Thứ nhất, bổ sung quy định hướng
dẫn thi hành Luật Nhập cảnh, xuất cảnh, quá
cảnh, cư trú của người nước ngoài tại Việt
Nam năm 2014.
Theo quy định của Luật Nhập cảnh,
xuất cảnh, quá cảnh, cư trú của người nước
ngoài tại Việt Nam năm 2014, người không
quốc tịch thường trú ở nước ngoài được nhập
cảnh Việt Nam du lịch, thăm người thân;
người không quốc tịch cư trú tại Việt Nam
có nhu cầu xuất cảnh được Bộ Công an xem
xét cấp giấy tờ có giá trị đi lại quốc tế40. Các
quy định này có tính nhân văn cao và phù
hợp với tiêu chuẩn quốc tế song còn thiếu cụ
thể (chưa được quy định cụ thể trong Luật
Nhập cảnh, xuất cảnh, quá cảnh, cư trú của
người nước ngoài tại Việt Nam năm 2014 và
bất kỳ văn bản pháp luật nào hướng dẫn thi
hành Luật này), vì vậy có thể gây những trở
ngại trong việc thực hiện trong thực tế. Ví
dụ, trong khi Luật Nhập cảnh, xuất cảnh, quá
cảnh, cư trú của người nước ngoài tại Việt
Nam năm 2014 quy định cho phép người
không quốc tịch có thể được nhập cảnh Việt
Nam du lịch, thăm người thân đồng thời quy
định nghĩa vụ của người nước ngoài (bao
gồm người không quốc tịch) nhập cảnh vào
Việt Nam phải mang theo hộ chiếu hoặc giấy
tờ có giá trị đi lại quốc tế41, trong khi đó lại
chưa có hướng dẫn chi tiết như thế nào là hộ
chiếu hoặc giấy tờ có giá trị đi lại quốc tế.
Sự thiếu hụt này có thể khiến một số người
không quốc tịch bị từ chối nhập cảnh, đặc
biệt là những người sẽ gặp khó khăn trong
việc có được những giấy tờ như vậy. Do đó,
cần bổ sung quy định hướng dẫn về vấn đề
này theo hướng tạo thuận lợi hơn cho người
không quốc tịch được nhập cảnh vào lãnh
thổ Việt Nam. Bởi lẽ, đây là nhóm dễ bị tổn
thương mà theo luật nhân quyền quốc tế,
các quốc gia cần “xem xét với sự cảm thông
đối với việc cấp giấy tờ thông hành như vậy
cho người không quốc tịch trên lãnh thổ của
mình mà không thể có được một giấy thông
hành của đất nước nơi họ cư trú hợp pháp”
11 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 20/01/2022 | Lượt xem: 209 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Quyền tự do đi lại theo pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
QUYỀN TỰ DO ĐI LẠI THEO PHÁP LUẬT QUỐC TẾ VÀ PHÁP LUẬT VIỆT NAM
Tóm tắt:
Tự do đi lại là một phần không thể thiếu của tự do cá nhân. Quyền
tự do đi lại là một trong những quyền cơ bản của con người, được
ghi nhận và bảo vệ trong pháp luật quốc tế và pháp luật của các
quốc gia. Ở Việt Nam, quyền tự do đi lại được hiến định trong
Hiến pháp năm 2013 và cụ thể hóa trong nhiều văn bản pháp luật
chuyên ngành. Xét tổng quát, pháp luật Việt Nam hiện đã phù hợp
với những tiêu chuẩn cơ bản về quyền tự do đi lại trong luật nhân
quyền quốc tế, tuy nhiên, vẫn còn một số quy định cần được tiếp
tục sửa đổi, bổ sung.
Vũ Công Giao*
Nguyễn Thùy Dương**
* PGS.TS. Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
** ThS. NCS. GV. Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Abstract
Freedom of movement is an integral part of personal freedom.
The right to freedom of movement is a fundamental human right,
which is recognized and protected both in international law and
national laws. In Vietnam, freedom of movement is stipulated in
the Constitution of 2013 as well as in various legal documents. In
general, the applicable Vietnam laws are in line with the essential
standards of freedom of movement set up in international human
rights law, however, there are still some regulations that need to be
amended and supplemented.
Thông tin bài viết:
Từ khóa: quyền tự do đi lại, hạn chế
quyền tự do đi lại, công dân Việt Nam,
người nước ngoài.
Lịch sử bài viết:
Nhận bài : 15/04/2019
Biên tập : 26/04/2019
Duyệt bài : 04/05/2019
Article Infomation:
Keywords: freedom of movement,
derogation of freedom of movement,
Vietnamese citizen, foreigner.
Article History:
Received : 15 Apr. 2019
Edited : 26 Apr. 2019
Approved : 04 May 2019
1. Khái quát về quyền tự do đi lại
Tự do đi lại (freedom of movement)
là quyền tự do di chuyển trong một quốc
gia, rời khỏi quốc gia hoặc trở về quốc gia
mà chủ thể quyền có quốc tịch. Quyền tự
do đi lại có nguồn gốc từ triết học cổ đại
1 Jane McAdam, ‘An Intellectual History of Freedom of Movement in International Law: The Right to Leave as a
Personal Liberty’ (2011) 12 Melbourne Journal of International Law 27, 6.
và luật tự nhiên, và được xem là một phần
không thể thiếu đối với tự do cá nhân1. Một
trong những văn bản pháp luật đầu tiên
trên thế giới đề cập đến quyền này là Đại
hiến chương Magna Carta của nước Anh
(ban hành vào thế kỷ 13), trong đó có quy
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
20 Số 14(390) T7/2019
định bảo đảm cho các thương nhân trong và
ngoài nước, trừ một số trường hợp ngoại lệ,
có quyền rời khỏi hoặc đến nước Anh, ở lại
và đi qua nước Anh2.
Quyền tự do đi lại có ý nghĩa rất quan
trọng vì nó tạo tiền đề để một cá nhân hưởng
thụ các quyền dân sự, chính trị cũng như
các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa khác3.
Không chỉ vậy, tự do đi lại của các cá nhân
còn là điều kiện để thúc đẩy sự phát triển
kinh tế, xã hội của các quốc gia. Hạn chế bất
hợp lý quyền tự do đi lại không những làm
tổn hại đến quyền con người của các cá nhân
mà còn cản trở sự phát triển về mọi mặt của
xã hội.
Trong thời đại ngày nay, tự do đi lại
còn được xem là một phần quan trọng của sự
hợp tác giữa các quốc gia, vì thông qua sự đi
lại và giao lưu sẽ khuyến khích lòng khoan
dung và hiểu biết giữa người dân thuộc các
nền văn hóa khác nhau, góp phần phá vỡ
những định kiến lạc hậu, xây dựng tình đoàn
kết, thúc đẩy hòa bình, các giá trị nhân văn
và sự thịnh vượng chung của các dân tộc4.
Quyền tự do đi lại được ghi nhận và
bảo vệ từ rất sớm trong hiến pháp và pháp
luật của nhiều quốc gia, tiêu biểu như Hoa
Kỳ5, Canada6, New Zealand7, Australia8,.
Ở một số nước, quyền này được bảo vệ
trong nhiều văn bản pháp luật. Ví dụ, tại
2 Magna Carta 1297, mục (30). Xem tại: https://www.archives.gov/files/press/press-kits/magna-carta/magna-carta-trans-
lation.pdf
3 Trung tâm Nghiên cứu Quyền con người & Quyền công dân, Giới thiệu Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính
trị (ICCPR 1966), NXB Hồng Đức, Hà Nội, 2012, tr 175.
4 What Is “Freedom of Movement” in the European Union?. Xem tại: https://www.opensocietyfoundations.org/
explainers/what-eu-freedom-movement
5 Hiến pháp Hợp chúng quốc Hoa Kỳ, Tu chính án số IV.
6 Canadian Charter of Rights and Freedom (Canada Act 1982)
7 Đạo luật về quyền New Zealand (Bill of Rights Act 1990)
8 Victorian Act 2006, Mục 12.
9 Victorian Act 2006, Mục 12.
10 Australian Law Reform Commission (ALRC), Traditional Rights and Freedoms— Encroachments by Commonwealth
Laws – Final Report, Chapter 5: Freedom of Movement, 2015, tr.45. Xem: https://www.alrc.gov.au/sites/default/files/
pdfs/publications/ip46_ch_5._freedom_of_movement.pdf
tiểu bang Victoria của Australia, quyền tự
do đi lại được đồng thời bảo vệ theo Hiến
chương về Quyền con người (Charter of
Human Rights), Đạo luật về Trách nhiệm
(Responsibilities Act 2006) và Đạo luật về
Quyền con người (Human Rights Act 2004).
Các văn bản này quy định, mọi người cư
trú hợp pháp trong lãnh thổ bang Victoria
có quyền tự do đi lại trong lãnh thổ bang
này, có quyền đến và rời khỏi Victoria và có
quyền tự do lựa chọn nơi cư trú9.
Trong hiến pháp của nhiều quốc gia,
quyền tự do đi lại không chỉ được dành cho
công dân, mà còn cho những người nước
ngoài. Mặc dù vậy, tự do đi lại không phải
là một quyền tuyệt đối (absolute right) mà
có thể bị hạn chế trong một số bối cảnh, với
những điều kiện nhất định. Phổ biến nhất là
các quốc gia thường ban hành các quy định
nhằm ngăn chặn việc một người sử dụng
quyền tự do đi lại để trốn tránh trách nhiệm
pháp lý khi có hành vi vi phạm pháp luật.
Ngoài ra, một số quốc gia còn hạn chế quyền
tự do đi lại vì một số lý do khác, trong đó có
cả lý do chính trị. Chính vì vậy, có nhận định
rằng, mức độ thụ hưởng quyền tự do đi lại
của người dân ở các nước phụ thuộc lớn vào
ý chí của các nhà cầm quyền10.
Theo luật nhân quyền quốc tế, quyền
tự do đi lại có thể bị hạn chế nếu việc thực
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
21Số 14(390) T7/2019
thi quyền này phát sinh mâu thuẫn với các
quyền và lợi ích khác trên thực tế, ví dụ như
có thể làm lây truyền bệnh dịch ảnh hưởng
đến sức khỏe của cộng đồng, hoặc làm ảnh
hưởng đến an toàn công cộng. Cụ thể, Điều
12 Công ước Quốc tế về các Quyền dân
sự và chính trị (International Covenant on
Civil and Political Rights – ICCPR, 1966)
ghi nhận: quyền tự do đi lại có thể phải chịu
“... những hạn chế do luật định và là cần
thiết để bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự công
cộng, sức khoẻ hoặc đạo đức xã hội hoặc các
quyền tự do của người khác...”11. Tuy nhiên,
cũng theo quy định của Điều 12 ICCPR,
việc áp đặt hạn chế đối với quyền tự do đi
lại chỉ được thực hiện với điều kiện những
hạn chế đó phải hợp lý, được quy định trong
pháp luật và “được chấp nhận rộng rãi trong
một xã hội tự do và dân chủ”12.
2. Quyền tự do đi lại theo pháp luật
quốc tế
Lần đầu tiên quyền tự do đi lại được
ghi nhận trong luật nhân quyền quốc tế tại
Điều 13 Tuyên ngôn Nhân quyền quốc tế
(UDHR 1948). Điều này khẳng định: Mọi
người đều có “quyền tự do đi lại và tự
do cư trú trong phạm vi lãnh thổ của quốc
gia” và “quyền rời khỏi bất kỳ nước nào,
kể cả nước mình, cũng như có quyền trở về
nước mình”. Như vậy, theo UDHR, tự do
đi lại bao gồm các khía cạnh: (1) quyền tự
do đi lại trong phạm vi biên giới của một
quốc gia (hay còn gọi là “quyền tự do đi
lại trong nước”); (2) quyền rời khỏi bất kỳ
nước nào, kể cả nước của chính mình (hay
11 ICCPR, Điều 12.3.
12 Australian Law Reform Commission (ALRC), Tài liệu đã dẫn, tr. 44 – 47.
13 Gudmundur Alfredsson & Asbjørn Eide, Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền 1948 – Mục tiêu chung của nhân loại, NXB
Lao động – Xã hội, 2010, tr. 286.
14 Điều 12 khoản 3 ICCPR quy định, quyền tự do đi lại và cư trú sẽ không phải chịu bất kỳ hạn chế nào, trừ những hạn
chế do luật định và là cần thiết để bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự công cộng, sức khoẻ hoặc đạo đức xã hội hoặc các
quyền tự do của người khác, và phải phù hợp với những quyền khác được Công ước này công nhận.
15 HRC, Bình luận chung số 27, 1999, đoạn 1&2.
còn gọi là “quyền xuất cảnh hay quyền di
cư”); và (3) quyền quay lại đất nước của
mình (hay còn gọi là “quyền nhập cảnh hay
quyền nhập cư”)13. Từ một góc độ khác, theo
UDHR, chủ thể của quyền tự do đi lại là tất
cả mọi người, bao gồm cả người nước ngoài.
Người nước ngoài nếu sinh sống hay được
có mặt hợp pháp ở một quốc gia thì cũng có
quyền tự do đi lại trong phạm vi lãnh thổ của
nước đó mà không bị ngăn chặn hay cản trở
tùy tiện.
Như đã đề cập, quy định về tự do đi lại
và tính chất không tuyệt đối của quyền này
trong Điều 13 UDHR được tái khẳng định
trong Điều 12 ICCPR. Cụ thể hóa Điều 12
ICCPR, trong Bình luận chung số 27 (được
thông qua tại phiên họp lần thứ 67, 1999),
Ủy ban Nhân quyền của Liên hiệp quốc (cơ
quan giám sát thực hiện ICCPR) nhấn mạnh
tự do đi lại là điều kiện không thể thiếu đối
với sự phát triển tự do của cá nhân và có
ảnh hưởng đến nhiều quyền khác được ghi
nhận trong Công ước. Ủy ban lưu ý rằng,
các quốc gia có thể đặt ra những giới hạn
nhất định với quyền này trong pháp luật
nhưng không được làm vô hiệu nguyên tắc
tự do đi lại, không được phân biệt đối xử,
đồng thời phải phù hợp với những căn cứ
quy định trong khoản 3 Điều 12 ICCPR14
cũng như với các quyền khác được ICCPR
công nhận15. Khi thiết lập những giới hạn
đối với quyền tự do đi lại, các quốc gia cũng
phải tuân thủ nguyên tắc có liên quan nêu ở
Điều 5 ICCPR, theo đó, các hạn chế đưa ra
phải không làm tổn hại đến bản chất của các
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
22 Số 14(390) T7/2019
quyền; phải có sự tương thích giữa sự hạn
chế và quyền có liên quan, giữa quy phạm
và loại trừ; những hạn chế phải tương xứng
với lợi ích được bảo vệ và nguyên tắc tương
xứng này cần được tuân thủ bởi cả các cơ
quan lập pháp lẫn các cơ quan tư pháp và
hành pháp.
Ngoài ra, liên quan đến việc thực thi
quyền tự do đi lại, Bình luận chung số 27
của Uỷ ban Nhân quyền còn nêu ra những
lưu ý sau:
Về đối tượng áp dụng, tự do đi lại
được áp dụng đối với công dân cũng như
người nước ngoài đang cư trú hoặc hiện
diện hợp pháp trên lãnh thổ một nước. Tuy
nhiên, việc cho phép nhập cảnh và tư cách
"hợp pháp" của một người nước ngoài trên
lãnh thổ của một nước phụ thuộc vào quy
định trong pháp luật quốc gia và phù hợp với
những nghĩa vụ quốc tế của quốc gia đó16.
Về quyền tự do đi lại và chọn nơi cư
trú trong lãnh thổ quốc gia, theo Điều 12 (1)
ICCPR, việc bảo đảm quyền này không phụ
thuộc vào mục đích hay lý do của việc đi
lại hay của việc lựa chọn nơi cư trú, và bất
cứ sự hạn chế nào với quyền này cũng phải
căn cứ vào quy định trong khoản 3 Điều 12
ICCPR17.
Về quyền tự do rời khỏi đất nước, kể
cả nước mình, quyền này cần được áp dụng
không phụ thuộc vào nước đến và mục đích,
thời gian mà cá nhân dự định ở lại bên ngoài
nước mình. Bởi vậy, quyền này bao hàm cả
quyền đi ra nước ngoài để làm việc, tham
quan cũng như để cư trú lâu dài. Quyền này
16 HRC, Bình luận chung số 27, 1999, Đoạn 5.
17 HRC, Bình luận chung số 27, 1999, Đoạn 5.
18 HRC, Bình luận chung số 27, 1999, Đoạn 8.
19 HRC, Bình luận chung số 27, 1999, Đoạn 19.
20 Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội, Giáo trình Lý luận và Pháp luật về quyền con người, NXB Chính trị Quốc gia,
2009, tr.217 - 227.
21 HRC, Bình luận chung số 27, 1999, Đoạn 16.
áp dụng cả cho những người nước ngoài
sống hợp pháp trên lãnh thổ của một nước
khác, vì vậy, một người nước ngoài bị trục
xuất hợp pháp có quyền được lựa chọn nước
đến nếu có sự đồng ý của nước đó18.
Về quyền trở lại đất nước mình, đối
tượng áp dụng là những người được trở lại
sau khi rời đất nước, người có quốc tịch
nước đó nhưng sinh ra ở nước ngoài và lần
đầu tiên trở về nước mà mình mang quốc
tịch19. Quyền này cũng hàm ý về quyền của
một người được ở lại nước mình và cấm việc
di dân bắt buộc hoặc cưỡng chế người dân
đến các nước khác20.
Uỷ ban Nhân quyền xác định một số
hạn chế được xem là thích đáng với quyền
tự do đi lại, bao gồm: (i) giới hạn việc đi
vào những khu vực quân sự vì lý do an ninh
quốc gia; (ii) những giới hạn về quyền tự do
cư trú ở những nơi có cộng đồng thiểu số
hoặc bản xứ sinh sống21. Đây không phải là
một danh mục đóng, vì thế các quốc gia có
thể đưa ra những giới hạn khác, song phải
đáp ứng những điều kiện về hạn chế quyền
đã nêu ở trên. Để phòng ngừa các quốc gia
đưa ra những hạn chế quá mức với quyền
tự do đi lại, cũng trong Bình luận chung số
27, Uỷ ban Nhân quyền đã liệt kê những
hạn chế được coi là không thích đáng, bao
gồm: (i) không cho phép một người ra nước
ngoài với lý do [chung chung] là người này
nắm giữ "các bí mật của nhà nước"; (ii) ngăn
cản một cá nhân đi lại trong nước với lý do
không có giấy phép cụ thể; (iii) đòi hỏi một
cá nhân phải xin phép và được sự chấp nhận
của cơ quan có thẩm quyền mới được thay
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
23Số 14(390) T7/2019
đổi nơi cư trú; (iv) đặt ra những đòi hỏi đặc
biệt với một cá nhân để có thể được cấp
hộ chiếu; (v) đòi hỏi một cá nhân phải có
bảo lãnh từ những thành viên khác trong
gia đình mới được xuất, nhập cảnh; (vi) đòi
hỏi một cá nhân phải mô tả chính xác về lộ
trình đi lại mới được xuất, nhập cảnh; (vii)
trì hoãn việc cấp các giấy tờ đi lại cho một
cá nhân mà không có lý do thích đáng; (viii)
áp đặt những hạn chế đối với các thành viên
gia đình trong việc đi lại, thăm viếng nhau;
(ix) đưa ra những yêu cầu với một cá nhân
để được cho phép xuất, nhập cảnh, như phải
cam kết trở lại nước mình hoặc phải mua
vé khứ hồi, hay phải có giấy mời từ nước
đến hoặc từ người thân đang sống ở nước
đến đòi hỏi; (x) gây ra những phiền nhiễu
với người nộp đơn xin xuất cảnh, ví dụ như
đe dọa xâm phạm thân thể, bắt giữ, sa thải
hay không cho con cái họ tiếp tục học tập
ở trường; (xi) từ chối cấp hộ chiếu cho một
người chỉ vì một lý do [chung chung] cho
rằng nếu người đó ra nước ngoài có thể “gây
hại cho thanh danh của đất nước” 22...
Bên cạnh việc được ghi nhận tại Điều
12 ICCPR, quyền tự do đi lại còn được ghi
nhận trong một số văn kiện pháp luật quốc
tế về quyền của các nhóm dễ bị tổn thương,
nhằm mục đích giúp các đối tượng yếu thế
trong xã hội có thể thụ hưởng quyền này một
cách bình đẳng, cụ thể:
Theo Công ước về Quyền trẻ em
(CRC1989), đơn của một đứa trẻ hoặc của
cha mẹ em yêu cầu được nhập cảnh vào hay
xuất cảnh khỏi một quốc gia thành viên vì
mục đích đoàn tụ gia đình phải được các
quốc gia thành viên có liên quan xử lý một
cách tích cực, nhân đạo và nhanh chóng.
Đồng thời, các quốc gia cần bảo đảm rằng
22 HRC, Bình luận chung số 27, 1999, Đoạn 17.
23 Điều 10, Công ước về Quyền trẻ em.
24 Điều 8 &39, Công ước quốc tế về Quyền của người lao động di trú và các thành viên trong gia đình họ.
việc một người đưa ra yêu cầu như thế sẽ
không phải chịu bất kỳ hậu quả có hại nào
cho bản thân họ và cho các thành viên gia
đình họ. Trẻ em có cha mẹ cư trú ở các quốc
gia khác nhau có quyền được duy trì mối
quan hệ và tiếp xúc trực tiếp với cả cha
và mẹ một cách đều đặn, trừ khi gặp hoàn
cảnh đặc biệt. Các quốc gia thành viên phải
tôn trọng quyền của đứa trẻ và của cha mẹ
em được rời khỏi bất cứ quốc gia nào, kể
cả chính nước họ và quyền trở về nước họ.
Quyền được rời khỏi bất kỳ quốc gia nào sẽ
chỉ lệ thuộc vào những điều hạn chế được
ghi trong pháp luật và cần thiết để bảo vệ an
ninh quốc gia, trật tự công cộng, y tế, đạo
đức hoặc các quyền và sự tự do của những
người khác, và phù hợp với các quyền khác
được thừa nhận trong Công ước23.
Theo Công ước quốc tế về Quyền của
người lao động di trú và các thành viên trong
gia đình họ (International Convention on
the Protection of the Rights of All Migrant
Workers and Members of Their Families -
CRMW), người lao động di trú và các thành
viên gia đình họ có các quyền: tự do rời
khỏi bất kỳ quốc gia nào, kể cả nước mình;
quyền trở về hoặc ở lại nước mình vào mọi
thời điểm; quyền tự do đi lại trong lãnh thổ
của quốc gia nơi có việc làm và tự do lựa
chọn nơi cư trú ở nước đó. Những quyền này
không bị hạn chế ngoại trừ những giới hạn
được quy định theo pháp luật mà cần thiết để
bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự công cộng,
sức khỏe và đạo đức cộng đồng, các quyền
và tự do của người khác, cũng như phù hợp
với các quyền khác được thừa nhận trong
Công ước24.
Theo Công ước về Quyền của người
khuyết tật (Convention on the Rights of
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
24 Số 14(390) T7/2019
Persons with Disabilities - CRPD), các
quốc gia thành viên có nghĩa vụ công nhận
và bảo đảm quyền được tự do đi lại của
người khuyết tật trên cơ sở bình đẳng với
những người khác. Công ước nêu rõ, người
khuyết tật không bị tước đoạt, một cách tùy
tiện hoặc trên cơ sở sự khuyết tật, quyền tự
do đi lại một cách thuận lợi, bao gồm tự do
rời khỏi và trở về bất kỳ đất nước nào, kể cả
đất nước của mình25.
3. Quyền tự do đi lại theo pháp luật
Việt Nam
Ở Việt Nam, quyền tự do đi lại được
ghi nhận trước hết trong Hiến pháp với tư
cách là một quyền cơ bản của con người,
công dân. Cụ thể, Điều 23 Hiến pháp năm
2013 ghi nhận: “Công dân có quyền tự do
đi lại và cư trú ở trong nước, có quyền ra
nước ngoài và từ nước ngoài về nước”. Như
vậy, quyền tự do đi lại theo Hiến pháp năm
2013 cũng bao gồm các nội dung như quy
định của pháp luật quốc tế, đó là: tự do đi lại
trong phạm vi lãnh thổ nước mình, quyền ra
nước ngoài (quyền xuất cảnh) và quyền trở
lại nước mình (quyền nhập cảnh).
Liên quan đến vấn đề xuất, nhập cảnh,
tùy theo quy định của pháp luật hoặc điều
ước quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc gia
nhập, công dân Việt Nam được cấp hộ chiếu
(bao gồm hộ chiếu ngoại giao; hộ chiếu công
vụ; hộ chiếu phổ thông, hộ chiếu thuyền
viên) hoặc giấy thông hành (bao gồm: giấy
thông hành biên giới; giấy thông hành nhập
xuất cảnh; giấy thông hành hồi hương) để
ra/vào lãnh thổ Việt Nam qua các cửa khẩu
25 Điều 18, Công ước về Quyền của người khuyết tật
26 Điều 3&4 Nghị định số 136/2007/NĐ-CP ngày 17/8/2007 của Chính phủ về xuất cảnh, nhập cảnh của công dân Việt
Nam (đã được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định số 94/2015/NĐ-CP ngày 16/10/2015 của Chính phủ).
27 Điều 48 Hiến pháp 2013
28 Điều 49 Hiến pháp 2013
29 Điều 20 Luật Nhập cảnh, xuất cảnh, quá cảnh, cư trú của người nước ngoài tại Việt Nam, 2014
30 Điều 23 Luật Nhập cảnh, xuất cảnh, quá cảnh, cư trú của người nước ngoài tại Việt Nam, 2014
31 Điều 27 Luật Nhập cảnh, xuất cảnh, quá cảnh, cư trú của người nước ngoài tại Việt Nam, 2014
đường không hoặc đường bộ26.
Đối với người nước ngoài, Hiến pháp
năm 2013 quy định, người nước ngoài cư trú
ở Việt Nam được bảo hộ tính mạng, tài sản
và các quyền, lợi ích chính đáng theo pháp
luật Việt Nam, trong đó có quyền tự do đi
lại27. Ngoài ra, người nước ngoài đấu tranh
vì tự do và độc lập dân tộc, vì chủ nghĩa xã
hội, dân chủ và hòa bình hoặc vì sự nghiệp
khoa học mà bị bức hại thì có thể được Nhà
nước xem xét cho nhập cảnh và cư trú28.
Theo quy định của pháp luật hiện hành về
xuất nhập cảnh của Việt Nam, người nước
ngoài được: (1) nhập cảnh khi có hộ chiếu
hoặc giấy tờ có giá trị đi lại quốc tế và thị
thực, nếu nhập cảnh theo diện đơn phương
miễn thị thực thì hộ chiếu phải còn thời hạn
sử dụng ít nhất 06 tháng và phải cách thời
điểm xuất cảnh Việt Nam lần trước ít nhất
30 ngày29; (2) quá cảnh khi có hộ chiếu hoặc
giấy tờ có giá trị đi lại quốc tế; vé phương
tiện phù hợp với hành trình đi nước thứ ba;
thị thực của nước thứ ba, trừ trường hợp
được miễn thị thực30; (3) xuất cảnh khi có
hộ chiếu hoặc giấy tờ có giá trị đi lại quốc
tế; chứng nhận tạm trú hoặc thẻ tạm trú, thẻ
thường trú còn giá trị; không thuộc trường
hợp bị tạm hoãn xuất cảnh theo quy định của
pháp luật31.
Nhìn chung, quy định về quyền tự
do đi lại trong pháp luật Việt Nam hiện đã
phản ánh các nguyên tắc cơ bản phù hợp với
tinh thần của luật nhân quyền quốc tế, đó là
nguyên tắc bình đẳng và nguyên tắc về sự
hạn chế quyền, cụ thể như sau:
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
25Số 14(390) T7/2019
Thứ nhất, nguyên tắc “mọi người
đều bình đẳng trước pháp luật và không bị
phân biệt đối xử trên mọi lĩnh vực của đời
sống”32. Theo nguyên tắc này, quyền tự do đi
lại được bảo đảm cho mọi công dân, không
có sự phân biệt đối xử nào dựa trên cơ sở
tuổi tác, giới tính, tôn giáo, tín ngưỡng, trình
độ học vấn,.
Thứ hai, quyền tự do đi lại không phải
là một quyền tuyệt đối, việc thực thi quyền
này có thể bị hạn chế “trong trường hợp cần
thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia,
trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức
khỏe của cộng đồng”33.
Liên quan đến nguyên tắc về hạn chế
quyền, để cụ thể hóa quy định nêu trên của
Hiến pháp năm 2013, pháp luật về xuất nhập
cảnh của Việt Nam quy định về các trường
hợp hạn chế quyền tự do đi lại như sau:
Đối với công dân Việt Nam, theo Nghị
định số 136/2007/NĐ-CP ngày 17/8/2007
của Chính phủ về xuất cảnh, nhập cảnh
của công dân Việt Nam (đã được sửa đổi,
bổ sung bởi Nghị định số 94/2015/NĐ-CP
ngày 16/10/2015 của Chính phủ), công dân
Việt Nam chưa được xuất cảnh nếu thuộc
một trong những trường hợp sau đây: (1)
đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc
có liên quan đến công tác điều tra tội phạm;
(2) đang có nghĩa vụ chấp hành bản án hình
sự; (3) đang có nghĩa vụ chấp hành bản án
dân sự, kinh tế; đang chờ để giải quyết tranh
chấp về dân sự, kinh tế; (4) đang có nghĩa
vụ chấp hành quyết định xử phạt vi phạm
hành chính, nghĩa vụ nộp thuế và những
nghĩa vụ khác về tài chính trừ trường hợp
32 Điều 16 Hiến pháp 2013
33 Điều 14.2 Hiến pháp 2013
34 Điều 21 Nghị định số 136/2007/NĐ-CP (sửa đổi, bổ sung một số điều theo Nghị định 94/2015/NĐ-CP).
35 Điều 23 Nghị định số 136/2007/NĐ-CP (sửa đổi, bổ sung một số điều theo Nghị định 94/2015/NĐ-CP).
36 Dự thảo 2, được đăng tải lấy ý kiến nhân dân trên Cổng thông tin điện tử của Chính phủ từ tháng 12/2018 và
trên trang Duthaoonline của Quốc hội. Xem tại
View_Detail.aspx?ItemID=1610&LanID=1611&TabIndex=1
có đặt tiền, đặt tài sản hoặc có biện pháp bảo
đảm khác để thực hiện nghĩa vụ đó; (5) vì lý
do ngăn chặn dịch bệnh nguy hiểm lây lan;
(6) vì lý do bảo vệ an ninh quốc gia và trật
tự an toàn xã hội; (7) có hành vi vi phạm
hành chính về xuất nhập cảnh theo quy định
của Chính phủ34. Công dân Việt Nam đang
ở nước ngoài chưa được cơ quan đại diện
Việt Nam ở nước ngoài cấp giấy tờ có giá trị
xuất cảnh, nhập cảnh nếu thuộc một trong
những trường hợp sau: (1) không có giấy tờ
chứng minh có quốc tịch Việt Nam; (2) vì
lý do bảo vệ an ninh quốc gia và trật tự an
toàn xã hội theo quyết định của Bộ trưởng
Bộ Công an35.
Điều 26 Dự thảo Luật Xuất, nhập cảnh
của công dân Việt Nam (văn bản sẽ thay thế
hai Nghị định nêu trên)36 quy định những
trường hợp bị tạm hoãn xuất cảnh bao gồm:
“(1) Bị can, bị cáo; người bị tố giác, người
bị kiến nghị khởi tố mà qua kiểm tra, xác
minh người đó bị nghi thực hiện tội phạm và
xét thấy cần ngăn chặn ngay việc người đó
trốn hoặc tiêu hủy chứng cứ theo quy định
của Bộ luật Tố tụng hình sự; (2) Người đang
có nghĩa vụ chấp hành bản án hình sự, dân
sự, kinh tế, quyết định của Hội đồng cạnh
tranh; (3) Người có nghĩa vụ trong vụ án,
vụ việc về dân sự, kinh tế, hôn nhân và gia
đình, lao động, hành chính nếu có căn cứ
cho rằng việc xuất cảnh của họ ảnh hưởng
đến việc giải quyết vụ án, vụ việc, lợi ích
của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp
của cơ quan, tổ chức, cá nhân hoặc việc thi
hành án; (4) Người đang có nghĩa vụ chấp
hành quyết định xử phạt vi phạm hành
chính, nghĩa vụ nộp thuế và những nghĩa vụ
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
26 Số 14(390) T7/2019
khác về tài chính, trừ trường hợp có đặt tiền,
đặt tài sản hoặc có biện pháp bảo đảm khác
để thực hiện nghĩa vụ đó theo quy định của
pháp luật; (5) Vì lý do ngăn chặn dịch bệnh
nguy hiểm lây lan; (6) Vì lý do quốc phòng,
an ninh; (7) Người bị cơ quan quản lý xuất
nhập cảnh ra quyết định xử phạt hành chính
vì vi phạm quy định tại khoản 1, khoản 2,
khoản 3 và khoản 4 Điều 5 của Luật này37.
Bên cạnh đó, trong Dự thảo Luật
Xuất, nhập cảnh của công dân Việt Nam,
các Điều 23 (quy định về điều kiện xuất
cảnh) và Điều 24 (quy định về điều kiện
nhập cảnh) cũng có thể xem là những giới
hạn với quyền xuất, nhập cảnh (theo nghĩa
là nếu không đáp ứng các điều kiện đặt ra thì
không được xuất, nhập cảnh). Cụ thể, theo
khoản 1 Điều 23, công dân Việt Nam được
xuất cảnh khi có đủ các điều kiện sau: a) Có
giấy tờ xuất nhập cảnh hợp lệ; b) Có giấy
tờ phù hợp với quy định của nước đến hoặc
phù hợp với quy định của Điều ước quốc
tế Việt Nam là thành viên; c) Không thuộc
trường hợp bị tạm hoãn xuất cảnh theo quy
định tại Điều 26 của Luật này. Khoản 2 Điều
23 quy định, trẻ em dưới 14 tuổi hoặc người
mất năng lực hành vi dân sự, người có khó
khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi theo
quy định của pháp luật, ngoài các điều kiện
quy định tại khoản 1 Điều này thì phải có
người đại diện hợp pháp đi cùng. Trong khi
đó, theo khoản 1 Điều 24, điều kiện nhập
cảnh trở lại Việt Nam là “Có giấy tờ xuất
nhập cảnh hợp lệ”. Khoản 2 Điều này cũng
quy định: “Trẻ em dưới 14 tuổi hoặc người
mất năng lực hành vi dân sự, người có khó
khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi theo
37 Khoản 1- 4 Điều 5 của Dự thảo Luật Xuất, Nhập cảnh của công dân Việt Nam quy định các hành vi bị nghiêm cấm bao
gồm: (1) Cung cấp thông tin sai sự thật để được cấp giấy tờ xuất nhập cảnh. (2) Làm giả, sử dụng giấy tờ giả để xuất
cảnh, nhập cảnh; sử dụng giấy tờ xuất nhập cảnh trái quy định của pháp luật Việt Nam. (3) Mua, bán, mượn, cho mượn,
thuê, cho thuê giấy tờ để làm thủ tục xuất cảnh, nhập cảnh; hủy hoại, tẩy xóa, sửa chữa giấy tờ xuất nhập cảnh. (4) Lợi
dụng, lạm dụng hoạt động xuất cảnh, nhập cảnh để xâm phạm an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội của nước Cộng
hòa XHCN Việt Nam.
38 Điều 21 Luật Nhập cảnh, xuất cảnh, quá cảnh, cư trú của người nước ngoài tại Việt Nam, 2014.
quy định của pháp luật, ngoài điều kiện quy
định tại khoản 1 Điều này thì phải có người
đại diện hợp pháp đi cùng”.
So sánh các quy định nêu trên của hai
Nghị định 136/2007/NĐ-CP, 94/2015/NĐ-CP
và Dự thảo Luật Xuất, Nhập cảnh của công
dân Việt Nam, có thể thấy sự tương đồng về
cách tiếp cận và các vấn đề được đề cập, chỉ
có nội dung một số quy định của Dự thảo
Luật Xuất, Nhập cảnh của công dân Việt
Nam mang tính cụ thể, chi tiết và có phần
rộng hơn (ví dụ như trong hai trường hợp đầu
tiên về tạm hoãn xuất cảnh với các đối tượng
đang liên quan đến hoạt động tố tụng).
Đối với người nước ngoài, các trường
hợp chưa cho nhập cảnh bao gồm: (1) người
nước ngoài không đủ điều kiện theo quy định
của pháp luật; (2) trẻ em dưới 14 tuổi không
có cha, mẹ, người giám hộ hoặc người được
ủy quyền đi cùng; (3) người nước ngoài có
hành vi giả mạo giấy tờ, khai sai sự thật để
được cấp giấy tờ có giá trị nhập cảnh, xuất
cảnh, cư trú; (4) người bị mắc bệnh tâm
thần hoặc mắc bệnh truyền nhiễm gây nguy
hiểm cho sức khỏe cộng đồng; (5) người bị
trục xuất khỏi Việt Nam chưa quá 03 năm
kể từ ngày quyết định trục xuất có hiệu
lực; (6) người bị buộc xuất cảnh khỏi Việt
Nam chưa quá 06 tháng kể từ ngày quyết
định buộc xuất cảnh có hiệu lực; (7) chưa
cho nhập cảnh vì lý do phòng, chống dịch
bệnh; (8) chưa cho nhập cảnh vì lý do thiên
tai; (9) chưa cho nhập cảnh vì lý do quốc
phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội38. Các
trường hợp bị tạm hoãn xuất cảnh đối với
người nước ngoài bao gồm: (1) người nước
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
27Số 14(390) T7/2019
ngoài đang là bị can, bị cáo, người có nghĩa
vụ liên quan trong vụ án hình sự hoặc đang là
bị đơn, người bị kiện, người có nghĩa vụ liên
quan trong vụ việc dân sự, kinh doanh thương
mại, lao động, hành chính, hôn nhân và gia
đình; (2) người nước ngoài đang có nghĩa
vụ chấp hành bản án, quyết định của Tòa án,
quyết định của Hội đồng xử lý cạnh tranh;
(3) người nước ngoài chưa hoàn thành nghĩa
vụ nộp thuế; (4) người nước ngoài đang có
nghĩa vụ chấp hành quyết định xử phạt vi
phạm hành chính; (5) bị tạm hoãn xuất cảnh
vì lý do quốc phòng, an ninh. Thời hạn tạm
hoãn xuất cảnh không quá 03 năm và có thể
gia hạn39.
4. Hoàn thiện pháp luật Việt Nam về
quyền tự do đi lại
Để bảo đảm quyền tự do đi lại của
công dân và người nước ngoài ở Việt Nam,
cần tiếp tục hoàn thiện pháp luật về quyền tự
do đi lại về những vấn đề sau:
Thứ nhất, bổ sung quy định hướng
dẫn thi hành Luật Nhập cảnh, xuất cảnh, quá
cảnh, cư trú của người nước ngoài tại Việt
Nam năm 2014.
Theo quy định của Luật Nhập cảnh,
xuất cảnh, quá cảnh, cư trú của người nước
ngoài tại Việt Nam năm 2014, người không
quốc tịch thường trú ở nước ngoài được nhập
cảnh Việt Nam du lịch, thăm người thân;
người không quốc tịch cư trú tại Việt Nam
có nhu cầu xuất cảnh được Bộ Công an xem
xét cấp giấy tờ có giá trị đi lại quốc tế40. Các
quy định này có tính nhân văn cao và phù
hợp với tiêu chuẩn quốc tế song còn thiếu cụ
thể (chưa được quy định cụ thể trong Luật
Nhập cảnh, xuất cảnh, quá cảnh, cư trú của
người nước ngoài tại Việt Nam năm 2014 và
bất kỳ văn bản pháp luật nào hướng dẫn thi
39 Điều 28 Luật Nhập cảnh, xuất cảnh, quá cảnh, cư trú của người nước ngoài tại Việt Nam, 2014.
40 Điều 44 (khoản 1, điểm h và i) Luật Nhập cảnh, xuất cảnh, quá cảnh, cư trú của người nước ngoài tại Việt Nam, 2014.
41 Điều 44 (khoản 2, điểm c) Luật Nhập cảnh, xuất cảnh, quá cảnh, cư trú của người nước ngoài tại Việt Nam 2014.
42 Điều 28, Công ước về vị thế của người không quốc tịch, 1954.
hành Luật này), vì vậy có thể gây những trở
ngại trong việc thực hiện trong thực tế. Ví
dụ, trong khi Luật Nhập cảnh, xuất cảnh, quá
cảnh, cư trú của người nước ngoài tại Việt
Nam năm 2014 quy định cho phép người
không quốc tịch có thể được nhập cảnh Việt
Nam du lịch, thăm người thân đồng thời quy
định nghĩa vụ của người nước ngoài (bao
gồm người không quốc tịch) nhập cảnh vào
Việt Nam phải mang theo hộ chiếu hoặc giấy
tờ có giá trị đi lại quốc tế41, trong khi đó lại
chưa có hướng dẫn chi tiết như thế nào là hộ
chiếu hoặc giấy tờ có giá trị đi lại quốc tế.
Sự thiếu hụt này có thể khiến một số người
không quốc tịch bị từ chối nhập cảnh, đặc
biệt là những người sẽ gặp khó khăn trong
việc có được những giấy tờ như vậy. Do đó,
cần bổ sung quy định hướng dẫn về vấn đề
này theo hướng tạo thuận lợi hơn cho người
không quốc tịch được nhập cảnh vào lãnh
thổ Việt Nam. Bởi lẽ, đây là nhóm dễ bị tổn
thương mà theo luật nhân quyền quốc tế,
các quốc gia cần “xem xét với sự cảm thông
đối với việc cấp giấy tờ thông hành như vậy
cho người không quốc tịch trên lãnh thổ của
mình mà không thể có được một giấy thông
hành của đất nước nơi họ cư trú hợp pháp”42.
Ngoài ra, để phù hợp với tinh thần
của luật nhân quyền quốc tế, cần sửa đổi
quy định của Điều 23 Hiến pháp năm 2013:
“Công dân có quyền tự do đi lại” theo hướng
mở rộng phạm vi chủ thể của quyền tự do đi
lại sang “mọi người có quyền tự do đi lại”.
Quy định này mở rộng chủ thể của quyền tự
do đi lại không chỉ bao gồm công dân Việt
Nam mà còn bao gồm những người nước
ngoài và người không quốc tịch đã được cho
phép nhập cảnh và đang hiện diện hợp pháp
trên lãnh thổ Việt Nam.
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
28 Số 14(390) T7/2019
Thứ hai, ban hành một mẫu “Giấy
thông hành” chung.
Khoản 2 Điều 4 Nghị định 136/2007/
NĐ-CP (sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định
94/2015/NĐ-CP) quy định các loại hộ chiếu
(bao gồm: Hộ chiếu ngoại giao; Hộ chiếu
công vụ; Hộ chiếu phổ thông; Hộ chiếu
thuyền viên) và giấy thông hành (bao gồm:
Giấy thông hành biên giới; Giấy thông hành
nhập xuất cảnh; Giấy thông hành hồi hương;
Giấy thông hành). Mặc dù Nghị định đã có
các quy định nhằm giải thích thế nào là từng
loại hộ chiếu và giấy thông hành43, tuy nhiên,
một số người dân vẫn có thể lúng túng khi
phân biệt các loại giấy tờ đó, đặc biệt là các
loại giấy thông hành.
Hiện tại, Điều 7 Dự thảo Luật Xuất,
Nhập cảnh của công dân Việt Nam đã sửa
đổi theo hướng không liệt kê các loại giấy
thông hành mà chỉ quy định “Giấy thông
hành” là một trong các loại giấy tờ xuất
nhập cảnh (cùng với các loại hộ chiếu). Sửa
đổi này là phù hợp với thực tế, tuy nhiên
cần nhất quán giữa cách tiếp cận này trong
các nghị định hướng dẫn thi hành luật về
sau. Cần nghiên cứu ban hành một mẫu giấy
thông hành chung, trong đó có ghi rõ một
số mục đích để các chủ thể lựa chọn (ví dụ:
vì mục đích đi lại qua biên giới, xuất nhập
cảnh, hồi hương hay mục đích khác). Bên
cạnh đó, cần nghiên cứu xây dựng cơ chế
một cửa, trong đó tích hợp giải quyết tất cả
các dịch vụ cần thiết liên quan đến việc cấp
giấy phép và đăng ký xuất, nhập cảnh (theo
kinh nghiệm của Malaysia44) nhằm tạo thuận
43 Theo Điều 10 Nghị định số136/2007/NĐ-CP (sửa đổi, bổ sung một số điều theo Nghị định 94/2015/NĐ-CP), giấy thông
hành biên giới và giấy thông hành nhập xuất cảnh cấp cho công dân Việt Nam qua lại nước có chung biên giới với Việt
Nam, theo Điều ước quốc tế giữa Việt Nam với nước đó. Theo Điều 11 Nghị định này, giấy thông hành hồi hương cấp
cho công dân Việt Nam định cư ở nước ngoài nhập cảnh về thường trú ở Việt Nam. Theo Điều 12 Nghị định này, giấy
thông hành cấp cho công dân Việt Nam không định cư ở nước ngoài để nhập cảnh về thường trú ở Việt Nam trong
những trường hợp: 1. Không được nước ngoài cho cư trú. 2. Phải về nước theo yêu cầu của cơ quan có thẩm quyền của
Việt Nam mà không có hộ chiếu quốc gia. 3. Có nguyện vọng về nước nhưng không có hộ chiếu quốc gia.
44 Sarji, Civil Service Reforms – Toward Malaysia’s Vision 2020, Kuala Lumpur: Pelanduk Publications, 1996
45 Điều 33 khoản 2 Nghị định số136/2007/NĐ-CP (sửa đổi, bổ sung một số điều theo Nghị định 94/2015/NĐ-CP). Theo
Điều này, công dân Việt Nam có quyền khiếu nại theo quy định của pháp luật khi bị từ chối cấp giấy tờ có giá trị xuất
cảnh, nhập cảnh hoặc khi bị thông báo chưa cho xuất cảnh hoặc khi các cơ quan cấp giấy tờ có giá trị xuất cảnh, nhập
cảnh không thực hiện đúng các quy định của Nghị định này.
lợi cho cả công dân và người nước ngoài.
Thứ ba, bổ sung quy định giải thích
các điều kiện hạn chế quyền tự do đi lại.
Theo quy định của khoản 2 Điều 14
Hiến pháp năm 2013, “quyền con người,
quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo
quy định của luật trong trường hợp cần thiết
lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự,
an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của
cộng đồng”. Tuy nhiên, cho đến nay vẫn
chưa có văn bản nào giải thích làm rõ nội
hàm và phạm vi. Tình trạng này có thể dẫn
đến việc hạn chế không thích đáng quyền tự
do đi lại của người dân, do cách hiểu không
đầy đủ và chính xác về những gì chủ thể
quyền được làm và những gì mà cơ quan
nhà nước được phép giới hạn. Vì vậy, Ủy
ban Thường vụ Quốc hội (cơ quan có thẩm
quyền giải thích Hiến pháp) nên sớm có văn
bản giải thích quy định trên.
Thứ tư, hoàn thiện pháp luật về quyền
khiếu nại của công dân liên quan đến quyền
tự do đi lại.
Theo quy định của pháp luật hiện hành,
khi bị từ chối cấp giấy tờ có giá trị xuất
cảnh, nhập cảnh hoặc khi bị thông báo chưa
cho xuất cảnh hoặc khi các cơ quan cấp giấy
tờ có giá trị xuất cảnh, nhập cảnh không
thực hiện đúng các quy định của pháp luật,
công dân có quyền khiếu nại45. Tuy nhiên,
pháp luật chưa quy định rõ những hình thức
bồi thường thiệt hại khi bị vi phạm như vậy.
Thêm vào đó, quyền khiếu nại này mới chỉ
được quy định với công dân Việt Nam mà
chưa có quy định tương tự cho công dân
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
29Số 14(390) T7/2019
nước ngoài khi nhập cảnh, xuất cảnh ra/
vào Việt Nam. Luật Nhập cảnh, xuất cảnh,
quá cảnh, cư trú của người nước ngoài tại
Việt Nam năm 2014 và các văn bản hướng
dẫn thi hành luật này hiện chưa có quy định
nào về việc khiếu nại và giải quyết khiếu
nại những vi phạm quy định của Luật. Đây
cũng là những khoảng trống pháp luật mà
các cơ quan nhà nước nên nghiên cứu khoả
lấp trong thời gian tới để bảo đảm quyền
được khiếu nại và được bồi thường thiệt hại
của những người bị xâm phạm quyền tự do
đi lại, đặc biệt là trong việc xuất nhập cảnh.
Việc bồi thường thiệt hại cần được thực hiện
trên cơ sở có chứng cứ thực tế, công khai,
minh bạch và không phân biệt đối xử
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Australian Law Reform Commission (ALRC), Traditional Rights and Freedoms— Encroachments by
Commonwealth Laws – Final Report, Chapter 5: Freedom of Movement, 2015. https://www.alrc.gov.au/sites/
default/files/pdfs/publications/ip46_ch_5._freedom_of_movement.pdf
2. Các văn kiện quốc tế về nhân quyền: Tuyên ngôn nhân quyền (UDHR, 1948); Công ước quốc tế về các
quyền dân sự và chính trị (ICCPR, 1966); Công ước về Quyền trẻ em (CRC, 1989); Công ước quốc tế về quyền
của người lao động di trú và các thành viên trong gia đình họ (CRMW, 1973); Công ước về quyền của người
khuyết tật (2007); Công ước về vị thế của người không quốc tịch (1954).
3. Canadian Charter of Rights and Freedom (Canada Act 1982)
4. Dự thảo Luật Xuất, Nhập cảnh của công dân Việt Nam,
DT_DUTHAO_LUAT/View_Detail.aspx?ItemID=1610&LanID=1611&TabIndex=1
5. Gudmundur Alfredsson & Asbjørn Eide, Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền 1948 – Mục tiêu chung của
nhân loại, NXB Lao động – Xã hội, 2010.
6. Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội, Giáo trình Lý luận và Pháp luật về quyền con người, NXB Chính
trị Quốc gia, 2009.
7. Jane McAdam, ‘An Intellectual History of Freedom of Movement in International Law: The Right to
Leave as a Personal Liberty’ (2011) 12 Melbourne Journal of International Law .
8. Hiến pháp năm 2013
9. HRC, Bình luận chung số 27, 1999
10. Magna Carta 1297, mục (30), tại https://www.archives.gov/files/press/press-kits/magna-carta/magna-
carta-translation.pdf Hiến pháp Hợp chúng quốc Hoa Kỳ, Tu chính án số IV.
11. Luật Nhập cảnh, xuất cảnh, quá cảnh, cư trú của người nước ngoài tại Việt Nam năm 2014.
12. Nghị định số 136/2007/NĐ-CP ngày 17/8/2007 về xuất cảnh, nhập cảnh của công dân Việt Nam.
13. Nghị định số 94/2015/NĐ-CP ngày 16/10/2015 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị
định số136/2007/NĐ-CP về xuất cảnh, nhập cảnh của công dân Việt Nam.
14. New Zealand Bill of Rights Act 1990
15. Sarji, Civil Service Reforms - Toward Malaysia’s Vision 2020, Kuala Lumpur: Pelanduk Publications, 1996
16. Trung tâm Nghiên cứu Quyền con người & Quyền công dân, Giới thiệu Công ước quốc tế về các quyền
dân sự và chính trị (ICCPR 1966), NXB Hồng Đức, Hà Nội, 2012.
17. Victorian Act 2006
18. What Is “Freedom of Movement” in the European Union?
Xem: https://www.opensocietyfoundations.org/explainers/what-eu-freedom-movement
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
30 Số 14(390) T7/2019
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- quyen_tu_do_di_lai_theo_phap_luat_quoc_te_va_phap_luat_viet.pdf