Đẩy mạnh tuyên truyền, phổ biến ý
nghĩa của DNXH
Cần nâng cao nhận thức của người dân,
các nhà đầu tư về những đóng góp to lớn của
các DNXH hiện nay trong việc phát triển xã
hội, giải quyết các nhu cầu xã hội cấp bách
mà đôi khi các doanh nghiệp thông thường
cố tình bỏ quên do không mang lại lợi nhuận.
Các phương thức để tuyên truyền phổ biến về
DNXH có thể kể tới như:
- Các phương tiện truyền thông đại chúng
đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy và
quảng bá về DNXH. Điều đó sẽ dễ dàng thu
hút vốn đầu tư của các nhà đầu tư trong và
ngoài nước.
- Tổ chức các buổi truyền thông, hội thảo
về DNXH, các mô hình hoạt động của nó
đang tồn tại và phát triển tại thị trường, tuyên
dương ghi nhận các doanh nhân xã hội xuất
sắc nổi bật.Điều đó góp phần nâng cao nhận
thức của người dân về sự đóng góp của các
DNXH trong việc bảo vệ môi trường, lợi ích xã
hội, phát triển xã hội cũng như vận động các
nhà chính sách thấy được vai trò của DNXH
trong nền kinh tế.
- Phát triển các chương trình đào tạo về
DNXH ở các cấp đại học nhằm phổ biến kiến
thức về DNXH trong sinh viên để họ có những
kiến thức, hiểu biết khởi nghiệp bằng DNXH
trong tương lai.
6 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 19/01/2022 | Lượt xem: 276 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp xã hội theo pháp luật Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
50 TẠP CHÍ KHOA HỌC
QUẢN LÝ VÀ CÔNG NGHỆ
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Doanh nghiệp xã hội (DNXH) là một mô
hình kinh doanh tuy đem lại nhiều lợi ích đóng
góp cho cộng đồng và xã hội nhưng còn khá
mới ở Việt nam, lần đầu tiên được quy định cụ
thể trong Luật Doanh nghiệp năm 2014 (Luật
số 68/2014/QH13).
Theo báo cáo của Trung tâm hỗ trợ sáng
kiến vì cộng đồng (CSIP) số lượng doanh
nghiệp và doanh nhân xã hội do Trung tâm
hỗ trợ đã giúp tạo việc làm cho hơn 100.000
người và cải thiện sinh kế của hơn 600.000
người yếu thế như phụ nữ, trẻ em, đồng bào
dân tộc thiểu số, người khuyết tật, lao động
thu nhập thấp ở các lĩnh vực thiết yếu như
nông nghiệp, giáo dục, môi trường, sức khoẻ
và công nghệ [1]. Hệ thống văn bản pháp luật
hiện nay đề cập về doanh nghiệp xã hội gồm
Luật doanh nghiệp 2014 và Nghị định 96/2015/
QUẢN LÝ - KINH TẾ
QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CỦA DOANH NGHIỆP XÃ
HỘI THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM
Nguyễn Thị Ngọc Anh
Đại học Mỏ - Địa Chất
Email: ngocanh.nt159@gmail.com
TS Nguyễn Thị Hồng Loan
Đại học Mỏ - Địa Chất
Email: loanhumg@gmail.com
Tóm tắt: Doanh nghiệp xã hội là một mô hình kinh doanh còn khá mới tại Việt Nam
nhưng đóng góp của những doanh nghiệp này cho xã hội là rất to lớn hướng tới lợi ích
của cộng đồng, xã hội. Tuy nhiên, các quy định về quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp
xã hội còn chưa tạo được điều kiện cho doanh nghiệp xã hội phát triển. Bài viết phân tích
về quyền và nghĩa vụ của DNXH, qua đó đưa ra một số đề xuất kiến nghị để DNXH có thể
phát triển tốt hơn tại Việt Nam
Từ khoá: doanh nghiệp xã hội, quyền và nghĩa vụ, Pháp luật Việt Nam
NĐ – CP hướng dẫn thi hành với DNXH, với
hệ thống văn bản như vậy việc thúc đẩy, tạo
điều kiện cho DNXH phát triển gặp rất nhiều
khó khăn. Trong khuôn khổ bài báo, tác giả
đề cập tới quyền và nghĩa vụ của DNXH theo
luật, thực trạng thực hiện quyền và nghĩa vụ
của DNXH tại Việt Nam trong tiếp cận nguồn
vốn, đăng ký Từ đó đưa ra những giải pháp
giúp DNXH thực hiện quyền và nghĩa vụ của
mình.
II. KHÁI QUÁT QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ
CHO DOANH NGHIỆP XÃ HỘI
2.1. Khái niệm và đặc điểm của DNXH
Theo điểm a khoản 1 điều 10 Luật Doanh
nghiệp 2014: DNXH phải đáp ứng các tiêu chí
sau: (1)Là doanh nghiệp được đăng ký thành
lập theo quy định của Luật này; (2)Mục tiêu
hoạt động nhằm giải quyết vấn đề xã hội, môi
trường vì lợi ích cộng đồng. (3) Sử dụng ít
51TẠP CHÍ KHOA HỌC
QUẢN LÝ VÀ CÔNG NGHỆ
nhất 51% tổng lợi nhuận hằng năm của doanh
nghiệp để tái đầu tư nhằm thực hiện mục tiêu
xã hội, môi trường như đã đăng ký. Vậy theo
những tiêu chí trên thì DNXH trước hết phải
là doanh nghiệp có những đặc điểm, quyền
và nghĩa vụ như các loại hình doanh nghiệp
được quy đinh tại điều 7 và điều 8 của Luật
Doanh Nghiệp năm 2014 nhưng có thêm một
số đặc điểm đó là:
- Đặt mục tiêu xã hội lên hàng đầu ngay
từ khi mới thành lập. Đây chính là một trong
những yêu cầu cơ bản nhất để phân biệt giữa
DNXH với các loại hình doanh nghiệp khác.
Mục tiêu xã hội phải là mục tiêu chính trong
suốt quá trình tồn tại của doanh nghiệp. Theo
khoản 1 điều 5 Nghị định 96/2015/NĐ – CP
cũng đã khẳng định lại mục tiêu của DNXH là
phải thông báo những cam kết thực hiện mục
tiêu xã hội, môi trường cho cơ quan đăng ký
kinh doanh, công khai các mục tiêu xã hội trên
Cổng thông tin quốc gia về đăng ký doanh
nghiệp khi thành lập doanh nghiệp hoặc trong
quá trình hoạt động.
- Sử dụng hoạt động kinh doanh, cạnh
tranh bình đẳng như một phương tiện để đạt
được mục tiêu xã hội.
- Tái phân bổ phần lớn lợi nhuận từ hoạt
động kinh doanh trở lại cho tổ chức, cộng đồng
và mục tiêu xã hội. Điều này được quy định
rất rõ tại điều 10 Luật Doanh nghiệp 2104: sử
dụng ít nhất 51% tổng lợi nhuận hàng năm để
tái đầu tư cho mục tiêu xã hội, môi trường.
2.2. Quy định pháp lý về quyền và nghĩa
vụ của DNXH
DNXH cũng được lựa chọn các loại hình
doanh nghiệp như Công ty cổ phần, công ty
TNHH, DNTN, công ty hợp danh, được thành
lập theo quy định tại Luật Doanh Nghiệp 2014.
Vì vậy, DNXH cũng có đầy đủ các loại quyền
và nghĩa vụ theo điều 7 và điều 8. Ngoài ra
vì những đặc điểm khác biệt nên DNXH còn
có thêm những quyền và nghĩa vụ khác được
quy định tại khoản 2 điều 10 Luật Doanh
nghiệp 2014.
a. Quy định về nghĩa vụ của DNXH
Một là, duy trì mục tiêu hoạt động nhằm
giải quyết vấn đề xã hội, môi trường vì lợi ích
cộng đồng và sử dụng ít nhất 51% tổng lợi
nhuận hằng năm của doanh nghiệp để tái đầu
tư nhằm thực hiện mục tiêu như đã đăng ký
trong suốt quá trình hoạt động, trường hợp
doanh nghiệp đang hoạt động muốn chuyển
thành DNXH hoặc DNXH muốn từ bỏ mục
tiêu xã hội môi trường, không muốn sử dụng
lợi nhuận để tái đầu tư thì phải thông báo với
cơ quan có thẩm quyền để tiến hành các thủ
tục theo quy định của pháp luật. Theo quy
định tại điều 5 Nghị định 96/2015/NĐ – CP,
DNXH phải thông báo cam kết thực hiện mục
tiêu xã hội, môi trường cho cơ quan đăng kí
kinh doanh để công khai trên Cổng thông tin
Quốc gia về đăng ký doanh nghiệp khi thành
lập hoặc trong quá trình hoạt động. Trong quá
trình hoạt động, nếu DNXH muốn thay đổi
hoặc chấm dứt nội dung Cam kết thực hiện
mục tiêu xã hội, môi trường thì DN phải thông
báo với Phòng đăng ký kinh doanh về nội
dung thay đổi hoặc chấm dứt Cam kết trong
thời hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày có quyết
định thay đổi hoặc chấm dứt để công khai trên
Cổng thông tin quốc gia về đăng ký doanh
nghiệp. Phòng đăng ký kinh doanh thực hiện
cập nhật thông tin vào hồ sơ doanh nghiệp
và công khai trên Cổng thông tin quốc gia về
đăng ký doanh nghiệp trong thời hạn 03 ngày
kể từ ngày nhận được thông báo.
Hai là, không được sử dụng các khoản tài
trợ huy động được cho mục đích khác ngoài
bù đắp chi phí quản lý và chi phí hoạt động để
giải quyết các vấn đề môi trường, xã hội mà
doanh nghiệp đã đăng ký. Trường hợp DNXH
vi phạm nghĩa vụ này thì sẽ bị xử phạt hành
chính theo Nghị định số 50/2016/NĐ – CP
ngày 01/06/2016 của Chính phủ quy định về
xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực kế
52 TẠP CHÍ KHOA HỌC
QUẢN LÝ VÀ CÔNG NGHỆ
hoạch và đầu tư.
Ba là, trường hợp nhận các ưu đãi, DNXH
phải định kỳ hàng năm báo cáo cơ quan có
thẩm quyền về tình hình hoạt động của doanh
nghiệp. Các báo cáo đánh giá tác động xã hội
đối với các hoạt động của doanh nghiệp định
kỳ phải được gửi tới Sở Kế hoạch và Đầu tư
hoặc cơ quan quản lý viện trợ, tài trợ thuộc
UBND cấp tỉnh nơi DNXH đặt trụ sở chính
trong thời hạn chậm nhất là 90 ngày kể từ
ngày kết thúc năm tài chính.
b. Quy định về quyền của DNXH
Một là, chủ sở hữu doanh nghiệp, người
quản lý DNXH được xem xét, tạo điều kiện
thuận lợi và hỗ trợ trong việc cấp giấy phép,
chứng chỉ và các giấy chứng nhận có liên
quan theo quy định của pháp luật. Điều này
được khẳng định lại trong điều 2 NĐ 96 về
những chính sách phát triển đối với DNXH.
Nhà nước khuyến khích và tạo điều kiện cho
các tổ chức, cá nhân thành lập DNXH có mục
tiêu hoạt động nhằm giải quyết các vấn đề xã
hội, môi trường vì lợi ích công đồng. DNXH
được hưởng các ưu đãi và hỗ trợ đầu tư theo
quy định của pháp luật.
Hai là, được huy động và nhận tài trợ
dưới các hình thức khác nhau từ các cá nhân,
doanh nghiệp, tổ chức phi chính phủ và các
tổ chức khác của Việt Nam và nước ngoài để
bù đắp chi phí quản lý và chi phí hoạt động
của doanh nghiệp. DNXH được tiệp nhận tài
trợ bằng tài sản, tài chính hoặc hỗ trợ kỹ thuật
từ các cá nhân, cơ quan, tổ chức trong nước
và tổ chức nước ngoài đã đăng ký hoạt động
tại Việt Nam để thực hiện mục tiêu giải quyết
vấn đề xã hội, môi trường. Việc tiếp nhận các
khoản tài trợ phải được lập thành văn bản và
thông báo cho Sở Kế hoạch và Đầu tư hoặc
cơ quan quản lý viện trợ, tài trợ thuộc Uỷ ban
nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung
ương nơi DN đặt trụ sở chính về việc tiếp
nhận tài trợ.
2.3. Thực trạng thực hiện quyền và nghĩa
vụ của DNXH tại Việt Nam
Theo báo cáo Thống kê của Viện nghiên
cứu kinh tế Trung ương CIEM, CSIP & BC
năm 2012, tính đến năm 2012, Việt Nam có
khoảng 300 DNXH và hơn 165.000 tổ chức,
đơn vị hoạt động dưới hình thức từ thiện phi
lợi nhuận. Đa số các DNXH tập trung tại Hà
Nội và thành phố Hồ Chí Minh. Khoảng 70%
DNXH đã và đang hỗ trợ vào việc xoá đói giảm
nghèo, ổn định cuộc sống, nâng cao thu nhập,
đào tạo nghề và tạo cơ hội công ăn việc làm.
Có khoảng 48% DNXH theo đuổi mục tiêu vì
môi trường như cung cấp các dịch vụ thân
thiện với môi trường, nâng cao nhận thức
của cộng đồng xã hội về vấn đề môi trường
Những đóng góp to lớn cho xã hội như vậy
nhưng số lượng DNXH còn quá nhỏ bé về
quy mô, mỏng về nguồn lực, các DNXH luôn
gặp khó khăn do những quy định chồng chéo,
chưa rõ ràng trong các văn bản pháp luật.
2.3.1. Thực trạng thực hiện nghĩa vụ của
DNXH
Thứ nhất, DNXH được tiếp nhận các
khoản tài trợ từ các tổ chức và cá nhân trong
và ngoài nước để tiến hành các hoạt động
xã hội. Theo Nghị định số 93/2009/NĐ – CP
ngày 22/10/2009 của Chính phủ Ban hành
Quy chế quản lý và sử dụng viện trợ phi Chính
phủ nước ngoài và Thông tư số 07/2010/TT
– BKH ngày 30/03/2010 của Bộ Kế hoạch và
Đầu tư hướng dẫn thi hành nghị định số 93
thì đối với mỗi khoản tài trợ phi Chính phủ,
DNXH phải thành lập một ban quản lý dự án
để quản lý nguồn tài trợ. Yêu cầu đối với ban
quản lý dự án thường gồm các bộ phận như
bộ phận hành chính, tổ chức hỗ trợ, bộ phận
chức năng như kế hoạch, đấu thầu, và bộ
phận kỹ thuật, chuyên môn. Các quy định về
tổ chức thực hiện của ban quản lý dự án rất
cụ thể và chi tiết. Điều này tạo thuận lợi cho
các nhà quản lý có thể dễ dàng theo dõi cũng
như minh bạch trong việc tiếp nhận nguồn tài
53TẠP CHÍ KHOA HỌC
QUẢN LÝ VÀ CÔNG NGHỆ
trợ từ tổ chức phi Chính phủ. Nhưng khi áp
dụng với DNXH sẽ khiến cho bộ máy quản
lý của doanh nghiệp trở lên cồng kềnh, phức
tạp đặc biệt là những DN có nhiều nguồn viện
trợ khác nhau. Thêm vào đó việc tự chủ trong
quản lý nguồn vốn của chủ DNXH bị giảm đi
và phụ thuộc vào ý chí của nhà tài trợ.
Thứ hai, các DNXH gặp rất nhiều khó
khăn, lúng túng trong việc vận hành mô hình
kết hợp giữa mục tiêu xã hội và hoạt động
kinh doanh trong môi trường pháp lý chưa
hoàn thiện, đặc biệt là những vấn đề liên quan
nghĩa vụ nộp thuế của doanh nghiệp. Do đặc
thù của DNXH là kết hợp giữa các hoạt động
xã hội và kinh doanh tạo nguồn thu nên có
rất nhiều khoản chi phí doanh nghiệp không
được coi là khoản chi phí hợp lý được khấu
trừ khi tính thuế thu nhập doanh nghiệp.
Với mục tiêu giải quyết các vấn đề về nhu
cầu an sinh xã hội trong cộng đồng, DNXH
đáng lẽ phải được hưởng các ưu đãi đặc biệt
về thuế để tạo điều kiện phát triển. Tuy nhiên,
Luật Thuế Thu nhập Doanh nghiệp 2008 đã
đưa ra nhiều chính sách giảm thuế đối với cơ
sở thực hiện xã hội hoá trong các lĩnh vực
như: giáo dục – đào tạo, dạy nghề, y tế, văn
hoá, thể thao và môi trường. Điều 19, 20 của
Thông tư số 78/2014/TT – BTC ban hành
ngày 18/6/2014 có nêu rõ các doanh nghiệp
hoạt động xã hội hoá trong lĩnh vực giáo dục
– đào tạo, dạy nghề, môi trường được hưởng
thuế suất ưu đãi 10% trong suốt thời gian hoạt
động. Miễn thuế đối với phần thu nhập không
chia của cơ sở thực hiện xã hội hóa trong lĩnh
vực giáo dục - đào tạo, y tế và lĩnh vực xã hội
hoá khác để lại để đầu tư phát triển cơ sở đó
theo quy định của luật chuyên ngành; phần
thu nhập hình thành tài sản không chia của
hợp tác xã được thành lập và hoạt động theo
quy định của Luật Hợp tác xã. Hiện nay vẫn
chưa có những quy định về việc xác định thu
nhập không chia hay tính thuế đối với phần
thu nhập không chia của DNXH. Điều này
cũng là một trong những nguyên nhân cản trở
sự phát triển của DNXH
2.3.2. Thực trạng thực hiện quyền của
DNXH
Thứ nhất, khó tiếp cận được các nguồn
hỗ trợ, theo các khảo sát của Viện Nghiên
cứu và quản lý Kinh Tế Trung Ương (CIEM),
hầu hết các DNXH tại Việt Nam được thành
lập từ những ý tưởng mang tính cá nhân, nên
vốn đầu tư ban đầu đa phần là vốn tự đóng
góp của các thành viên với quy mô nhỏ.
Các DNXH gặp nhiều khó khăn trong việc
tiếp cận, huy động vốn vay của các ngân hàng
thương mại vì một số lý do như không có tài
sản thế chấp đặc biệt với các DNXH mới
thành lập, quy mô nhỏ, lãi suất cho vay của
ngân hàng cao hơn so với khả năng sinh lời
của DNXH, thời gian hoàn vốn kéo dài hơn so
với các dự án thông thường.
Kết quả điều tra cấu trúc tài sản của CIEM
cho thấy “Phần lớn nguồn vốn của DNXH là
vốn tự có (chiếm 20,3%) và vốn tích luỹ từ
các hoạt động sản xuất kinh doanh (45,5%),
một phần nhỏ từ các nhà tài trợ (5,3%). Vốn
vay thương mại chỉ là một phần trong số các
nguồn vốn khác (vốn vay ngân hàng, vốn vay
gia đình) với tổng số chiếm 28,8%. Trong khi
đối với các doanh nghiệp thương mại, vốn
vay thương mại là nguồn vốn lưu động quan
trọng thúc đẩy phát triển kinh doanh thì đối
với DNXH nguồn tài chính này không chiếm tỉ
trọng chi phối”[2].
Mặc dù đã có những văn bản hướng dẫn,
tạo điều kiện cho các DNXH nhưng chưa có
một quỹ đầu tư xã hội chuyên nghiệp để hỗ
trợ và đầu tư cho DNXH. Điều này dẫn tới
việc các DNXH gặp rất nhiều khó khăn trong
tiếp cận vốn để thực hiện kinh doanh, đạt mục
tiêu duy trì phát triển DN bền vững và vì mục
tiêu cộng đồng mà DN đặt ra.
Thứ hai, không có các chính sách hỗ trợ
về nhân lực. Mặc dù có những chính sách tạo
54 TẠP CHÍ KHOA HỌC
QUẢN LÝ VÀ CÔNG NGHỆ
điều kiện thuận lợi về vốn, cơ chế tiếp cận
vốn, ưu đãi cho các DNXH đạt được các
mục tiêu xã hội nhưng Nhà nước lại chưa có
các chính sách cụ thể và hiệu quả để khuyến
khích sử dụng lao động là người khuyết tật. Ví
dụ các DNXH trong lĩnh vực đào tạo nghề gặp
rất nhiều khó khăn trong việc thu hút các học
viên đầu vào do học viên gặp những trở ngại
về việc giáo viên dạy là người khuyết tật hoặc
các học viên khi ra trường gặp nhiều khó khăn
do bằng cấp, chứng chỉ không được đánh
giá cao so với các trường đào tạo nghề, các
doanh nghiệp đào tạo nghề thông thường.
Ngoài ra rất nhiều DNXH gặp khó khăn trong
việc tìm giáo viên dạy trẻ em có hoàn cảnh
đặc biệt, trẻ tự kỷ hoặc người khuyết tật.
III. KHUYẾN NGHỊ VÀ ĐỀ XUẤT
DNXH là một mô hình khá mới tại Việt
Nam nên các DN này phải đối mặt với nhiều
khó khăn, thách thức để tồn tại và phát triển,
thực hiện những mục tiêu xã hội môi trường
như đã cam kết. Những khó khăn đó xuất phát
từ nhận thức còn hạn chế của các nhà đầu tư
về mô hình mới này, khuôn khổ pháp lý cho
DNXH còn chưa đầy đủ, thiếu hệ thống tiêu
chí, quy chuẩn linh hoạt. Vì vậy, tác giả đưa ra
một số khuyến nghị để góp phần hoàn thiện
hơn địa vị pháp lý của DNXH
3.1. Quy định chi tiết về chính sách hỗ trợ
và ưu đãi phát triển của Nhà nước với DNXH
Đây được coi là một trong những giải
pháp quan trọng để khuyến khích, thúc đẩy
các nhà đầu tư thành lập doanh nghiệp với
mục tiêu xã hội đồng thời giúp các DNXH hiện
nay vượt qua được khó khăn trong quá trình
hoạt động kinh doanh.
Nghị định số 96/2015/NĐ – CP của Chính
phủ đã quy định về chính sách phát triển đối
với DNXH, theo đó Nhà nước tạo điều kiện
cho các tổ chức, cá nhân thành lập DNXH có
mục tiêu, hoạt động nhằm giải quyết các vấn
đề xã hội, môi trường vì lợi ích cộng đồng.
DNXH được hưởng các ưu đãi và hỗ trợ đầu
tư theo quy định, được tiếp nhận viện trợ phi
chính phủ nước ngoài, tiếp nhận tài trợ của
các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước
để thực hiện mục tiêu xã hội. Tuy nhiên theo
quan điểm của tác giả, những quy định đó
còn mang tính chung chung, chưa đầy đủ,
các DNXH vẫn còn gặp khó khăn về thủ tục
khi tiếp nhận viện trợ, hỗ trợ. Các quy định
này phải được bao quát trong các lĩnh vực
như thuế, đấu thầu, đầu tư, hải quanVí dụ
như quy định miễn thuế đối với phần thu nhập
không chia của DNXH đồng thời bổ sung quy
định rõ nội dung hướng dẫn việc xác định thu
nhập không chia của DNXH. Nhà nước có
thể ban hành các chính sách quy định các cơ
quan nhà nước, tổ chức thuộc khu vực công
phải ưu tiên các sản phẩm, dịch vụ của DNXH
khi thực hiện mua sắm công hoặc thuê ngoài.
3.2. Thành lập các cơ quan/bộ phận nhằm
thúc đẩy và hỗ trợ hoạt động của DNXH
Hoạt động của các DNXH ở nước ta còn
gặp rất nhiều khó khăn vì thế bên cạnh việc
đưa các chính sách ưu đãi thì Nhà nước cần
thành lập một bộ phận hoặc cơ quan thực hiện
quản lý nhà nước để thúc đẩy, hỗ trợ DNXH.
Theo Nghị định số 96/2015/NĐ – CP, DNXH
thực hiện đăng ký kinh doanh theo đúng trình
tự, thủ tục và hồ sơ tương ứng với loại hình
doanh nghiệp quy định tại Luật Doanh nghiệp
2014 nhưng bên cạnh đó DNXH còn phải
thông báo cam kết thực hiện các mục tiêu
xã hội, môi trường cho cơ quan đăng ký kinh
doanh để công khai trên cổng thông tin quốc
gia về đăng ký doanh nghiệp. Khi có nhu cầu
thay đổi về thay đổi hoặc chấm dứt nội dung
cam kết hay các thủ tục chia, tách, hợp nhất
hoặc sáp nhập thì DNXH đều phải thông báo
với cơ quan đăng ký kinh doanh theo đúng thủ
tục quy định như đối với doanh nghiệp thông
thường. Tuy nhiên với những đặc thù riêng
biệt của DNXH thì các cơ quan quản lý thông
thường chưa phù hợp. Vì vậy cần phải có một
bộ phận quản lý riêng biệt trong cơ quan đăng
55TẠP CHÍ KHOA HỌC
QUẢN LÝ VÀ CÔNG NGHỆ
ký kinh doanh, theo dõi hoạt động kinh doanh
của DNXH nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho
các doanh nghiệp này khi làm thủ tục thành
lập doanh nghiệp, thay đổi hay chấm dứt các
mục tiêu xã hội đã cam kết.
Ngoài việc có một cơ quan chuyên trách
trong việc đăng ký thành lập, quản lý đối với
DNXH thì cần có những hiệp hội để hỗ trợ cho
DNXH . Hiệp hội này có vai trò phát triển mạng
lưới, tạo điều kiện kết nối các DNXH, tổ chức
trung gia, nhà đầu tư trong và ngoài nước,
giúp DNXH giao lưu học hỏi và tiếp cận nguồn
vốn thuận lợi, nguồn nhân lực và cách thức
quản lý nhằm giúp các DNXH có hành lang
kinh tế, môi trường hoạt động có tính tổ chức
tạo điều kiện phát triển hoạt động kinh doanh
như những doanh nghiệp thông thường
3.3. Đẩy mạnh tuyên truyền, phổ biến ý
nghĩa của DNXH
Cần nâng cao nhận thức của người dân,
các nhà đầu tư về những đóng góp to lớn của
các DNXH hiện nay trong việc phát triển xã
hội, giải quyết các nhu cầu xã hội cấp bách
mà đôi khi các doanh nghiệp thông thường
cố tình bỏ quên do không mang lại lợi nhuận.
Các phương thức để tuyên truyền phổ biến về
DNXH có thể kể tới như:
- Các phương tiện truyền thông đại chúng
đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy và
quảng bá về DNXH. Điều đó sẽ dễ dàng thu
hút vốn đầu tư của các nhà đầu tư trong và
ngoài nước.
- Tổ chức các buổi truyền thông, hội thảo
về DNXH, các mô hình hoạt động của nó
đang tồn tại và phát triển tại thị trường, tuyên
dương ghi nhận các doanh nhân xã hội xuất
sắc nổi bật.Điều đó góp phần nâng cao nhận
thức của người dân về sự đóng góp của các
DNXH trong việc bảo vệ môi trường, lợi ích xã
hội, phát triển xã hội cũng như vận động các
nhà chính sách thấy được vai trò của DNXH
trong nền kinh tế.
- Phát triển các chương trình đào tạo về
DNXH ở các cấp đại học nhằm phổ biến kiến
thức về DNXH trong sinh viên để họ có những
kiến thức, hiểu biết khởi nghiệp bằng DNXH
trong tương lai.
IV. KẾT LUẬN
DNXH đã tồn tại và phát triển tại Việt Nam,
được coi là một mô hình kinh doanh mới, sử
dụng hoạt động kinh doanh để đạt được các
mục tiêu xã hội. Các DN này hoạt động không
vì mục đích lợi nhuận mà được coi là những
tác nhân tích cực trong việc đáp ứng những
vấn đề xã hội, môi trường nảy sinh trong quá
trình phát triển của nền kinh tế, hướng tới tạo
công ăn việc làm của nhóm đối tượng thường
bị bỏ quên, xa lánh trong xã hội. Mặc dù đóng
góp của DNXH là rất lớn nhưng hiện nay chưa
có hệ thống pháp luật hoàn chỉnh để điều
chỉnh. Do vậy các DNXH vẫn tồn tại dưới hình
thức các doanh nghiệp thông thường, các tổ
chức, hiệp hội, trung tâm, hợp tác xã điều
này làm giảm mất một phần bản chất hướng
tới hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp
xã hội. Luật Doanh nghiệp năm 2014 và Nghị
định 96/2015/NĐ – CP là hành lang pháp lý
đầu tiên và cơ bản nhất đề cập tới DNXH. Tuy
nhiên cần hoàn thiện hệ thống pháp luật cũng
như những chính sách của Nhà nước để thúc
đẩy các DNXH trong giai đoạn hiện nay.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. www.
[2]. Nguyễn Đình Cung, Lưu Minh Đức,
Phạm Kiều Oanh, Trần thị Hồng Gấm – Viện
Nghiên cứu Quản lý kinh tế trung ương, Doanh
nghiệp xã hội tại Việt Nam - Khái niệm, bối
cảnh và chính sách, 2012.(trang 65)
[3]. Luật số 68/2014/QH13.
[4]. Nghị định 96/2015/NĐ – CP.
[5]. Thông tư số 78/2014/TT – BTC
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- quyen_va_nghia_vu_cua_doanh_nghiep_xa_hoi_theo_phap_luat_vie.pdf