KẾT LUẬN
Số lượng phụ nữ đang có thai bị rắn độc cắn
đặc biệt do rắn lục không nhiều. Nọc rắn lục gây
nguy hiểm cho cả mẹ và thai nhi chiếm tỷ lệ khá
cao với những biến chứng như xuất huyết da,
niêm và nội tạng, xảy thai, nhau bong non, thai
chết lưu, bao gồm tử vong cho cả mẹ và thai nhi.
Những ảnh hưởng bất lợi lên thai có thể xuất
hiện trước khi ảnh hưởng đến mẹ. Vì vậy phụ
nữ mang thai bị rắn cắn nên điều trị huyết thanh
kháng nọc đặc hiệu càng sớm càng tốt. Tuy
nhiên tùy mức độ nhiễm độc và thời gian đến
bệnh viện sớm hay muộn, các biến chứng sản
khoa như thai chết lưu, nhau bong non do rối
loạn đông máu, và các biến chứng khác xảy ra
sau rắn lục cắn có thể được xử trí khác nhau.
Tuy vậy việc điều chỉnh tình trạng rối loạn đông
máu và việc theo dõi tình trạng của mẹ và thai
nhi phải đảm bảo chặt chẽ(4). Chỉ định chờ
chuyển dạ tự nhiên hay mổ lấy thai phải được
cân nhắc kỹ để không chỉ bảo vệ tử cung mà còn
bảo vệ tính mạng của bệnh nhân.
6 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 07/02/2022 | Lượt xem: 214 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Rắn lục cắn trên bệnh nhân mang thai sáu tháng: Báo cáo một trường hợp, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 4 * 2011
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Chợ Rẫy 2011 470
RẮN LỤC CẮN TRÊN BỆNH NHÂN MANG THAI SÁU THÁNG:
BÁO CÁO MỘT TRƯỜNG HỢP
Trần Quang Bính *, Nguyễn Thị Thúy An*
TÓM TẮT
Rắn lục cắn có thể gây ra nhiều biến chứng nguy hiểm ở phụ nữ có thai. Rối loạn đông máu là nguyên nhân
đe dọa tính mạng của cả mẹ và thai nhi như xuất huyết da, niêm, nội tạng thêm vào các biến chứng sản khoa như
xảy thai, thai chết lưu, nhau bong non. Chúng tôi trình bày một trường hợp phụ nữ 18 tuổi có thai lần đầu với
thai kỳ ở tháng thứ sáu nhập viện muộn 2 ngày sau khi bị rắn lục cắn vào chân (P) với tình trạng đau bụng
từng cơn, rối loạn đông máu nặng với xuất huyết âm đạo, nhau bong non và thai chết lưu. Bệnh nhân được điều
trị bằng huyết thanh kháng nọc rắn lục đặc hiệu, truyền máu và các thành phần khác của máu, mổ lấy thai lưu
và xuất viện sau 9 ngày nhập viện. Việc điều trị huyết thanh kháng nọc rắn lục càng sớm càng tốt ngay những
giờ đầu sau khi bị rắn cắn sẽ giảm được những ảnh hưởng nguy hại cho mẹ và thai. Phụ nữ mang thai bị rắn
cắn cần được theo dõi cẩn thận để tránh những biến chứng sản khoa. Can thiệp phẫu thuật lấy thai chết lưu hay
để diễn tiến xảy thai tự nhiên cần cân nhắc giữa lợi ích và nguy cơ. Việc chỉ định điều trị mổ lấy thai lưu đúng
thời điểm sẽ bảo vệ được tử cung và tránh nguy cơ tử vong.
Từ khóa: Rắn lục cắn, phụ nữ có thai, nhau bong non, thai chết lưu.
SUMMARY
GREEN PIT VIPER BITE ON PREGNANT WOMAN AT 6 TH MONTHS OF GESTATION:
A CASE REPORT
Tran Quang Binh, Nguyen Thi Thuy An
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 15 - Supplement of No 4 - 2011: 470 - 475
The venomous green pit viper can cause many dangerous complications during pregnancy. Coagulation
disorder is life threatened cause for both the mother and fetus as haemorrage of skin, mucosa and visceral organs
as well as obstetric complications such as abortion, fetus death, abruptio placenta. We report an 18 year old
primigravida at 6th month of gestation who was bitten by Green pit viper on her right foot. The patient was
hospitalized at Choray hospital two days later after bite and presented with periodic abdominal pain, severe
coagulation disorders, vaginal bleeding, abruptio placenta and intrauterine fetal death. The patient was treated
with specific antivenom, blood transfusion, caesarean section and was discharged after 9 days of hospitalisation.
Antivenom that should be administered as soon as possible, within the first hours after bite, can limit the damage
for both mother and fetus. Pregnant women bitten by snake should be follow up carefully to avoid obstetric
complications. Surgical intervention or spontaneous abortion should be balanced between risks and benefits.
Caesarean section on the right time will protect the uterus and avoid maternal mortality.
Key words: Green pit viper bite, pregnant women, abruptio placenta, intrauterine fetal death.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Rắn lục xanh (Green pit viper) tên khoa học là
Trimeresurus albolabris thuộc họ Viperidae, gặp
khắp nơi trong cả nước. Bệnh nhân bị rắn lục cắn
chiếm tỉ lệ 43,4% các nạn nhân bị rắn cắn nhập
viện bệnh viện Chợ Rẫy(3). Loài rắn này cũng rất
phổ biến ở khu vực châu Á. Nọc rắn lục ngoài tác
* Khoa Bệnh Nhiệt Đới BV Chợ Rẫy
Tác giả liên lạc: TS.BS. Trần Quang Bính ĐT: 0903841479 Email: binhtq@hcm.vnn.vn
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 4 * 2011 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Chợ Rẫy 2011 471
động tại chỗ gây đau, chảy máu, sưng nề, hoại tử
và bóng nước còn có tác động toàn thân gây rối
loạn đông máu, rối loạn tiêu hóa và choáng phản
vệ. Trong những nghiên cứu ở Nam Phi, Ấn Độ,
và Sri Lanka, tỉ lệ bệnh nhân có thai chiếm
khoảng 0,4 – 1,8% số nạn nhân rắn cắn nhập
viện(2). Tại Việt Nam chưa có số liệu thống kê
chính thức về những trường hợp phụ nữ có thai
bị rắn cắn. Rắn độc cắn trên phụ nữ có thai có thể
dẫn đến kết quả xấu cho cả mẹ và con, và nguy cơ
xảy ra ở mẹ và thai là như nhau trong suốt quá
trình mang thai. Trong báo cáo này, chúng tôi
trình bày một trường hợp phụ nữ mang thai con
so sáu tháng bị rắn lục xanh cắn gây rối loạn đông
máu nặng, thai chết lưu và nhau bong non. Bệnh
nhân có chỉ định mổ lấy thai vì thai chết lưu và
nhau bong non. Tuy nhiên tình trạng rối loạn
đông máu nặng trên bệnh nhân đặt ra vấn đề khó
khăn cho việc phẫu thuật. Hơn nữa nếu để bệnh
nhân chuyển dạ tự nhiên trong trường hợp nhau
bong non với khối máu tụ sau nhau lớn, không có
dấu xóa mở cổ tử cung trong quá trình chuyển dạ
có thể dẫn đến vỡ tử cung. Việc theo dõi, xử trí
đúng, kịp thời với sự phối hợp của nhiều chuyên
khoa như sản khoa, huyết học, ngoại tổng quát,
gây mê hồi sức và bệnh nhiệt đới giúp điều trị can
thiệp thành công.
TRƯỜNG HỢP LÂM SÀNG
Bệnh nhân Trần Thị T, 18 tuổi, giới tính nữ.
Nghề nghiệp làm nông. Địa chỉ: Đà Loan Đức
Trọng Lâm Đồng. Nhập viên: 11/11/2010. Lý do
nhập viện: rắn cắn.
Tiền sử: PARA 0000, đang mang thai tháng
thứ sáu.
Bệnh sử: Bệnh 3 ngày, bệnh nhân ra vườn bị
rắn lục xanh cắn vào mu bàn chân phải, sau cắn
đau nhức, bầm xanh quanh vết cắn, sưng lan tới
cổ chân, không chảy máu, không bóng nước,
không hoại tử. Ngày thứ 2 của bệnh, bệnh nhân
thấy chân phải còn sưng, không chảy máu vị trí
rắn cắn, đau bụng từng cơn, ra máu âm đạo, mệt
và không thấy thai máy nên đến khám và nhập
viện tại bệnh viện đa khoa Lâm Đồng vào ngày
10/10/2010 trong tình trạng tỉnh, da tái, niêm
nhạt, M 80 l/ph, T 37oC, HA 100/60 mmHg, đau
bụng từng cơn, ra máu âm đạo nhiều, tim đều,
bề cao tử cung tương đương thai khoảng 6
tháng, có những cơn gò tử cung. Xét nghiệm tại
bệnh viện Lâm Đồng : HC 2,7 T/L, Hb 8,4 g/dl,
Hct 26,6% TC 63 G/L. không làm được xét
nghiệm đông máu toàn bộ. Bệnh nhân được
chẩn đoán “Rối loạn đông máu/ Rắn lục cắn
/Thai 6 tháng chết lưu, chuyển dạ” và được điều
trị với huyết thanh kháng nọc rắn lục 15 lọ,
truyền máu toàn phần cùng nhóm, dịch truyền,
vitamin K. Sau đó chuyển đến bệnh viện Chợ
Rẫy vì quá khả năng điều trị.
Nhập viện bệnh viện Chợ Rẫy, khoa Cấp
cứu lúc 3h30 11/11/2010 trong tình trạng tỉnh,
tiếp xúc được, M 60 l/ph, HA 100/60mmHg, T
37oC, đau bụng từng cơn, ra huyết âm đạo, bụng
mềm, thai khoảng 6 tháng, vết cắn bàn chân
phải sưng đau bầm xanh không xuất huyết,
không hoại tử. Tại khoa cấp cứu, kết quả siêu âm
cho thấy: trong lòng tử cung có cấu trúc thai,
không thấy tim thai; ECG nhịp xoang 60 l/ph.
Được làm xét nghiệm công thức máu, đông máu
toàn bộ, chức năng gan thận. Bệnh nhân được
chẩn đoán: Rắn lục cắn – Thai lưu 6 tháng và
được chuyển đến khoa Bệnh Nhiệt Đới lúc 6h30’
11/11/2010.
Diễn tiến tại khoa Bệnh Nhiệt Đới
11/11/2010 (7h15’)
Bệnh nhân tỉnh, không sốt, thở nhanh 20 l/p.
Cơn gò thưa, ra huyết âm đạo lượng nhiều. Tim
phổi bình thường. Bụng mềm, bề cao tử cung
(bctc) 28cm. Bàn chân P sưng nề tới cổ chân bầm
máu dưới vết cắn, bầm máu trên da nhiều nơi.
Xét nghiệm: CTM: HC 2,95 T/L. Hb 8,7g/dL. Hct
25,7%. BC 13,52 G/L (N 78,1%). TC 48 G/L.
ĐMTB: PT 18,8s. APTT 37,5s. INR 1,76. ALT 24
U/L. AST 50 U/L. BUN 11 mg%. Creatinin 0,6
mg%. Ion đồ: Na+ 144. K+ 3,1. Cl- 103. Ca++ 1,9
mmol/L. Chẩn đoán: Rắn lục cắn, biến chứng rối
loạn đông máu – Thai 6 tháng chết lưu đang có
dấu hiệu chuyển dạ. Điều trị : Truyền máu: 2
đơn vị hồng cầu lắng, 3 đơn vị plasma tươi, 1
khối tiểu cầu cùng nhóm; Huyết thanh kháng
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 4 * 2011
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Chợ Rẫy 2011 472
nọc rắn lục 05 lọ (Viện vaccine Nha Trang sản
xuất) truyền tĩnh mạch; Kháng sinh Ceftriaxone
1g 2 lọ (TMC). Thuốc ức chế bơm proton (TMC)
và băng dạ dày (uống).
11/11/2010 (8h15’) Hội chẩn lần 1 với bác sĩ
chuyên khoa sản BV Hùng Vương.
Khám sản: BCTC 26cm, cơn gò (+), cổ tử
cung 2cm xóa 70%, ối phồng ngôi cao, ra máu
âm đạo ít. Siêu âm thai: thai ngôi đầu, kích
thước thai (61-65-48mm), không có tim thai, khối
echo kém sau màng thai 80x50mm. Chẩn đoán:
thai lưu khoảng 6-7 tháng, có rối loạn đông máu
và nhau bong non. Xử trí: truyền thêm huyết
thanh kháng nọc rắn lục thêm 10 lọ, truyền máu
theo y lệnh đã cho, chuẩn bị mổ bắt con chủ
động để bảo vệ tử cung.
11/11/2010 (9h45’)
Khoa Bệnh Nhiệt Đới mời hội chẩn liên
chuyên khoa huyết học, ngoại tổng quát, gây mê
hồi sức. Ý kiến sau hội chẩn thống nhất tạm trì
hoãn mổ bắt con vì tình trạng rối loạn đông máu
chưa ổn. Tiếp tục truyền máu thêm 2 đơn vị
hồng cầu lắng, 3 đơn vị plasma, 2 khối tiểu cầu
gạn tách cùng nhóm để đưa các xét nghiệm
đông máu về tình trạng bình thường TC > 100
G/L. APTT 35-40s, INR <1; tiếp tục huyết thanh
kháng nọc rắn; làm thêm xét nghiệm chẩn đoán
đông máu nội mạch lan tỏa (DIC) D-dimer,
Fibrinogen. Tiếp tục theo dõi: CTM, ĐMTB /mỗi
4-6h tới khi ổn định tình trạng rối loạn đông
máu. Cố gắng để thai xảy tự nhiên. Tuy nhiên
cần theo dõi sát chuyển dạ để xử trí cấp cứu
ngoại khoa kịp thời.
11/11/2010 (16h) Hội chẩn sản khoa BV
Hùng Vương lần 2
Kết quả khám: bệnh nhân tỉnh, BCTC 27 cm,
gò cứng; khám âm đạo: cổ tử cung đút lọt 1
ngón tay, dầy, ối căng phồng, huyết đỏ sậm
trong âm đạo. Siêu âm thai: khối máu tụ sau
nhau lớn hơn so với lần khám đấu, thai lưu,
ngôi đầu. Kết quả xét nghiệm công thức máu:
HC 2,57 T/L. Hb 7,5 g/dl. Hct 22,5%. BC 12,83 (N
78,9%). TC 51 G/L. ĐMTB: PT 14,2s. APTT 27,8s.
INR 1,19. Fibrinogen 1,34. D-dimer 5911.
Thrombin time 18,32. Chẩn đoán: Thai lưu 7
tháng, nhau bong non thể nặng, rối loạn đông
máu do rắn cắn. Xử trí: mổ cấp cứu lấy thai, cố
gắng bảo tồn tử cung, dẫn lưu vết mổ qua bụng.
11/11/2010 (16h30’)
Hội chẩn lại với chuyên khoa huyết học khi
có kết quả xét nghiệm: CTM: HC 2,86 T/L. Hgb
7,8 g/dl. Hct 22,7%. BC 16,13 G/L (N 85,1%). TC
77G/L. ĐMTB: PT 13,2s. APTT 28. INR 1,22. Xử
trí: truyền 2 khối tiểu cầu gạn tách, 6 khối kết tủa
lạnh cùng nhóm trước mổ. Xét nghiệm lại công
thức máu và đông máu toàn bộ sau mổ.
11/11/2010 (18h)
Bệnh nhân tỉnh. M 100l/ph, HA 100/60, SpO2
100%. Không đau bụng, còn ra huyết âm đạo, xử
trí: thống nhất thời điểm mổ cấp cứu lấy thai.
Chuẩn bị phòng mổ, mời BS sản BV Hung
Vương và bác sĩ ngoại tổng quát phối hợp mổ
lấy thai. Chuyển BN lên phồng mổ.
11/11/2010 (18h20’)
Bệnh nhân được mổ lấy thai với kết quả
phẫu thuật là một thai lưu bé gái # 800gr, Apgar
0, nước ối đỏ, nhau bong toàn bộ, có máu cục
sau nhau 300gr. Được dẫn lưu hố chậu P, thành
bụng T. Số lượng máu mất trong cuộc mổ 500ml.
Sau mổ sinh hiệu ổn M 80 l/ph, HA
100/60mmHg. Xử trí: truyền Lactate Ringer
500ml TTM, Oxytocin 10 đơn vị pha trong
Glucose 500ml TTM.
12/11/2010 (4h)
BN tỉnh, niêm nhạt, M 80l/ph, HA 100/70.
Ống dẫn lưu ra 70 ml máu loãng, không ra
thêm. Xét nghiệm: CTM: HC 2,95 T/L. Hgb
8,4g/dl. Hct 24,7%. BC 13,49 G/L (N 83,2%). TC
169 G/L. ĐMTB: PT 15,6s. APTT 31,8s. INR 1,39.
Co cục máu hoàn toàn.
12/11/2010 (6h)
BN tỉnh. Niêm nhạt, M 80l/ph, HA 90/60,
nhịp thở 17l/ph. Bụng mềm, ấn đau khắp bụng,
không đề kháng, không phản ứng dội. Vết mổ
khô, thấm băng ít. Tử cung co hồi tốt. Đáy tử
cung trên xương mu 2-3cm. Sản dịch ra ít. 2 ống
dẫn lưu ra ít dịch < 30ml. Xử trí: truyền 3 khối
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 4 * 2011 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Chợ Rẫy 2011 473
kết tủa lạnh cùng nhóm, NaCl 0,9% 500ml TTM,
Oxytocin 5 đơn vị 1 ống pha trong Glucose
500ml TTM. Kháng sinh Ceftriaxone 1g 2 lọ
(TMC), giảm đau, kháng H2 và băng dạ dày.
13/11/2010
BN tỉnh. Bụng mềm. Vết mổ khô. 2 ống dẫn
lưu thành bụng T ra ít dịch hồng. Xử trí: rút 2
ống dẫn lưu, NaCl 0,9% 500ml TTM, Oxytocin 5
đơn vị 1 ống pha trong Glucose 500ml TTM,
kháng sinh Ceftriaxone 1g 2lọ TMC, giảm đau,
kháng H2 và băng dạ dày.
14 – 18/11/2010
Bệnh nhân có các xét nghiệm về đông máu
trở về bình thường ổn định về lâm sàng tỉnh,
sinh hiệu ổn, vết mổ khô, sản dịch ít, chân P
giảm sưng. Siêu âm bụng bình thường. Bệnh
nhân được tiếp tục điều trị với kháng sinh, giảm
đau. Xuất viện ngày 18/11/2010 với chẩn đoán:
Rắn lục cắn có biến chứng rối loạn đông máu /
Hậu phẫu mổ thai lưu ngày thứ 7.
BÀN LUẬN
Rắn cắn trong giai đoạn thai kỳ chiếm tỷ lệ
thấp. Những nghiên cứu tại Nam Phi, Ấn Độ và
Sri Lanka cho thấy tỷ lệ phụ nữ có thai bị rắn
cắn từ 0,4 - 1,8%(2). Nọc rắn độc ảnh hưởng bất
lợi lên cả mẹ lẫn thai, tỷ lệ thai chết chiếm tỷ lệ
khá cao từ 38 - 43% và tỷ lệ tử vong ở mẹ xấp xỉ
10%(4). Rắn lục xanh (Green pit viper -
Trimeresurus albolaris) với độc tố tác động toàn
thân gây rối loạn đông máu ở phụ nữ có thai với
các biểu hiện lâm sàng xuất huyết âm đạo, sẩy
thai, nhau bong non, thai chết lưu Nhiều cơ
chế được đề nghị để giải thích tình trạng thai
chết lưu hay xẩy thai ở bệnh nhân có thai bị rắn
cắn gồm có tình trạng thiếu oxy của thai do
người mẹ bị choáng sau khi nhiễm độc, tác dụng
trực tiếp của độc tố lên thai nhi, xuất huyết trong
nhau và thành tử cung gây ra nhau bong non, co
cơ tử cung sớm do độc tố, các chất gây sốt và các
cytokin giải phóng từ tổn thương các mô, chảy
máu của mẹ gây thiếu máu cấp cho thai nhi có
thể gây thai chết lưu, tụt huyết áp và kể cả phản
ứng phản vệ ở mẹ xẩy ra với độc tố của rắn(2).
Độc tố của nhiều loại rắn khác nhau có thể gây
co cơ của tử cung trên động vật thực nghiệm và
trên cơ của tử cung riêng biệt. Độc tố có thể tác
động trực tiếp lên cơ của tử cung hoặc thông
qua sự giải phóng các chất tác động mạnh của
hệ Bradykinin trên cơ tử cung(2).
Trong báo cáo này chúng tôi trình bày một
trường hợp bệnh nhân bị rắn lục cắn, đang có
thai ở tháng thứ sáu của thai kỳ. Bệnh nhân đau
nhức, bầm xanh quanh vết cắn, sưng lan tới cổ
chân, không chảy máu, không bóng nước và
hoại tử. Bệnh nhân không đến bệnh viện ngay
để được xử trí đặc hiệu kịp thời. Sau 2 ngày bị
cắn, bệnh nhân thấy còn sưng đau nơi bị cắn ở
chân P, đau bụng từng cơn, ra máu âm đạo, mệt
và không thấy thai máy nên mới nhập viện bệnh
viện Đa Khoa Lâm Đồng. Tại bệnh viện Lâm
Đồng, các triệu chứng của rối loạn đông máu,
đau bụng được ghi nhận, và siêu âm đã xác định
là thai chết lưu. Cách điều trị của bệnh viện Lâm
Đồng, truyền huyết thanh kháng nọc rắn đặc
hiệu, truyền máu, sau đó chuyển đến bệnh viện
Chợ Rẫy là phù hợp với trang bị, phương tiện
điều trị của địa phương. Tại Bệnh viện Chợ Rẫy
bệnh nhân đã được khẳng định là thai chết lưu
và có dấu hiệu thai lưu chuyển dạ trong tình
trạng rối loạn đông máu còn nặng. Sau khi hội
chẩn và với ý kiến của chuyên khoa sản lần thứ
1, phẫu thuật mở tử cung lấy thai lưu chủ động
để bảo vệ tử cung là hoàn toàn đúng nhưng vấn
đề đặt ra là có an toàn cho bệnh nhân và thầy
thuốc khi phẫu thuật trong tình trạng rối loạn
đông máu còn nặng nề, và khả năng chảy máu
trong lúc mổ và hậu phẫu có thể sẽ dẫn đến
bệnh nhân tử vong. Vì vậy vẫn có ý kiến cho
rằng nên để bệnh nhân xảy thai tự nhiên và chỉ
nên điều trị bảo tồn nội khoa, không can thiệp
sản khoa. Tuy vậy chúng tôi vẫn chuẩn bị xử trí
theo 2 tình huống, hoặc để xảy thai tự nhiên
theo diễn tiến và xử trí can thiệp sản khoa. Bệnh
nhân được hội chẩn thêm với các chuyên khoa
huyết học, ngoại tổng quát và gây mê hồi sức để
chuẩn bị cho khả năng phẫu thuật. Trường hợp
này chúng tôi đã tạm hoãn chỉ định phẫu thuật,
theo dõi và tiếp tục điều trị với huyết thanh
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 4 * 2011
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Chợ Rẫy 2011 474
kháng nọc rắn đặc hiệu, truyền plasma tươi, tiểu
cầu và hồng cầu lắng để điều chỉnh tình trạng
rối loạn đông máu. Sau lần hội chẩn thứ 2 với
chuyên khoa sản, thấy quá trình chuyển dạ
không diễn tiến thêm, cổ tử cung không xóa mở,
trong khi khối máu tụ sau nhau lớn hơn so với
lần khám sản đầu tiên. Lúc này tình trạng rối
loạn đông máu có cải thiện tốt hơn, khả năng để
chuyển dạ tự nhiên có nhiều nguy cơ hơn can
thiệp sản khoa chủ động. Vì vậy chúng tôi đã
quyết định can thiệp sản khoa vì những lý do
sau: (1) thai chết lưu, nhau bong non và khối
máu tụ sau nhau quá lớn, cơn co tử cung có khả
năng gây vỡ tử cung. (2) quá trình chuyển dạ tự
nhiên không tiến triển với cổ tử cung không xóa
mở thêm. (3) Khả năng đờ tử cung và băng
huyết sau sanh có thể xảy ra và sau cùng dẫn
đến có khả năng cắt tử cung(4) bệnh nhân còn trẻ
chưa có con, cần thiết phải bảo toàn tử cung.
Việc phẫu thuật lấy thai lưu được tiến hành
trong điều kiện đã được chuẩn bị tốt và tiên
lượng trước những khả năng có thể xảy ra trong
và sau phẫu thuật nên đã thành công bảo toàn
được tử cung cho người mẹ. Bệnh nhân ra viện
sau hơn một tuần điều trị tại khoa Bệnh Nhiệt
Đới bệnh viện Chợ Rẫy.
Phụ nữ có thai bị rắn độc cắn có thể cứu
được cả mẹ và thai nhi hay không? A. Sebe và
công sự đã trình bày 3 trường hợp phụ nữ có
thai bị rắn cắn, một trường hợp ở thai kỳ thứ ba
(32 tuần), 2 trường hợp còn lại ở thai kỳ thứ hai
(18 tuần và 27 tuần). Cả 3 trường hợp được điều
trị thành công với huyết thanh kháng nọc rắn
đặc hiệu, cứu sống cả mẹ và thai nhi, sanh đúng
ngày dự kiến và thai nhi phát triển bình
thường(A). Các bệnh nhân này đều đến cấp cứu
tại bệnh viện rất sớm, trong vòng vài giờ sau khi
bị rắn cắn và được điều trị huyết thanh kháng
nọc rắn đặc hiệu đa giá. Trường hợp bệnh nhân
của chúng tôi đến bệnh viện vào ngày thứ hai
sau khi bi rắn cắn, giả định nếu bệnh nhân đến
bệnh viện ngay sau khi bị tai nạn, được xác định
là rắn lục cắn, được xử trí ngay huyết thanh
kháng nọc rắn đặc hiệu thì có thể đã không có
các biến chứng kể trên và có khả năng bảo toàn
được thai nhi. Tuy nọc độc của rắn lục ảnh
hưởng bất lợi đến cả mẹ và thai nhưng hiện nay
đã có huyết thanh kháng nọc rắn lục đặc hiệu để
trung hòa. Hiệu quả của huyết thanh kháng nọc
rắn trên thai vẫn chưa rõ ràng và còn nhiều
tranh cãi(1), nhưng trong những trường hợp
nặng nó vẫn được sử dụng phổ biến, đặc biệt
trong trường hợp những phụ nữ có thai bị rắn
cắn(1,6). Nghiên cứu trên 17 phụ nữ có thai được
điều trị bằng huyết thanh kháng nọc rắn trong
đó có 11 trường hợp xảy thai và một dị tật thai
(64,7%), Seneviratne và cộng sự ghi nhận huyết
thanh kháng nọc không là một yếu tố nguy cơ
độc lập gây kết quả xấu trên thai nhi(5). Trường
hợp thai chết lưu có thể để chuyển dạ xảy thai tự
nhiên không? H.P.Pant và cộng sự đã báo cáo
một trường hợp bệnh nhân có thai 33 tuần bị rắn
lục xanh cắn vào bàn chân phải, bệnh nhân nhập
viện vào ngày thứ 6 của bệnh trong tình trạng
thai chết lưu đã có hiện tượng phân rã
(maceration) và rối loạn đông máu, trường hợp
này bệnh nhân được điều trị kháng sinh, điều
chỉnh rối loạn đông máu và thiếu máu bằng
truyền máu và vitamin K, không dùng huyết
thanh kháng nọc rắn vì bệnh nhân đến quá
muộn, bệnh nhân được dục sanh bằng ngã âm
đạo bình thường(4). Trường hợp bệnh nhân của
chúng tôi đã nhập viện vào ngày thứ 2 sau khi bị
rắn cắn. Như vậy cả hai trường hợp phụ nữ có
thai bị rắn độc cắn của tác giả H.P Pant và của
chúng tôi đều đến muộn với thai chết lưu. Như
vậy những ảnh hưởng bất lợi lên thai do độc tố
của rắn độc gây ra có thể xuất hiện trước khi ảnh
hưởng đến mẹ. Trong một báo cáo tại Đài Loan(6)
về 3 trường hợp phụ nữ có thai bị rắn lục cắn,
một trường hợp ở thai kỳ thứ nhất (8 tuần), 2
trường hợp còn lại ở thai kỳ thứ hai và thứ ba
(17 tuần và 28 tuần). Cả 3 trường hợp đều nhập
viện trong vòng 1- 4 giờ sau khi bị rắn cắn, được
điều trị thành công với huyết thanh kháng nọc
rắn đặc hiệu, cứu sống cả mẹ và thai nhi, quá
trình theo dõi ghi nhận trẻ phát triển bình
thường sau sanh. Cơ may sống của thai nhi
trước hết là phải bảo đảm cho sự sống còn của
người mẹ. Vì vậy, phụ nữ mang thai bị rắn lục
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 4 * 2011 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Chợ Rẫy 2011 475
cắn nên điều trị huyết thanh kháng nọc rắn lục
càng sớm càng tốt. Việc điều trị sớm huyết
thanh kháng nọc có thể ngăn chặn tình trạng
xuất huyết trong nhau thai hoặc trong cơ tử
cung, tuy rằng theo một số tác giả ảnh hưởng
của huyết thanh kháng nọc trên thai nhi chưa rõ,
còn nhiều bàn cãi, và việc sử dụng huyết thanh
kháng nọc cũng cần cân nhắc giữa lợi ích và
nguy cơ khi dùng.
KẾT LUẬN
Số lượng phụ nữ đang có thai bị rắn độc cắn
đặc biệt do rắn lục không nhiều. Nọc rắn lục gây
nguy hiểm cho cả mẹ và thai nhi chiếm tỷ lệ khá
cao với những biến chứng như xuất huyết da,
niêm và nội tạng, xảy thai, nhau bong non, thai
chết lưu, bao gồm tử vong cho cả mẹ và thai nhi.
Những ảnh hưởng bất lợi lên thai có thể xuất
hiện trước khi ảnh hưởng đến mẹ. Vì vậy phụ
nữ mang thai bị rắn cắn nên điều trị huyết thanh
kháng nọc đặc hiệu càng sớm càng tốt. Tuy
nhiên tùy mức độ nhiễm độc và thời gian đến
bệnh viện sớm hay muộn, các biến chứng sản
khoa như thai chết lưu, nhau bong non do rối
loạn đông máu, và các biến chứng khác xảy ra
sau rắn lục cắn có thể được xử trí khác nhau.
Tuy vậy việc điều chỉnh tình trạng rối loạn đông
máu và việc theo dõi tình trạng của mẹ và thai
nhi phải đảm bảo chặt chẽ(4). Chỉ định chờ
chuyển dạ tự nhiên hay mổ lấy thai phải được
cân nhắc kỹ để không chỉ bảo vệ tử cung mà còn
bảo vệ tính mạng của bệnh nhân.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Langley RL (2004). A review of venomous animal bites and
stings in pregnant patients. Wilderness Environmental Med.
2004; 15 ; p 207-215 (2004).
2. Langley RL (2010). Snakebite During Pregnancy: A literature
Review. Wilderness Environmental Med. 2010; 21 ; p 54-60
3. Lê Khắc Quyến (2010). Rắn độc cắn tại Việt Nam, Đơn vị Hồi
sức – Chống độc, Khoa Bệnh Nhiệt Đới, BV Chợ Rẫy.
4. Pant H.P., Poudel R., Dsovza V. (2010). Intrauterine death
following green tree viper bite presenting as antepartum
hemorrage. Int. J. Obstetric Anesth 2010 Jan 19(1): p102-103
A. Sebe, S Satar, A Acikalin (2005). Snakebite during pregnancy.
Human & Experimental Toxicology 24: p341-345.
5. Seneviratne SL, de Silva CE, Fonseka MMD, Pathmeswaran
A, Gunatilake SB, de Silva HJ (2002). Envenoming due to
snake bite during pregnantcy. Trans R Soc Trop Med Hyg
2002 ; 96 ; p 272-274.
6. Yen C C, Min Hui C, Chen C.Y, Yen W. C, Lee M.W, Chun I.
H. (2007). Trimeresurus stejnegeri Envenoming during
pregnancy. Am J Trop Med Hyg 2007; 77(5); p 847-849.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- ran_luc_can_tren_benh_nhan_mang_thai_sau_thang_bao_cao_mot_t.pdf