02/10/2017
Biên tập: 04/01/2018
Duyệt bài: 12/01/2018
Article Infomation:
Keywords: Right on press freedom, Press
Law
Article History:
Received: 02 Oct. 2017
Edited: 04 Jan. 2018
Appproved: 12 Jan. 2018
QUYỀN TỰ DO BÁO CHÍ TRONG LUẬT BÁO CHÍ NĂM 2016
VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ TRIỂN KHAI THI HÀNH LUẬT
1. Một số nội dung của quyền tự do báo
chí trong Luật Báo chí năm 2016
Một là, quy định cụ thể về quyền
tự do ngôn luận, quyền tự do báo chí của
công dân
Điều 25 Hiến pháp năm 2013 quy
định: “Công dân có quyền tự do ngôn luận,
tự do báo chí. Việc thực hiện các quyền này
do pháp luật quy định”. Trên cơ sở quy định
này, Luật Báo chí năm 2016 đã cụ thể hóa
quyền tự do báo chí, tự do ngôn luận trên
báo chí của công dân.
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
44 Số 02(354) T01/2018
Quyền tự do ngôn luận và tự do báo
chí có quan hệ gắn bó mật thiết với nhau.
Quyền tự do ngôn luận là một trong những
quyền cơ bản của con người, được thể hiện
trong Tuyên ngôn quốc tế về Nhân quyền
năm 1948 và Công ước quốc tế năm 1966
về các Quyền dân sự, chính trị của Liên hiệp
quốc. Quyền tự do báo chí được hiểu là việc
thực hiện quyền tự do ngôn luận của công
dân thông qua báo chí. Báo chí có vai trò
là phương tiện để mọi công dân thực hiện
quyền tự do ngôn luận của mình.
Nội hàm của quyền tự do báo chí,
quyền tự do ngôn luận trên báo chí của công
dân đã được thể hiện trong các Điều 10 và
Điều 11 Luật Báo chí năm 2016. Điều 10
giải thích cụ thể công dân có các quyền tự
do báo chí sau: 1. Sáng tạo tác phẩm báo chí;
2. Cung cấp thông tin cho báo chí; 3. Phản
hồi thông tin trên báo chí; 4. Tiếp cận thông
tin báo chí; 5. Liên kết với cơ quan báo chí
thực hiện sản phẩm báo chí; 6. In, phát hành
báo in. Điều 11 Luật Báo chí năm 2016 cũng
quy định cụ thể quyền tự do ngôn luận trên
báo chí của công dân. Theo đó, công dân
có quyền phát biểu ý kiến về tình hình đất
nước và thế giới; tham gia ý kiến xây dựng
và thực hiện đường lối, chủ trương, chính
sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước; góp
ý kiến, phê bình, kiến nghị, khiếu nại, tố cáo
trên báo chí đối với các tổ chức của Đảng,
cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội,
tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ
chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp và
các tổ chức, cá nhân khác.
Hai là, quy định trách nhiệm của Nhà
nước, cơ quan báo chí đối với quyền tự do
báo chí, quyền tự do ngôn luận trên báo chí
Hiến pháp năm 2013 đã quy định rõ
trách nhiệm của Nhà nước trong việc công
nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con
người, quyền công dân nói chung và quyền
tự do báo chí, quyền tự do ngôn luận trên
báo chí nói riêng. Từ đó, đặt ra trách nhiệm,
nghĩa vụ của các chủ thể, của tất cả các cơ
quan nhà nước, công chức, viên chức và các
tổ chức trong việc công nhận, tôn trọng, bảo
vệ và bảo đảm quyền tự do báo chí, quyền
tự do ngôn luận trên báo chí. Luật Báo chí
năm 2016 quy định rõ trách nhiệm của Nhà
nước, của cơ quan báo chí; trách nhiệm của
cơ quan, tổ chức đối với quyền tự do báo
chí, quyền tự do ngôn luận trên báo chí của
công dân. Theo đó, Nhà nước tạo điều kiện
thuận lợi để công dân thực hiện quyền tự
do báo chí, quyền tự do ngôn luận trên báo
chí và để báo chí phát huy đúng vai trò của
mình. Cơ quan báo chí có trách nhiệm đăng,
phát kiến nghị, phê bình, tin, bài, ảnh và tác
phẩm báo chí khác của công dân phù hợp
với tôn chỉ, mục đích và không có nội dung
vi phạm các hành vi bị nghiêm cấm của Luật
Báo chí năm 2016; trong trường hợp không
đăng, phát phải trả lời và nêu rõ lý do khi có
yêu cầu; trả lời hoặc yêu cầu tổ chức, người
có thẩm quyền trả lời bằng văn bản hoặc trả
lời trên báo chí về kiến nghị, khiếu nại, tố
cáo của công dân gửi đến.
Ba là, quy định về giới hạn quyền tự
do báo chí
Các công ước quốc tế cũng như luật
pháp của các nước đều coi tự do báo chí là
một quyền cơ bản nhưng đó không phải là
sự tự do tuyệt đối mà phải có một số giới
hạn nhất định. Thực tế, hiếm khi một quốc
gia thực hiện tự do báo chí một cách tuyệt
đối mà có những giới hạn nhất định. Giới
hạn này thường theo “nguyên tắc gây hại”,
“nguyên tắc xúc phạm” hoặc xung đột với
các quyền khác.
Ở Việt Nam, khoản 2 Điều 14 Hiến
pháp năm 2013 xác định rõ: Quyền con
người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn
chế theo quy định của luật trong trường hợp
cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc
gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội,
sức khỏe của cộng đồng. Cụ thể hóa điều
này, Luật Báo chí năm 2016 liệt kê các hành
vi, nội dung bị cấm thông tin trên báo chí
như: đăng, phát thông tin chống Nhà nước,
có nội dung xuyên tạc, phỉ báng, phủ nhận
chính quyền nhân dân; đăng, phát thông tin
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
45Số 02(354) T01/2018
có nội dung gây chia rẽ giữa các tầng lớp
nhân dân, giữa nhân dân với chính quyền
nhân dân, với lực lượng vũ trang nhân dân,
với tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã
hội; đăng, phát thông tin có nội dung kích
động chiến tranh nhằm chống lại độc lập,
chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ nước Cộng
hòa XHCN Việt Nam; xuyên tạc lịch sử; phủ
nhận thành tựu cách mạng; xúc phạm dân
tộc, anh hùng dân tộc; tiết lộ thông tin thuộc
danh mục bí mật nhà nước, bí mật đời tư của
cá nhân và bí mật khác theo quy định của
pháp luật...
Để bảo đảm tương thích với các quy
định tại Bộ luật Hình sự năm 2015, Bộ luật
Dân sự năm 2015 và các luật khác, bảo đảm
tính phù hợp và khả thi trong thực tế, Điều
9 Luật Báo chí năm 2016 đã bổ sung một
số hành vi bị cấm trong hoạt động báo chí
như: thông tin cổ súy các hủ tục, mê tín, dị
đoan; thông tin về những chuyện thần bí gây
hoang mang trong xã hội, ảnh hưởng xấu
đến trật tự, an toàn xã hội và sức khỏe của
cộng đồng; kích động bạo lực; tuyên truyền
lối sống đồi trụy; miêu tả tỉ mỉ những hành
động dâm ô, hành vi tội ác; thông tin không
phù hợp với thuần phong mỹ tục Việt Nam;
thông tin sai sự thật, xuyên tạc, vu khống,
xúc phạm uy tín của cơ quan, tổ chức, danh
dự, nhân phẩm của cá nhân; quy kết tội danh
khi chưa có bản án của Tòa án; thông tin ảnh
hưởng đến sự phát triển bình thường về thể
chất và tinh thần của trẻ em.
Bốn là, quy định rõ quyền tiếp cận
thông tin của báo chí
Việc được đảm bảo tối đa quyền tiếp
cận thông tin của nhà báo, nhất là thông tin
nhà nước, có vai trò quan trọng cho tự do
báo chí nói riêng cũng như xây dựng nền
dân chủ nói chung. Về cơ bản, mục đích
chính của báo chí giúp tìm ra sự thật, hỗ trợ
cho quá trình giải quyết các vấn đề xã hội
bằng cách đưa ra các căn cứ và ý kiến làm
tiền đề cho việc đưa ra quyết định. Thực tế
đã chứng minh rằng, việc báo chí nói riêng
và công chúng nói chung được tiếp cận các
thông tin của Nhà nước đã góp phần nâng
cao trách nhiệm giải trình của Nhà nước
trước người dân.
Luật Báo chí năm 2016 đã quy định
cụ thể quyền tiếp cận thông tin của báo
chí, trách nhiệm của cơ quan, tổ chức trong
việc cung cấp thông tin cho báo chí. Theo
đó, trong phạm vi quyền hạn, nhiệm vụ của
mình, các cơ quan, tổ chức, người có trách
nhiệm có quyền và nghĩa vụ cung cấp thông
tin cho báo chí và chịu trách nhiệm trước
pháp luật về nội dung thông tin đã cung cấp.
Việc cung cấp thông tin cho báo chí có thể
bằng văn bản, trên trang thông tin điện tử
tổng hợp, họp báo, trả lời phỏng vấn và các
hình thức khác. Cơ quan báo chí phải sử dụng
chuẩn xác nội dung thông tin được cung cấp
và phải nêu rõ xuất xứ nguồn tin. Đối với vụ
án đang trong quá trình điều tra, truy tố mà
chưa được xét xử, các vụ việc tiêu cực hoặc
có dấu hiệu vi phạm pháp luật nhưng chưa
có kết luận của cơ quan nhà nước có thẩm
quyền, báo chí có quyền thông tin theo các
nguồn tài liệu của mình và chịu trách nhiệm
trước pháp luật về nội dung thông tin. Cơ
quan báo chí và nhà báo có quyền và nghĩa
vụ không tiết lộ người cung cấp thông tin,
trừ trường hợp có yêu cầu bằng văn bản của
Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân, Chánh
án Tòa án nhân dân cấp tỉnh và tương đương
trở lên cần thiết cho việc điều tra, truy tố,
xét xử tội phạm rất nghiêm trọng, đặc biệt
nghiêm trọng. Cơ quan hành chính nhà
nước có trách nhiệm cử người phát ngôn,
thực hiện phát ngôn và cung cấp thông tin
cho báo chí định kỳ và đột xuất, bất thường
(Điều 38).
Năm là, mở rộng đối tượng thành lập
cơ quan báo chí
Thực tế cho thấy, các cơ quan báo
chí không chỉ do các tổ chức của Đảng, cơ
quan nhà nước, tổ chức xã hội mà còn do rất
nhiều tổ chức khác thành lập. Việc một số
tổng công ty, tập đoàn kinh tế, các trường
học, viện nghiên cứu và các tổ chức khác có
nhu cầu xuất bản báo chí để phổ biến kinh
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
46 Số 02(354) T01/2018
nghiệm, thành tựu khoa học kỹ thuật hoặc
thông tin giải trí là rất chính đáng. Vì vậy,
Luật Báo chí năm 2016 đã bổ sung một số
đối tượng được thành lập tạp chí khoa học
như: cơ sở giáo dục đại học theo quy định
của Luật Giáo dục đại học; tổ chức nghiên
cứu khoa học, tổ chức nghiên cứu khoa học
và phát triển công nghệ được tổ chức dưới
hình thức viện hàn lâm, viện theo quy định
của Luật Khoa học và Công nghệ; bệnh viện
từ cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương
hoặc tương đương trở lên (Điều 14). Quy
định này cũng cho phép các cơ sở giáo dục,
tổ chức khoa học và công nghệ thuộc loại
hình tư thục, có đầu tư của nước ngoài được
phép ra tạp chí khoa học.
Sáu là, quy định cụ thể về cải chính
trên báo chí
Luật Báo chí năm 2016 đã bổ sung
một số quy định mới về cải chính nhằm bảo
đảm quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan,
tổ chức, cá nhân bị báo chí thông tin sai sự
thật, như: đối với báo chí điện tử, ngoài việc
đăng, phát lời cải chính, xin lỗi còn phải gỡ
bỏ ngay thông tin sai sự thật đã đăng, phát
nhưng phải lưu giữ nội dung thông tin trên
máy chủ để phục vụ công tác thanh tra, kiểm
tra; khi có văn bản kết luận của cơ quan nhà
nước có thẩm quyền về vụ việc mà báo chí
đã đăng, phát là sai sự thật, xuyên tạc, vu
khống, xúc phạm uy tín của cơ quan, tổ
chức, danh dự, nhân phẩm của cá nhân thì
cơ quan báo chí phải đăng, phát phần nội
dung kết luận đó và nội dung cải chính, xin
lỗi của cơ quan báo chí, của tác giả tác phẩm
báo chí; lời xin lỗi của cơ quan báo chí, tác
giả tác phẩm báo chí được đăng, phát liền
sau nội dung thông tin cải chính (Điều 42).
2. Một số kiến nghị triển khai thi hành
Luật Báo chí năm 2016
Luật Báo chí năm 2016 đã nhận được
2 Đặng Thị Thu Hương, “Về vai trò giám sát xã hội và phản biện xã hội của báo chí Việt Nam”,
haiduong.org.vn/ViewDetail.aspx?nID=697
3 Huy Long - Ngọc Thành - Thùy Dung, Khi công luận lên tiếng: Vì sao số vụ nhà báo bị hành hung không giảm?, http://
nguoilambao.vn/vi-sao-so-vu-nha-bao-bi-hanh-hung-khong-giam-n3751.html
sự quan tâm, hoan nghênh của những người
làm báo và toàn xã hội. Để triển khai thi
hành Luật Báo chí năm 2016 và quyền tự
do báo chí được thực hiện hiệu quả trên thực
tế, chúng tôi kiến nghị một số giải pháp sau:
Thứ nhất, Chính phủ, Bộ Thông tin
và Truyền thông cần tích cực phối hợp với
các Bộ, ngành liên quan triển khai việc xây
dựng các nghị định, thông tư để phục vụ tốt
cho việc đưa Luật Báo chí năm 2016 vào
cuộc sống. Trong thời gian tới, cần nghiên
cứu để ban hành một số nghị định, thông
tư hướng dẫn trên một số lĩnh vực như: xử
lý vi phạm hành chính trong hoạt động báo
chí; quảng cáo trên báo chí; liên kết trong
hoạt động báo chí; họp báo; hoạt động hợp
tác của cơ quan báo chí Việt Nam với nước
ngoài; hoạt động báo chí của báo chí nước
ngoài, cơ quan đại diện nước ngoài, tổ chức
nước ngoài tại Việt Nam.
Thứ hai, tăng cường hiệu lực thi hành
của pháp luật, tạo điều kiện cho báo chí thực
hiện tốt vai trò giám sát và phản biện xã hội
của mình. Hiện nay, tình trạng vi phạm Luật
Báo chí vẫn có xu hướng gia tăng, gây khó
khăn cho quá trình tác nghiệp của các nhà
báo, nhất là khi nhà báo thực hiện những tác
phẩm báo chí đấu tranh chống tiêu cực. Năm
2012, Dự án “Nghiên cứu truyền thông: các
hành vi cản trở báo chí tác nghiệp” do Trung
tâm Nghiên cứu truyền thông phát triển thực
hiện, đã đưa ra kết quả: 87,9% trong tổng số
hơn 400 nhà báo tham gia điều tra xã hội học
cho biết đã từng bị cản trở dưới nhiều hình
thức, đa phần trong số họ là các nhà báo
viết về lĩnh vực tài nguyên, môi trường, đấu
tranh chống tham nhũng2. Theo thống kê của
Hội Nhà báo Việt Nam, trong khoảng 5 năm
trở lại đây, có khoảng 50 vụ tấn công nhà
báo3. Chỉ tính riêng 9 tháng năm 2017, đã có
5 vụ hành hung, đe dọa, lăng mạ phóng viên
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
47Số 02(354) T01/2018
được các cơ quan báo chí đưa tin4. Đáng ngại
hơn, các vụ cản trở, hành hung vẫn xảy ra
khi đương sự biết rõ người bị tấn công là nhà
báo, phóng viên đang tác nghiệp. Do vậy,
cần thường xuyên kiểm tra, đôn đốc, xử lý
nghiêm những trường hợp vi phạm Luật Báo
chí, cản trở nhà báo hoạt động nghề nghiệp
đúng pháp luật, nhằm tạo điều kiện thuận
lợi cho báo chí phát huy hiệu quả giám sát,
phản biện xã hội.
Thứ ba, thực hiện tốt Nghị định
09/2017/NĐ-CP của Chính phủ ban hành
ngày 9/2/2017 quy định chi tiết việc phát
ngôn và cung cấp thông tin cho báo chí
của các cơ quan hành chính nhà nước. Việc
thực hiện tốt Nghị định 09 sẽ giúp nâng cao
tính chủ động, hạn chế tình trạng né tránh
trong việc cung cấp thông tin cho báo chí,
góp phần giúp báo chí thông tin trung thực
mọi lĩnh vực xã hội quan tâm. Đồng thời,
giúp các cơ quan báo chí, nhà báo và tổ
chức, cá nhân tham gia hoạt động báo chí
tại Việt Nam có thêm những điều kiện thuận
lợi, cũng như tự đề cao trách nhiệm, thận
trọng trong tiếp cận và đăng tải các nguồn
thông tin chính thức kịp thời và chính xác.
Việc thực hiện tốt Nghị định 09 cũng góp
phần nâng cao chất lượng thông tin của báo
chí, đáp ứng nhu cầu minh bạch hóa thông
tin, quyền tiếp cận thông tin của người dân,
nâng cao trách nhiệm thông tin và giải trình
4 Duy Khương - Như Trường, Cùng nhìn lại những vụ nhà báo bị hành hung, cản trở khi tác nghiệp từ đầu năm 2017 đến
nay,
2017-den-nay-d51870.html
5 Điều 8. Hội Nhà báo Việt Nam
1. Hội Nhà báo Việt Nam là tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, được thành lập và hoạt động theo quy định của
pháp luật về hội.
2. Hội Nhà báo Việt Nam có nhiệm vụ, quyền hạn sau đây:
a) Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của hội viên;
b) Ban hành và tổ chức thực hiện quy định về đạo đức nghề nghiệp của người làm báo;
c) Tham gia ý kiến xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách phát triển báo chí, văn bản quy phạm pháp
luật về báo chí;
d) Tham gia thẩm định sản phẩm báo chí khi có yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền;
đ) Bồi dưỡng đạo đức nghề nghiệp và nghiệp vụ báo chí cho hội viên;
e) Phối hợp với cơ quan quản lý nhà nước tuyên truyền, phổ biến pháp luật về báo chí;
g) Tham gia giám sát việc tuân theo pháp luật về báo chí; thực hiện các hoạt động hợp tác quốc tế theo quy định của
pháp luật;
h) Tổ chức giải báo chí để tôn vinh những tác giả, nhóm tác giả có tác phẩm báo chí chất lượng cao, có hiệu quả xã
hội tích cực.
của các cơ quan hành chính nhà nước.
Thứ tư, thực hiện tốt Quy định đạo đức
người làm báo. Cụ thể hóa Điều 8 Luật Báo
chí năm 20165, ngày 16/12/2016, Chủ tịch
Hội Nhà báo Việt Nam đã ký Quyết định số
483/QĐ-HNBVN ban hành Quy định đạo
đức nghề nghiệp người làm báo Việt Nam.
Đây là các chuẩn mực rất cụ thể và thiết thực
nhằm xác định trách nhiệm đạo đức người
làm báo trong hoạt động nghề nghiệp. Để
thực hiện tốt Quy định, các cấp Hội Nhà
báo cần phối hợp với các cơ quan báo chí
tổ chức cho toàn thể hội viên và người làm
báo học tập Quy định đạo đức nghề nghiệp
người làm báo Việt Nam, đồng thời tiếp tục
quán triệt, triển khai thực hiện Luật Báo chí
năm 2016. Từng cơ quan báo chí, từng tổ
chức Hội trên cơ sở chức năng nhiệm vụ, tôn
chỉ mục đích của mình, có thể tiếp tục bổ
sung, xây dựng và thực hiện Nội quy, Quy
chế, Quy ước riêng nhằm cụ thể hóa việc
thực hiện 10 Quy định chung về đạo đức
nghề nghiệp.
Thứ năm, thực hiện nghiêm túc việc
cải chính trên báo chí. Thực tế hiện nay cho
thấy, việc thực hiện cải chính của một số cơ
quan báo chí chưa nghiêm túc. Khi thông tin
sai sự thật, xúc phạm đến tổ chức, cá nhân,
được phát hiện và có yêu cầu cải chính
nhưng một số cơ quan báo chí vẫn im lặng
hoặc cải chính bằng cách "nói lại cho rõ",
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
48 Số 02(354) T01/2018
thậm chí có hiện tượng "cửa quyền" khi đưa
tin sai sự thật nhưng không cải chính. Mặt
khác, một số cá nhân vẫn ngộ nhận rằng, khi
báo chí “lỡ” thông tin sai sự thật mà đã cải
chính rồi thì coi như hết trách nhiệm. Nhưng
không thể “hết trách nhiệm” được nếu hậu
quả của thông tin ấy gây thiệt hại nghiêm
trọng và việc xin lỗi, cải chính không thể bù
đắp được tổn thất vật chất và tinh thần. Về
nguyên tắc, trong những trường hợp này, dù
báo chí có cải chính rồi, người bị thiệt hại
vẫn có quyền khiếu nại lên trên hoặc khởi
kiện ra Tòa án yêu cầu bồi thường dân sự
6 Ngày 1/8/2017, Cổng Thông tin điện tử Hội Nhà báo Việt Nam chính thức đưa thiết bị theo dõi các báo điện tử gỡ
bài, sửa bài vào sử dụng. Đến ngày 13/8/2017 thiết bị đã phát hiện việc gỡ 79 tin, bài khỏi 35 báo điện tử, trang thông
tin điện tử, trong đó có 6 báo địa phương. Trong 79 tin, bài bị gỡ có 32 bài có nội dung phản ánh các hiện tượng tiêu
cực, tham nhũng. Cũng từ đầu tháng 8/2017 đến nay, Cổng Thông tin điện tử Hội Nhà báo Việt Nam đã tiến hành theo
dõi trên 100 báo điện tử, một số trang thông tin điện tử được Bộ Thông tin và Truyền thông cấp phép. Đến cuối tháng
8/2017, Cổng Thông tin điện tử Hội Nhà báo Việt Nam sẽ tiến hành theo dõi hầu hết các báo điện tử và một số trang
thông tin điện tử được cấp phép qua thiết bị này. Theo:
bai-tren-bao-dien-tu-de-quan-ly-bao-chi-hieu-qua_n22831.html.
7 Hồng Quang, “Kiên quyết chống những biểu hiện tiêu cực trong lĩnh vực báo chí”,
htri/item/34490102-kien-quyet-chong-nhung-bieu-hien-tieu-cuc-trong-linh-vuc-bao-chi-ky-1.html
hoặc yêu cầu khởi tố hình sự. Vì vậy, cần
thực hiện nghiêm túc việc cải chính trên
báo chí6. Mỗi tòa soạn cần có quy chế rõ
ràng cho việc đăng và gỡ bài (nhất là trên
trang điện tử), phân công người trực tiếp
chịu trách nhiệm. Khi có bài cần gỡ bỏ, phải
cung cấp thông tin đầy đủ để người đọc có
thể nắm bắt lý do. Trong trường hợp có đủ
bằng chứng về loại bài “sáng đăng, trưa gặp,
chiều gỡ”, “đánh hội đồng” thì phải xử lý
theo quy định của pháp luật7
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lê Thanh Bình (2008), Truyền thông đại chúng và phát triển xã hội, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
2. Duy Chiến (2014), Nhiều Tổng biên tập không phải là nhà báo,
3. Nguyễn Văn Dững (2013), Cơ sở lý luận báo chí, Nxb. Lao động, Hà Nội.
4. Phạm Thành Hưng (2007), Thuật ngữ báo chí - truyền thông, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
5. Fred S. Siebert, Thedore Peterson, Wilbur schram (2014), Bốn học thuyết truyền thông (người dịch Lê Ngọc
Sơn), Nxb. Tri thức, Hà Nội.
6. Jane Kirtley (2010), Sổ tay Luật truyền thông, Ấn phẩm của Chương trình thông tin quốc tế, Bộ Ngoại giao
Hoa Kỳ, Hà Nội. usembassy.gov.
7. Dương Xuân Sơn, Đinh Văn Hường, Trần Quang (2007), Cơ sở lý luận báo chí truyền thông, Nxb. Đại học
Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
8. Phí Thị Thanh Tâm (2012), Tự do báo chí qua các bản Hiến pháp và một số kiến nghị sửa đổi Hiến pháp
1992, Tạo chí Nghiên cứu Lập pháp (số 24 năm 2012), tr.15-21.
9. Tạ Ngọc Tấn (chủ biên) (1999), Cơ sở lý luận báo chí, Nxb. Văn hoá Thông tin, Hà Nội.
10. Thu Thảo (2015), Dự thảo Luật Báo chí: Cân nhắc quy định về quyền tự do ngôn luận,
11. Vũ Duy Thông (chủ biên) (2004), Thực trạng và giải pháp nâng cao trình độ cán bộ báo chí hiện nay, Đề tài
khoa học, Ban Tư tưởng Văn hóa Trung ương, Hà Nội.
12. Trung tâm nghiên cứu Quyền con người, quyền công dân thuộc Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội (2011),
Tư tưởng về quyền con người - Tuyển tập thế giới và Việt Nam, Nxb. Lao động xã hội, Hà Nội.
13. Nguyễn Như Ý (1999), Đại từ điển tiếng Việt, Nxb. Văn hóa Thông tin, Hà Nội.
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
49Số 02(354) T01/2018
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- quyen_tu_do_bao_chi_trong_luat_bao_chi_nam_2016_va_mot_so_ki.pdf