+ Hai là sự phân biệt đối xử trong tiếp cận các nguồn vốn, nhất là vốn tín
dụng Ngân hàng. Các doanh nghiệp ngoài Nhà nƣớc muốn đƣợc vay vốn phải
trải qua rất nhiều thủ tục hành chính, tốn khá nhiều thời gian, công sức, và27
thƣờng chỉ đƣợc vay ngắn hạn là chính, mặc dù đa phần họ làm ăn nghiêm chỉnh
và trả nợ đúng thời hạn. Trong khi đó các doanh nghiệp Nhà nƣớc lại đƣợc tiếp
cận hết sức dễ dàng các nguồn vốn khác nhau, đƣợc vay trung và dài hạn, mặc dù
nhiều doanh nghiệp làm ăn kém hiệu quả, nợ nần kéo dài (Hệ thống DNNN nợ
khoảng 1,5 triệu tỷ đồng).
+ Ba là, sự phân biệt đối xử trong Chính sách Thuế. Trên 400.000 doanh
nghiệp trong nƣớc năm 2016 chỉ đƣợc miễn, giảm 10.2278 tỷ tiền thuế thu nhập
doanh nghiệp, trong khi đó khoảng 10.000 doanh nghiệp FDI đƣợc miễn, giảm
tới 35.357 tỷ đồng. trong đó riêng các công ty của Samsung đƣợc miễn, giảm
20.189 tỷ, mặc dù họ đã đƣợc hƣởng rất nhiều ƣu đãi khác khi thành rồi.
Tóm lại, có thể nói, hệ thống doanh nghiệp của Việt Nam đã có sự phát
triển khá tốt về số lƣợng trong thời gian vừa qua, song chất lƣợng (cả quy mô,
công nghệ và trình độ quản trị.) còn khá hạn chế. Có nhiều việc cần phải làm
nhằm tạo điều kiện cho các doanh nghiệp phát triển nhanh - mạnh và vững chắc,
trong đó vấn đề hết sức bức xúc là phải tháo dỡ các rào cản về thể chế kinh tế
nhƣ đã trình bày ở trên.
7 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 12/01/2022 | Lượt xem: 293 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Rào cản về thể chế kinh tế đối với sự phát triển của doanh nghiệp Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
21
RÀO CẢN VỀ THỂ CHẾ KINH TẾ ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN
CỦA DOANH NGHIỆP VIỆT NAM
GS.TSKH. Lê Du Phong
Trường Đại học Kinh tế Quốc dân
1. Doanh nghiệp Việt Nam: Sự phát triển và những hạn chế, yếu kém
Nhờ những thay đổi trong nhận thức đối với kinh tế tƣ nhân của Đảng
cộng sản Việt Nam: Từ chỗ coi kinh tế tƣ nhân là “thành phần kinh tế phi xã hội
chủ nghĩa, cần phải đƣợc cải tạo” (Đại hội VI năm 1986), đến chỗ coi là “một bộ
phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế thị trƣờng định hƣớng XHCN” (Đại
hội VIII năm 1996), rồi “là một trong những động lực của nền kinh tế” (Đại hội
X năm 2006) và cuối cùng “là một động lực quan trọng của nền kinh tế” (Đại hội
XII năm 2016), mà hệ thống doanh nghiệp của của Việt Nam (trong đó chủ yếu
là doanh nghiệp ngoài Nhà nƣớc năm 2016 chiếm tới 96,71% tổng số doanh
nghiệp) đã có sự phát triển hết sức nhanh chóng:
Nếu năm 1990 cả nƣớc ta mới có 14.052 doanh nghiệp hoạt động, năm
2000 có 35.004 doanh nghiệp, thì đến năm 2010 con số đó đã tăng lên tới
268.831 doanh nghiệp và năm 2017 là 561.064 doanh nghiệp. Nhƣ vậy, số doanh
nghiệp năm 2017 so với năm 1990 (sau 27 năm) đã tăng tới 39,92 lần.
Cùng với sự thay đổi về nhận thức của Đảng, Nhà nƣớc cũng đã có nhiều
nỗ lực lớn lao trong việc tạo dựng môi trƣờng thể chế kinh tế thuận lợi cho các
doanh nghiệp tiến hành các hoạt động sản xuất - kinh doanh:
- Từ năm 1990 đến năm 2015, tức là trong vòng 25 năm, Quốc hội Việt
Nam đã xây dựng và ban hành 190 Bộ luật, Luật, 85 Pháp lệnh (kể cả sửa đổi và
bổ sung) có liên quan đến xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trƣờng định
hƣớng XHCN (Riêng giai đoạn 2011-2017 có 53 Bộ luật và Luật, 2 Pháp lệnh).
trong các Bộ luật và Luật đã ban hành đó có những Bộ luật và Luật có vai trò rất
quan trọng đối với sự phát triển của các doanh nghiệp nhƣ: Luật Doanh nghiệp,
Luật Đầu tƣ, Luật Đất đai, Luật Thƣơng mại, Luật Cạnh tranh, Bộ luật Lao động,
Luật Phá sản, các Luật về Thuế (Doanh thu, Tiêu thụ đặc biệt, Xuất - Nhập khẩu,
Giá trị gia tăng...).
22
- Chính phủ (đặc biệt là trong mấy năm gần đây) đã không ngừng đổi mới
tổ chức bộ máy quản lý kinh tế và cơ chế quản lý kinh tế, nhằm từng bƣớc tạo ra
một môi trƣờng quản lý thông thoáng, minh bạch, giúp cho hoạt động sản xuất -
kinh doanh của các doanh nghiệp ngày càng thuận lợi hơn, đạt hiệu quả ngày
càng cao hơn. Riêng năm 2016 Chính phủ đã loại bỏ 252 thủ tục hành chính
không cần thiết, sửa đổi 901 thủ tục hành chính không hợp lý và bỏ 3.500 điều
kiện kinh doanh ban hành chƣa đúng thẩm quyền.v.v.
Nhờ đó, hoạt động sản xuất - kinh doanh của các doanh nghiệp đã đƣợc
cải thiện khá nhanh và có những đóng góp hết sức xứng đáng đối với sự nghiệp
phát triển kinh tế - xã hội của nƣớc nhà và nâng cao vị thế của Việt Nam trên
trƣờng quốc tế. Năm 2016 doanh thu thuần từ sản xuất - kinh doanh của các
doanh nghiệp trong cả nƣớc đạt 17.436.400 tỷ đồng, trong đó khối doanh nghiệp
ngoài Nhà nƣớc đạt 13.713.200 tỷ đồng. Đã thu hút, giải quyết việc làm cho
14.012.300 lao động (các doanh nghiệp ngoài Nhà nƣớc thu hút 8.572.400
ngƣời); các doanh nghiệp cũng là bộ phận chủ yếu đóng góp cho Ngân sách của
Nhà nƣớc (khối doanh nghiệp ngoài Nhà nƣớc đóng góp 46%).
Mặc dù có sự phát triển nhanh và có những đóng góp khá quan trọng cho
sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nƣớc nhƣ đã đề cập. Song xem xét một cách
nghiêm túc và so sánh với hệ thống doanh nghiệp của các quốc gia trong khu vực
và thế giới, các doanh nghiệp của Việt Nam còn khá nhiều hạn chế, yếu kém,
đáng chú ý là:
i)- Các doanh nghiệp của Việt Nam đa phần là có quy mô nhỏ
Theo công bố của Tổng cục Thống kê (Niên giám thống kê năm 2017),
năm 2016 Việt Nam có 505.059 doanh nghiệp thực hoạt động, trong đó các
doanh nghiệp ngoài Nhà nƣớc là 488.395 doanh nghiệp, chiếm 96,71%. Thế
nhƣng ở khu vực doanh nghiệp này, thì số doanh nghiệp có quy mô lao động
dƣới 10 ngƣời chiếm tới 71,8% và số doanh nghiệp có quy mô vốn dƣới 10 tỷ
đồng (dƣới 500.000 USD) chiếm tới 77,8%. Với quy mô doanh nghiệp nhỏ nhƣ
vậy khó có điều kiện để đổi mới kỹ thuật và công nghệ sản xuất - kinh doanh,
khó nâng cao nhanh năng suất lao động, từ đó khó có thể cạnh tranh thắng lợi
trên thƣơng trƣờng, cũng nhƣ tham gia vào chuỗi giá trị chung của quốc gia và
quốc tế.
23
Nhìn vào kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam năm 2017 có thể thấy rõ
điều này. Năm 2017 Việt Nam xuất khẩu đƣợc 214,01 tỷ USD, thế nhƣng trong
đó khu vực FDI chiếm tới 72,5% tổng giá trị, mặc dù khu vực này chỉ có hơn
14.000 doanh nghiệp (khoảng 2,5% trong tổng số doanh nghiệp của cả nƣớc).
ii)- Công nghệ sử dụng trong các doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp
của khu vực ngoài Nhà nước phần lớn là ở trình độ thấp, lạc hậu.
Theo đánh giá của Bộ Khoa học và công nghệ, hiện tại công nghệ sử dụng
trong các doanh nghiệp ở Việt Nam tụt hậu từ 2-3 thế hệ so với thế giới. Có trên
70% máy móc, dây chuyền công nghệ đang sử dụng tại các doanh nghiệp là
những máy móc, dây chuyền công nghệ của những năm 1960-1970, trong đó đa
phần đã hết khấu hao và đƣợc tân trang lại.
iii)- Phương thức quản trị doanh nghiệp phần lớn vẫn dựa vào kinh
nghiệm cha truyền con nối là chính.
Do quy mô của doanh nghiệp nhỏ, máy móc - thiết bị và công nghệ sản
xuất lạc hậu, nên không ít các doanh nghiệp, việc quản trị các hoạt động sản xuất
- kinh doanh đƣợc thực hiện thông qua kinh nghiệm cha truyền con nối là chính.
Số chủ doanh nghiệp đƣợc đào tạo một cách bài bản qua các trƣờng, lớp chính
thống chƣa nhiều. Năm 2015, Thế giới xếp Việt Nam đứng thứ 56/140 quốc gia
về chỉ số cạnh tranh, thế nhƣng chỉ số “trình độ kinh doanh lại chỉ ở mức
100/140 quốc gia đƣợc xếp hạng” đã cho thấy rõ phần nào sự yếu kém này.
2. Rào cản về thể chế kinh tế - Nguyên nhân quan trọng dẫn đến
những hạn chế, yếu kém của hệ thống doanh nghiệp Việt Nam.
Có nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan tạo ra những hạn chế, yếu
kém của các doanh nghiệp Việt Nam, trong đó những rào cản do thể chế kinh tế
tạo ra giữ vị trí rất quan trọng. Rào cản về thể chế kinh tế đƣợc biểu hiện trên
nhiều khía cạnh, song đáng chú ý là:
i)- Luật pháp và chính sách tuy được ban hành nhiều, song chất lượng còn
thấp, phải sửa đổi, bổ sung, gây nhiều khó khăn cho các doanh nghiệp trong việc
thực thi. Đặc biệt, không ít các quy định của Luật và Chính sách mâu thuẫn,
chồng chéo, hoặc chƣa thật phù hợp với thực tiễn, doanh nghiệp không biết xoay
xở theo kiểu nào, chẳng hạn:
24
+ Theo Luật Đầu tƣ, thủ tục quyết định đầu tƣ không yêu cầu Nhà đầu tƣ
phải nộp quyết định “Đánh giá tác động môi trƣờng”, nhƣng Luật Bảo vệ môi
trƣờng lại quy định quyết định phê duyệt báo cáo về “Đánh giá tác động môi
trƣờng” là căn cứ để cấp có thẩm quyền quyết định chủ đầu tƣ dự án.
+ Luật Phá sản là Luật tạo điều kiện cho các doanh nghiệp đang trong tình
trạng khó khăn, thua lỗ có cơ hội rút khỏi thị trƣờng một cách trật tự, góp phần tái
phân phối tài sản, thúc đẩy lƣu thông vốn trong nền kinh tế, bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp cho ngƣời lao động và chủ nợ. Thế nhƣng trong vòng 9 năm kể từ Luật
Phá sản năm 2004 (Luật Phá sản đầu tiên ban hành năm 1993) đến năm 2013, số
doanh nghiệp không còn sản xuất - kinh doanh cần đƣợc giải thể là 140.000 doanh
nghiệp, song do bất cập về pháp lý, nên chỉ giải quyết đƣợc có 336 doanh nghiệp.
+ Sản xuất nông nghiệp (theo nghĩa rộng là gồm cả lâm nghiệp và ngƣ
nghiệp) hiện vẫn là ngành sản xuất rộng lớn và có vai trò rất quan trọng đối với sự
phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam. Năm 2017 khu vực này vẫn còn 8,58 triệu
hộ đang hoạt động sán xuất (chiếm 53% tổng số hộ trong nông thôn), với 21,56 triệu
lao động (chiếm 40,15% lực lƣợng lao động của toàn xã hội) và đóng góp 15,34%
GDP cho nền kinh tế. Đây là khu vực đang còn nhiều tiềm năng phát triển, nhất là
khi bƣớc vào cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tƣ. Rất nhiều doanh nghiệp muốn
đầu tƣ vào khu vực này, nhƣng rất ít doanh nghiệp vào đƣợc, vì vƣớng nhiều thứ,
đặc biệt là vƣớng về Luật Đất đai và các Chính sách có liên quan đến đất đai (thời
hạn thuê đất, giá thuê, tiền đền bù, hỗ trợ ngƣời có đất bị thu hồi.v.v.).
Vì thế, cho đến ngày 31/12/2017 cũng chỉ mới có 7.600 doanh nghiệp
đang trực tiếp hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp, chiếm 1,35% trong tổng số
doanh nghiệp của cả nƣớc (theo Báo cáo của Bộ Kế hoạch và Đầu tƣ tại Hội nghị
về Nông nghiệp ở Lâm Đồng ngày 30/7/2018 ).
ii)- Bộ máy quản lý, cơ chế quản lý và đội ngũ công chức thực thi công vụ
của Nhà nước tuy đã có nhiều điều chỉnh, đổi mới trong những năm gần đây,
song vẫn còn tạo ra rất nhiều khó khăn cho hoạt động sản xuất-kinh doanh của
các doanh nghiệp:
+ Bộ máy quản lý kinh tế của Việt Nam hiện có: Quốc hội, Chính phủ, 23
Bộ và cơ quan ngang Bộ, HĐND và UBND của 63 đơn vị hành chính cấp tỉnh;
HĐND và UBND của 645 đơn vị hành chính cấp thị xã, quận, huyện; HĐND và
UBND của 11.162 đơn vị hành chính cấp thị trấn, phƣờng và xã. Tổng cộng cả
25
nƣớc có khoảng 23.000 đầu mối các cơ quan có quyền ban hành các văn bản quy
phạm pháp luật có liên quan đến kinh tế. Điều này cho thấy, số lƣợng các thủ tục
hành chính doanh nghiệp phải tiếp cận trong quá trình tham gia hoạt động sản
xuất - kinh doanh là vô cùng lớn.
Điều đáng nói là không ít các văn bản do các Bộ - Ngành và chính quyền
địa phƣơng ban hành cón trái Pháp luật. Bộ Tƣ pháp vừa có Báo cáo gửi Thủ
tƣớng Chính phủ đánh giá hậu quả, tác hại của việc ban hành văn bản trái Pháp
luật. Báo cáo cho thấy: “qua kiểm tra các văn bản do các Bộ - Ngành và Địa
phƣơng ban hành, Bộ Tƣ pháp đã phát hiện hơn 5.600 văn bản trái Pháp luật.
trong đó có 1.200 văn bản trái pháp luật về thẩm quyền ban hành và nội dung;
hơn 3.800 văn bản sai sót về căn cứ pháp lý, thể thức, kỹ thuật trình bày văn bản;
gần 600 văn bản không phải là văn bản quy phạm Pháp luật, nhƣng có chứa đựng
quy phạm Pháp luật” (Báo Vietnam Net, ngày 7/8/2018)
Theo Bộ trƣởng Mai Chí Dũng, chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ (tại
cuộc họp về cải cách thủ tục hành chính ngày 21/7/2017) thì, chỉ riêng xuất khẩu
hàng hóa, hiện vẫn còn 5.917 thủ tục kiểm tra chuyên ngành của các Bộ tại các
cửa khẩu, và theo công bố của Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ƣơng thì
có tới 100.000 mặt hàng xuất khẩu phải chịu kiểm tra chuyên ngành nhƣ vậy. Có
thể nói, việc nắm đƣợc các thủ tục hành chính do các cơ quan quản lý Nhà nƣớc
về kinh tế ban hành và đáp ứng đƣợc các yêu cầu của nó là việc không dễ dàng
chút nào đối với các doanh nghiệp.
+ Đội ngũ công chức của Bộ máy quản lý Nhà nƣớc về kinh tế trong thực
tiễn còn gây rất nhiều khó khăn cho doanh nghiệp khi thực hiện công vụ, đặc biệt
là sự nhũng nhiễu trong giải quyết các thủ tục hành chính.
Theo báo cáo Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) do VCCI công bố
ngày 13/3/2017 thì:
- Có 66% doanh nghiệp tại các tỉnh thuộc tốp giữa phải “móc hầu bao”cho
các khoảng không chính thức, cao hơn 12-15% so với giai đoạn 2008-2013. –Có
9-11% doanh nghiệp tham gia điều tra cho biết, khoảng chi không chính thức
chiếm 10% tổng doanh thu của họ (trung bình là 5-10%), cao hơn mức 6-8% của
5 năm trƣớc.
- Có 58% doanh nghiệp bị nhũng nhiễu khi làm các thủ tục cho doanh
nghiệp (giai đoạn 2008-2013 con số này là 65%). Điều này không chỉ gây bức
26
xúc cho doanh nghiệp mà còn cho cả xã hội. Bức xúc đến mức bà Nguyễn Thị
Doan, Nguyên Phó Chủ tịch nƣớc cũng phải thốt lên “Họ ăn không từ thứ gì”.
iii)- Trong văn bản, Đảng và Nhà nước đều xác định “Các thành phần
kinh tế kinh doanh theo Pháp luật đều là bộ phận cấu thành quan trọng của nền
kinh tế thị trường định hướng XHCN, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh
tranh lành mạnh”(Nghị quyết Đại hội IX, tháng 4/2001). Nhưng trong thực tiễn,
sự phân biệt đối xử giữa các loại hình doanh nghiệp vẫn còn rất lớn.
+ Sự phân biệt đối xử trƣớc hết có thể thấy ở việc tiếp cận nguồn lực
đất đai. Thuê đất là cả một chuỗi các hoạt động gian nan của các doanh nghiệp
ngoài Nhà nƣớc, đặc biệt là các doanh nghiệp nhỏ. Trong một khoảng thời gian
không ngắn, từ giải quyết các thủ tục hành chính nhƣ: đề án sản xuất - kinh
doanh, giấy phép kinh doanh, nguồn lực tài chính đảm bảo, phƣơng thức thuê
đất, thời hạn thuê... cho đến giá thuê đất, phƣơng thức và thời gian thanh toán,
phƣơng án đền bù, hỗ trợ cho ngƣời có đất bị Chính quyền thu hồi để cho thuê...
Để công việc trôi chảy, các doanh nghiệp còn phải mất một khoảng kinh phí
không nhỏ cho các khoảng chi phí không chính thức. Các chi phí không chính
thức này càng cao đối với những khu đất có vị trí thuận lợi, nhất là ở các thành
phố lớn.
Trong các tiêu chí đánh giá về năng lực cạnh tranh cấp tỉnh do VCCI thực
hiện từ năm 2005 đến nay, thì tiêu chí tiếp cận nguồn lực đất đai đƣợc các doanh
nghiệp rất quan tâm và thƣờng đƣợc đánh giá khá thấp. Có tới 21% các doanh
nghiệp đƣợc điều tra.
Trong khi các doanh nghiệp ngoài Nhà nƣớc (DN nhỏ) không có đất làm
mặt bằng sản xuất - kinh doanh, thì các doanh nghiệp Nhà nƣớc sử dụng đất
không hết, phải bỏ hoang, hoặc đem cho thuê để kiếm lời. Điển hình là các Nông
- Lâm trƣờng. Các cơ sở này quản lý 4,5 triệu ha đất, nhƣng mỗi năm chỉ đóng
góp cho khu vực Nông nghiệp đƣợc 2% giá trị sản xuất của toàn ngành mà thôi.
Còn Formosa đƣợc thuê tới 3.300 ha (kể cả mặt nƣớc) trong thời hạn 70
năm với giá 90 tỷ đồng (cho cả thời hạn thuê). Tính ra tiền thuê 1m2 đất/năm của
họ chỉ có 40 VNĐ, bằng 1/50 giá trị của một cốc nƣớc chè (40/2.000).
+ Hai là sự phân biệt đối xử trong tiếp cận các nguồn vốn, nhất là vốn tín
dụng Ngân hàng. Các doanh nghiệp ngoài Nhà nƣớc muốn đƣợc vay vốn phải
trải qua rất nhiều thủ tục hành chính, tốn khá nhiều thời gian, công sức, và
27
thƣờng chỉ đƣợc vay ngắn hạn là chính, mặc dù đa phần họ làm ăn nghiêm chỉnh
và trả nợ đúng thời hạn. Trong khi đó các doanh nghiệp Nhà nƣớc lại đƣợc tiếp
cận hết sức dễ dàng các nguồn vốn khác nhau, đƣợc vay trung và dài hạn, mặc dù
nhiều doanh nghiệp làm ăn kém hiệu quả, nợ nần kéo dài (Hệ thống DNNN nợ
khoảng 1,5 triệu tỷ đồng).
+ Ba là, sự phân biệt đối xử trong Chính sách Thuế. Trên 400.000 doanh
nghiệp trong nƣớc năm 2016 chỉ đƣợc miễn, giảm 10.2278 tỷ tiền thuế thu nhập
doanh nghiệp, trong khi đó khoảng 10.000 doanh nghiệp FDI đƣợc miễn, giảm
tới 35.357 tỷ đồng. trong đó riêng các công ty của Samsung đƣợc miễn, giảm
20.189 tỷ, mặc dù họ đã đƣợc hƣởng rất nhiều ƣu đãi khác khi thành rồi.
Tóm lại, có thể nói, hệ thống doanh nghiệp của Việt Nam đã có sự phát
triển khá tốt về số lƣợng trong thời gian vừa qua, song chất lƣợng (cả quy mô,
công nghệ và trình độ quản trị...) còn khá hạn chế. Có nhiều việc cần phải làm
nhằm tạo điều kiện cho các doanh nghiệp phát triển nhanh - mạnh và vững chắc,
trong đó vấn đề hết sức bức xúc là phải tháo dỡ các rào cản về thể chế kinh tế
nhƣ đã trình bày ở trên.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đảng cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới. NXB chính
trị Quốc gia, HN-2005.
2. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn: Báo cáo tổng kết 10 năm thực hiện
Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 6/8/2008 của BCH Trung ƣơng khóa X về:
Nông nghiệp, Nông dân, Nông thôn. HN, ngày 7/9/2018.
3. Lê Du Phong-Lê Huỳnh Mai: Tháo gỡ các rào cản về thể chế kinh tế, đòi hỏi
bức xúc của phát triển kinh tế-xã hội ở nƣớc ta hiện nay. Kỷ yếu Hội thảo
Quốc gia “Thể chế kinh tế và rào cản của thể chế kinh tế đối với phát triển
kinh tế-xã hội Việt Nam. Nxb Đại học KTQD, HN-2017.
4. Niên giám Thống kê năm 2017.
5. VCCI: Báo cáo thƣờng niên về doanh nghiệp 2016
6. VCCI: Báo cáo chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI), ngày 13/3/2017.
7. Báo Vietnam Net ngày 7/8/2018
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- rao_can_ve_the_che_kinh_te_doi_voi_su_phat_trien_cua_doanh_n.pdf