Đối với những rào cản phát sinh trong chính sách hợp tác
- Về hệ thống nghiên cứu khoa học của từng quốc gia: nghiên cứu kỹ bằng
cách thu thập thông tin và quan tâm tới quan điểm hợp tác, lĩnh vực hợp
tác và phương thức tổ chức của hệ thống nghiên cứu khoa học.
- Về chiến lược hợp tác theo chiều dọc: thực hiện các nghiên cứu dự đoán
trước sứ mệnh và tầm nhìn về hành động từng cấp (địa phương, khu vực,
quốc gia). Các nghiên cứu dự đoán sẽ tăng cường sự kết nối và hợp tác
theo chiều dọc.
- Về chiến lược hợp tác theo chiều ngang:
+ Khuyến khích chia sẻ ý tưởng, kết quả nghiên cứu giữa các bên tham
gia;
+ Thiết lập nhóm nghiên cứu đa lĩnh vực làm việc theo chương trình
nghiên cứu chung, đã được chia nhỏ từ chương trình hợp tác tổng thể,
cùng sử dụng chung công cụ, con người và cơ sở hạ tầng KH&CN.
9 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 13/01/2022 | Lượt xem: 314 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Rào cản trong hoạt động hợp tác quốc tế về khoa học và công nghệ, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
116 Rào cản trong hoạt động hợp tác quốc tế về KH&CN
RÀO CẢN TRONG HOẠT ĐỘNG HỢP TÁC QUỐC TẾ
VỀ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
Đinh Thị Thanh Long1
Khoa Kinh doanh quốc tế - Học viện Ngân hàng
Tóm tắt:
Hoạt động hợp tác quốc tế về khoa học và công nghệ (KH&CN) đóng vai trò quan trọng
trong nền kinh tế tri thức với sự tham gia của nhiều chủ thể. Hợp tác quốc tế về KH&CN,
một mặt, mang lại nhiều lợi ích cho các bên tham gia như thu hẹp khoảng cách, tăng khả
năng cạnh tranh của các quốc gia Mặt khác, hợp tác quốc tế về KH&CN cũng có nhiều
thách thức. Bài viết tập trung vào những rào cản phát sinh từ quá trình hợp tác, các chính
sách hợp tác quốc tế về KH&CN và đề xuất các sáng kiến vượt qua các rào cản.
Từ khóa: Khoa học và công nghệ; Hợp tác quốc tế; Chính sách.
Mã số: 19050601
1. Khái niệm hợp tác quốc tế về khoa học và công nghệ
Ngày nay, những sản phẩm của hoạt động KH&CN (sáng chế, giấy phép,
bản quyền,...) đã thực sự trở thành hàng hóa trao đổi trên thế giới. Sản
phẩm KH&CN đã trở thành hàng hóa và giao dịch mua bán sản phẩm
KH&CN đã trở thành giao dịch kinh tế. Ở tầm vĩ mô, hoạt động hợp tác
quốc tế (HTQT) về KH&CN trở thành chính sách kinh tế đối ngoại giúp
tăng cường năng lực cạnh tranh của một quốc gia, trực tiếp ảnh hưởng tới
sự tham gia của các chủ thể trên các phương diện kinh tế, chính trị, xã hội
khi tiếp cận thông tin, truyền bá tri thức và sáng tạo công nghệ.
Sự xuất hiện của mạng Internet đã giúp cho sự kết nối giữa các chủ thể
tham gia và hỗ trợ quá trình hợp tác, khoa học kỹ thuật số đã làm gia tăng
sự kết nối và hỗ trợ hoạt động HTQT, tạo ra mạng lưới HTQT đa lĩnh vực
của các nhà khoa học trên quy mô quốc tế. Rất ít học giả đề cập tới khái
niệm HTQT về KH&CN, nhưng yếu tố phức tạp và tính kỷ luật nghiêm
ngặt của khoa học không ngừng thôi thúc các học giả và các nhà nghiên cứu
hợp tác với nhau để có được lợi thế nhất định. Về mặt lý thuyết, HTQT về
KH&CN được nghiên cứu theo nhiều quan điểm, có thể là mối quan hệ hay
là một quá trình.
1 Liên hệ tác giả: longdtt@hvnh.edu.vn
JSTPM Tập 8, Số 2, 2019 117
1.1. Khái niệm hợp tác quốc tế về khoa học và công nghệ theo cách tiếp
cận mối quan hệ
Các tổ chức quốc tế là người đi tiên phong theo quan điểm HTQT về
KH&CN là mối quan hệ. Hợp tác quốc tế về KH&CN liên quan tới quá
trình quốc tế hóa. Theo quan điểm của nhóm chuyên gia tư vấn thuộc Ủy
ban châu Âu (Expert Groups), HTQT về KH&CN được hiểu theo hai lĩnh
vực/mức độ:
- Các hoạt động với mục đích khởi tạo tri thức và đổi mới sáng tạo:
(i) Do các hoạt động hợp tác, phối hợp quốc tế; các hoạt động liên quan tới
dòng vốn đầu tư vào và ra khỏi một quốc gia; các hoạt động chuyển giao
tri thức như di chuyển nhân lực, sử dụng và chia sẻ chi phí liên quan tới dữ
liệu và cơ sở hạ tầng trên quy mô quốc tế.
(ii) Do các nhà nghiên cứu thuộc khu vực công hoặc tư; các tổ chức công;
các tổ chức dân sự và các công ty.
- Khung chính sách, chính sách và các nguồn lực hỗ trợ:
(i) Tất cả các hoạt động kể trên, từ hoạt động hợp tác, phối hợp, hội nhập
chính sách và điều chỉnh hoạt động;
(ii) Giải quyết các vấn đề phát sinh, gồm cả các tranh chấp trong quá trình
hợp tác;
(iii) Tiến tới xóa bỏ các hàng rào, tạo thuận lợi cho quá trình quốc tế hóa.
1.2. Khái niệm hợp tác quốc tế về khoa học và công nghệ theo cách tiếp
cận quá trình
Bozeman (2014, tr. 2) cho rằng “hoạt động HTQT về KH&CN là một quá
trình xã hội qua đó con người tận dụng lợi thế từ kinh nghiệm, tri thức và
kỹ năng xã hội để đạt được mục tiêu sản xuất tri thức, bao gồm tri thức đi
kèm theo công nghệ”. Bozeman đã phát triển lý thuyết của Dietz và cộng sự
(2001) nhấn mạnh nguồn lực xã hội (mối quan hệ, mạng lưới hoạt động)
với nguồn lực con người (khả năng của nhà khoa học qua quá trình giáo dục
và đào tạo) trong quá trình hợp tác. Khái niệm của Bozeman cần chú ý tới
các vấn đề:
- HTQT về KH&CN phải là nơi tập trung các tài năng để sáng tạo tri thức
và mang lại sản phẩm tri thức xác định được như là bài báo, bằng sáng
chế, mà quan trọng hơn là phát triển công nghệ, phần mềm, đăng ký
bản quyền;
- Các bên tham gia hợp tác có thể là: (i) người trực tiếp có tên đồng tác giả
trên kết quả hợp tác; (ii) người không ghi danh trên kết quả hợp tác
118 Rào cản trong hoạt động hợp tác quốc tế về KH&CN
nhưng chia sẻ nguồn lực con người có đóng góp đáng kể như giáo sư
góp ý, đưa ra ý tưởng chính cho luận án của nghiên cứu sinh nhưng
không đứng tên trên luận án Tiến sỹ; hoặc những người có kiến thức sử
dụng thiết bị nghiên cứu giúp thí nghiệm thành công nhưng không có tên
trên đăng ký bằng sáng chế,;
- Mục tiêu của quá trình hợp tác là “sản xuất tri thức” chứ không phải là
“đạt được tri thức”. Do đó, nguồn lực tài chính và các nguồn vật chất
khác có vai trò quyết định sự thành công của hoạt động hợp tác, nhưng
chủ thể cung cấp tài chính và vật chất không được coi là các bên tham
gia hợp tác;
- Do quá trình hợp tác là “sản xuất tri thức” nên các nhà nghiên cứu tham
gia với hai mục tiêu gắn với hai hoạt động nghiên cứu. Thứ nhất, mục
tiêu hợp tác để gia tăng tri thức và củng cố sự nghiệp với kết quả nghiên
cứu là số công trình khoa học được công bố, số trích dẫn, số tài liệu
được sử dụng. Thứ hai, là mục tiêu hợp tác kinh tế để gia tăng của cải
được đo lường bởi số lượng bằng sáng chế, số lượng công nghệ mới, số
lượng doanh nghiệp khởi nghiệp và lợi nhuận thu về. Hai mục tiêu có
mối liên hệ tương hỗ với nhau trong hoạt động hợp tác. Khoa học ứng
dụng thường đòi hỏi kiến thức cơ bản mới và doanh nghiệp lại góp vốn
cho trường đại học nghiên cứu kiến thức cơ bản mới phục vụ doanh
nghiệp. Với mục tiêu thứ nhất, chủ thể tham gia thông thường là các nhà
khoa học trong trường đại học. Còn với mục tiêu thứ hai, chủ thể tham
gia là các nhà khoa học và doanh nghiệp.
2. Rào cản trong hợp tác quốc tế về khoa học và công nghệ
Với hai khái niệm được trình bày ở phần 1, rào cản trong HTQT về
KH&CN bắt nguồn ngay trong quá trình hợp tác, các rào cản liên quan tới
chính sách quản lý hoạt động KH&CN và các chính sách có liên quan.
2.1. Rào cản trong quá trình hợp tác quốc tế về khoa học và công nghệ
Quá trình HTQT về KH&CN sẽ gắn với hai phương pháp tiếp cận:
- Chiến lược HTQT “do chính phủ khởi xướng hay chiến lược HTQT từ
trên xuống” đòi hỏi sự tham gia của chính phủ khởi xướng cho quá trình
hoạt động. Ví dụ điển hình nhất là các chính phủ ký kết chương trình
hợp tác song phương và đa phương.
- Chiến lược HTQT “do nhà khoa học khởi xướng hay chiến lược HTQT
từ dưới lên” thì hoạt động HTQT lại xuất phát từ sáng kiến, thảo luận,
hành động chủ yếu giữa các nhà khoa học (kể cả nhà quản lý của đơn vị
trực tiếp nghiên cứu).
JSTPM Tập 8, Số 2, 2019 119
Chiến lược HTQT “do chính phủ khởi xướng” hay “do các nhà khoa học
khởi xướng” đều được xây dựng với mục đích: xây dựng nền tảng cơ bản
khuyến khích HTQT về KH&CN giữa các quốc gia, dỡ bỏ các hàng rào
trong hoạt động HTQT. Ngoài ra, quan trọng hơn, hai chiến lược HTQT kể
trên khuyến khích động cơ nghiên cứu và bảo hộ quyền hợp pháp cho các
nhà nghiên cứu với 5 yêu cầu ở quản lý vĩ mô cho các chương trình hợp tác
song phương và đa phương: đề ra mục tiêu ưu tiên hợp tác, quản lý nguồn
và sử dụng tài chính, chia sẻ tri thức và bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ, áp
dụng KH&CN và đổi mới sáng tạo vào thực tiễn, xây dựng năng lực cho
nghiên cứu và đổi mới sáng tạo (Stamm và cộng sự 2012).
Quá trình HTQT vốn được coi là một quá trình phức tạp với sự khác biệt về
đặc tính của từng chủ thể. Mỗi chủ thể tham gia lại có mối quan hệ hợp tác
với các chủ thể khác trong mạng lưới HTQT với sự khác biệt về mức độ
hợp tác, kênh hợp tác, loại hình hợp tác và những kỳ vọng khác nhau về kết
quả hợp tác. Bất kỳ quá trình hợp tác nào cũng đều phải trải qua các giai
đoạn sau:
- Xác định mục tiêu hợp tác và những cam kết ban đầu;
- Đánh giá hoạt động hợp tác có khả thi hay không;
- Tiến hành các hoạt động;
- Sử dụng kết quả nghiên cứu: thực hiện các biện pháp truyền bá tri thức
và bảo vệ, quản lý, chia sẻ quyền sở hữu trí tuệ;
- Đánh giá hiệu quả của quá trình hợp tác.
Những khó khăn có thể nảy sinh ngay trong nội tại từng giai đoạn của quá
trình hợp tác, liên quan các yếu tố đầu vào (đặc tính của các chủ thể hợp tác)
và các yếu tố ảnh hưởng tới quy trình (cơ chế, mô hình hợp tác) (Bảng 1).
Bảng 1. Những rào cản trong quá trình HTQT về KH&CN
Giai đoạn Rào cản phát sinh
1. Xác định mục tiêu,
phạm vi hợp tác và những
cam kết ban đầu.
Mô tả công việc:
- Các nhà hoạch định
chính sách xác định phạm
vi hợp tác, trong đó, đề
xuất lĩnh vực nghiên cứu
hoặc đổi mới sáng tạo.
- Khởi xướng, xây dựng
chương trình hợp tác với
các cam kết vốn ban đầu.
Nhà hoạch định chính sách và nhà khoa học có mục tiêu ưu
tiên nghiên cứu khác nhau. Nhà hoạch định chính sách có thể
ưu tiên các mục tiêu hợp tác giải quyết vấn đề xã hội, toàn
cầu, hoặc chính sách ngoại giao. Trong khi nhà khoa học hợp
tác đơn giản chỉ giải quyết vấn đề khoa học hoặc mục tiêu
nghiên cứu cụ thể.
Khó khăn về tài chính: những quy định về nguồn tài trợ, cấp
vốn, miễn giảm thuế và cơ chế kiểm toán khác nhau giữa các
quốc gia. Nhiều dự án đáp ứng tính cấp thiết về khoa học
nhưng không được cấp vốn vì không thuộc lĩnh vực ưu tiên
nghiên cứu.
Khó khăn về chủ thể: thiếu lòng tin lẫn nhau, khả năng sử
120 Rào cản trong hoạt động hợp tác quốc tế về KH&CN
Giai đoạn Rào cản phát sinh
dụng ngôn ngữ chưa thành thạo, sự khác biệt về văn hóa
nghiên cứu và làm việc.
2. Đánh giá tính khả thi
của hoạt động hợp tác.
Mô tả công việc:
- Mời thầu, xét duyệt và
lựa chọn dự án hợp tác.
Sự khác biệt trong quá trình xét duyệt đối tác nghiên cứu: quy
định lựa chọn đối tác khác nhau; cách thức lựa chọn đối tác
khác nhau (về hồ sơ dự thầu, tiêu chí xét duyệt, hướng dẫn
xét duyệt và thông báo trúng thầu); chủ thể tham gia xét duyệt
là các chuyên gia với trình độ và lĩnh vực chuyên môn khác
nhau
3. Thực hiện hợp tác.
Mô tả công việc:
Quản lý công việc hành
chính và thực hiện hợp
tác hiệu quả. Thực hiện
giám sát, đánh giá từng
giai đoạn theo cơ chế liên
tục.
Sự khác biệt về hệ thống pháp lý và giám sát, về tốc độ thực
hiện khối lượng công việc theo giai đoạn, về tương tác giữa
các bên trong quá trình thực hiện. Sự khác biệt lớn nhất chính
là quy định, chương trình đào tạo nghiên cứu sinh và cao học
nếu chương trình hợp tác thỏa thuận có đào tạo, có cho phép
sự tham gia của các sinh viên sau đại học.
Không có điểm hỏi đáp và chia sẻ ý tưởng thực hiện giữa hai
bên.
4. Sử dụng kết quả nghiên
cứu.
Mô tả công việc: thiết lập
khung pháp lý về quyền
sở hữu trí tuệ (IP) và thỏa
thuận đa phương sử dụng
kết quả nghiên cứu.
Khó khăn về thỏa thuận cấp vốn nếu bên đối tác nước ngoài
kiên quyết duy trì toàn bộ quyền sở hữu trí tuệ cho kết quả
nghiên cứu.
Sự khác biệt về công bố công khai, chính sách truy cập kết
quả nghiên cứu giữa các nước, giữa các trung tâm nghiên cứu,
giữa các trường đại học.
5. Đánh giá.
Mô tả công việc: Đánh giá
sự phù hợp, tính hiệu quả
của toàn bộ quá trình hợp
tác.
Sự khác biệt về quy định, tiêu chí, quy trình, thủ tục đánh giá
và sự khác biệt về trình độ chuyên gia đánh giá.
Các quốc gia thường không quan tâm hỗ trợ nguồn lực đánh
giá kết quả hợp tác trong dài hạn. Quan điểm của bên nhận
ngân sách hợp tác coi kết thúc thực hiện và đánh giá dự án là
xong, chứ không mấy khi quan tâm xem kết quả quá trình
hợp tác sẽ có ảnh hưởng lâu dài tới con người, tới xây dựng
nguồn nhân lực, tới sự phát triển bền vững, và những vấn đề
cần rút kinh nghiệm,
Nguồn: Tác giả tự tổng hợp và xây dựng
2.2. Rào cản liên quan tới chính sách hợp tác về khoa học và công nghệ
Rào cản liên quan tới chính sách HTQT về KH&CN bắt nguồn từ sự khác
biệt về hệ thống nghiên cứu khoa học ở từng quốc gia, bắt nguồn trong nội
tại chiến lược HTQT theo chiều dọc, chiến lược HTQT theo chiều ngang
đang áp dụng hiện hành ở từng quốc gia và những ưu tiên trong ngắn hạn
về hoạt động hợp tác (Bảng 2).
Sự khác biệt về hệ thống nghiên cứu khoa học ở từng quốc gia: đây là sự
khác biệt về cấu trúc và bản chất của từng hệ thống (Anderson 2010).
JSTPM Tập 8, Số 2, 2019 121
HTQT theo chiều dọc: hình thành nên mục tiêu HTQT trong dài hạn, đảm
bảo hoạt động và lợi ích của các chủ thể theo đúng những cam kết chính
sách Chính phủ đề ra (OECD 2003).
Chiến lược HTQT theo chiều ngang: hình thành mục tiêu HTQT theo các
khu vực được ưu tiên trong hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia, trong đó,
chính sách HTQT sẽ phối hợp với các chính sách khác như chính sách cạnh
tranh, chính sách tài chính, chính sách về giáo dục,
Những ưu tiên hợp tác trong ngắn hạn: đảm bảo chính sách HTQT về
KH&CN hoạt động trong mối tương quan với các chính sách khác. Đôi khi,
những ưu tiên ngắn hạn sẽ xung đột với mục tiêu hợp tác trong dài hạn
trong chiến lược HTQT theo chiều dọc và những mục tiêu ưu tiên theo
chiến lược HTQT theo chiều ngang.
Với chiến lược HTQT theo chiều dọc và chiều ngang, mỗi chủ thể tham gia
hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia không phải là một thực thể riêng lẻ, mà
trong mối quan hệ với các chủ thể khác trên tất cả các mặt nghiên cứu,
thương mại, cạnh tranh. Do đó, những ưu tiên trong chính sách theo khu
vực sẽ quyết định sự thành công HTQT và đổi mới sáng tạo (Konnola và
cộng sự 2011) và hiển nhiên những mâu thuẫn sẽ cản trở quá trình hợp tác.
Bảng 2. Những rào cản trong chính sách HTQT về KH&CN
Chính sách Rào cản phát sinh
1. Hệ thống KH&CN giữa
các quốc gia có sự khác
biệt về cấu trúc và bản
chất.
Sự khác biệt về chương trình và cách thức thực hiện hợp tác.
Sự đa dạng về các tổ chức tham gia tài trợ nghiên cứu, nên
mục tiêu quan tâm và ưu tiên mở cửa hợp tác cho các đối tác
khác nhau.
Mức độ quản lý, kiểm soát của chính phủ về chương trình
hợp tác khác nhau.
2. Chiến lược hợp tác theo
chiều dọc: giữa địa
phương, khu vực và quốc
gia.
Mục tiêu ưu tiên của chương trình hợp tác: xác định mục tiêu
ưu tiên chưa rõ ràng ở cấp quốc gia như ưu tiên nâng cao
năng lực nghiên cứu hay chú trọng số lượng kết quả hợp tác
có chất lượng quốc tế.
Khoảng cách địa lý giữa các quốc gia tỷ lệ thuận với chi phí
thực hiện hợp tác, có thể xuất hiện hiện tượng chi phí vượt
quá lợi ích hợp tác.
Có thể không thống nhất được hình thức hợp đồng hợp tác
với mục đích nghiên cứu, phát triển hoặc hợp tác nghiên cứu
để phát triển ở cấp quốc gia.
Phân chia công việc và kết quả nghiên cứu sẽ dẫn tới xung
đột lợi ích giữa các nước/các bên tham gia cùng cạnh tranh.
3. Chiến lược hợp tác theo
chiều ngang: kết hợp
Mức độ đan xen giữa chính sách HTQT về KH&CN, chính
sách đổi mới sáng tạo và các chính sách khác là khác nhau
122 Rào cản trong hoạt động hợp tác quốc tế về KH&CN
Chính sách Rào cản phát sinh
chính sách hợp tác về
KH&CN, đổi mới sáng
tạo và các chính sách
khác.
giữa các quốc gia.
Sự khác biệt về mức độ hợp tác giữa các khu vực trong nền
kinh tế. Ví dụ, với các nước phát triển, hoạt động hợp tác
giữa trường đại học và doanh nghiệp tương đối phát triển.
Ngược lại, hoạt động chuyển giao công nghệ giữa hai chủ thể
này ở các nước đang phát triển dường như không có.
4. Ưu tiên hợp tác trong
ngắn hạn.
Sự khác biệt về tính liên tục, tính hiệu lực trong thiết kế và
thực thi chính sách.
Mỗi chương trình hợp tác với các đối tác khác nhau có thời
gian thỏa thuận và kế hoạch thực hiện khác nhau.
Kế hoạch và chiến lược dài hạn ở cấp quốc gia/khu vực khác
nhau nên có ưu tiên hợp tác trong ngắn hạn khác nhau, từ đó
có xung đột với mục tiêu trong dài hạn.
Nguồn: Tác giả tự tổng hợp và xây dựng
3. Một số sáng kiến vượt qua rào cản trong hoạt động hợp tác quốc tế
về khoa học và công nghệ
Vẫn biết là hoạt động HTQT về KH&CN mang lại nhiều lợi ích, nhưng đi
kèm với nó là hàng loạt các thách thức. Các quốc gia đã đưa ra nhiều sáng
kiến để giảm thiểu những khó khăn phát sinh và hài hòa lợi ích của các bên
tham gia, cụ thể như sau:
3.1. Đối với những rào cản phát sinh trong quá trình hợp tác
- Thứ nhất, giải quyết mâu thuẫn trong mục tiêu hợp tác. Hoạt động hợp
tác được thiết kế phù hợp với kỳ vọng của các bên tham gia như:
+ Thành lập các nhóm nhỏ thiết kế mục tiêu phù hợp và linh hoạt với
những thay đổi điều kiện, thỏa thuận hợp tác. Điều này sẽ cho phép
sự tham gia đa dạng hơn của các nhà khoa học ở các nước khác nhau.
Sự linh hoạt được hiểu là khả năng thay đổi phương pháp thực hiện
mà vẫn đạt được kết quả. Sự linh hoạt không được phép thay thế quy
trình chuẩn làm thay đổi kết quả kỳ vọng đạt được;
+ Cân bằng lợi ích của các bên, nhất là tính tới phương án về quy định
truy cập kết quả nghiên cứu hoặc rút lui của đối tác.
- Thứ hai, tính toán tất cả các yếu tố đầu vào của quá trình hợp tác để xác
định tính khả thi của chương trình hợp tác. Lý thuyết của Bozeman
(2014) đã đưa ra 3 nhóm nhân tố thuộc đầu vào, quá trình, đầu ra (kết
quả) hợp tác. Ngay từ khi thiết kế mục tiêu và cam kết ban đầu, các nhà
hoạch định chính sách phải tính đến yếu tố quy mô:
JSTPM Tập 8, Số 2, 2019 123
+ Quy mô về đầu vào: Xây dựng quy trình hợp tác vì mục tiêu cân bằng,
đa dạng sự tham gia của các nước. Việc thiết kế mục tiêu hợp tác đảm
bảo khối lượng công việc có thể thay đổi nếu thay đổi các bên có liên
quan của các quốc gia khác nhau. Tức là khối lượng công việc hợp
tác ở từng quốc gia là độc lập tương đối so với khối lượng công việc
của nước khác;
+ Quy mô theo vị trí địa lý: đảm bảo sự tham gia của các đối tác trên
các vùng miền theo thỏa thuận hợp tác;
+ Quy mô về thủ tục hợp tác: các gói hợp tác được thiết kế đảm bảo
chia nhỏ theo các quá trình khác nhau và cho phép chuyển đổi theo
các mức độ, tránh thay đổi cấu trúc của từng gói;
+ Cân nhắc thủ tục xét duyệt khác biệt giữa các quốc gia và tiêu chí
chấm điểm: nên xây dựng hệ thống thang đo chấm điểm có ưu tiên
đối với các nước đang phát triển.
- Hoạt động hợp tác được thiết kế phù hợp với kỳ vọng của các bên tham
gia như:
+ Thành lập các nhóm nhỏ thiết kế mục tiêu phù hợp và linh hoạt với
thay đổi điều kiện, thỏa thuận hợp tác. Sự linh hoạt được hiểu là khả
năng thay đổi phương pháp thực hiện mà vẫn đạt được kết quả. Sự
linh hoạt không được phép thay thế quy trình chuẩn làm thay đổi kết
quả kỳ vọng đạt được;
+ Cân bằng lợi ích của các bên, nhất là tính tới phương án về quy định
truy cập kết quả nghiên cứu hoặc rút lui của đối tác.
3.2. Đối với những rào cản phát sinh trong chính sách hợp tác
- Về hệ thống nghiên cứu khoa học của từng quốc gia: nghiên cứu kỹ bằng
cách thu thập thông tin và quan tâm tới quan điểm hợp tác, lĩnh vực hợp
tác và phương thức tổ chức của hệ thống nghiên cứu khoa học.
- Về chiến lược hợp tác theo chiều dọc: thực hiện các nghiên cứu dự đoán
trước sứ mệnh và tầm nhìn về hành động từng cấp (địa phương, khu vực,
quốc gia). Các nghiên cứu dự đoán sẽ tăng cường sự kết nối và hợp tác
theo chiều dọc.
- Về chiến lược hợp tác theo chiều ngang:
+ Khuyến khích chia sẻ ý tưởng, kết quả nghiên cứu giữa các bên tham
gia;
+ Thiết lập nhóm nghiên cứu đa lĩnh vực làm việc theo chương trình
nghiên cứu chung, đã được chia nhỏ từ chương trình hợp tác tổng thể,
124 Rào cản trong hoạt động hợp tác quốc tế về KH&CN
cùng sử dụng chung công cụ, con người và cơ sở hạ tầng KH&CN.
Tóm lại, hoạt động HTQT về KH&CN bản chất là một quá trình phức tạp,
đa ngành, đa chủ thể tham gia và được tiếp cận từ các giác độ khác nhau.
Do đó, bản thân hoạt động hợp tác luôn có xung đột về lợi ích, rào cản với
các bên tham gia xuất hiện ngay trong quá trình và chính sách điều chỉnh.
Để vận hành một mạng lưới hợp tác hiệu quả, đòi hỏi các bên có nhiều sáng
kiến, chung tay tháo gỡ từng khâu trong quá trình, bắt nguồn từ việc thiết
kế mục tiêu cho tới việc thực hiện./.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. OECD, 2003. Policy coherence, Public Governance and Territorial Development
Directorate, GOV/PUMA (2003) 4. Paris: OECD.
2. Anderson, M. S., 2010. International research collaborations: Anticipating
challenges instead of being surprised, in Europa World of Learning 2011, Vol. 1,
61st, pp. 14 - 8. London: Routledge.
3. Konnola Ko¨ nno¨ la¨, T., et al, 2011. Foresight for European coordination:
Developing national priorities for the forest - based sector technology platform,
International Journal of Technology Management, 54: 438 - 59.
4. Stamm, A. and A. Figueroa, 2012. Effective international science, technology and
innovation collaboration: From lessons learned to policy change, in Meeting Global
Challenges through Better Governance: International Co-operation in Science,
Technology and Innovation, OECD Publishing,
Paris,
5. European Commission, 2012. International Cooperation in Science, Technology and
Innovation: Strategies for a Changing World, Report of the Expert Group established
to support the further development of an EU international STI coperation strategy.
6. Bozeman, B., Boardman, C., 2014. Research Collaboration and Team Science,
Springer ISBN 978 - 3 - 319 - 06468 - 0 (eBook).
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- rao_can_trong_hoat_dong_hop_tac_quoc_te_ve_khoa_hoc_va_cong.pdf