Sarcôm cơ vân loại phôi thai có nguồn gốc từ
các tế bào trung mô không biệt hóa bao quanh
các ống trung thận trong quá trình tạo phôi. Các
tế bào này cấu thành bàng quang và TTL, và có
thể biệt hóa thành nguyên bào cơ vân trong đời
sống sau này. Khác với adenocarcinoma, sarcôm
TTL đều có nồng độ prostatic specific antigen
(PSA) huyết thanh không cao. Trường hợp của
chúng tôi cả hai lần thử PSA cách nhau 6 tháng
đều rất thấp (0,2 và 0,3 ng/ml). Khảo sát MR,
trước đây, người ta thường phải sử dụng loại
endocoil dẹt đặt vào lòng trực tràng để khảo sát
mới có được hình ảnh TTL với độ phân giải cao.
Các thế hệ máy gần đây như MAGNETOM
Avanto hay Sonata 1,5T không cần dùng
endocoil vẫn có được hình ảnh phân giải cao của
TTL và các cơ quan khác ở vùng chậu. Hình ảnh
khối u dễ dàng nhận định trên các xung T2W
sagittal và axial, giống như các loại ung thư TTL
khác, sarcôm cơ vân cũng có tín hiệu cao không
đồng nhất4,6. Ở bệnh nhân của chúng tôi, khối u
ngoài tín hiệu cao không đồng nhất, còn có đặc
tính đáng ghi nhận khác: (1) kích thước rất to, (2)
dạng nhiều thùy phân cách nhau bởi các vách xơ
và (3) phát triển mạnh nhô ra bên ngoài tuyến về
phía sau và theo chiều ngang (bao quanh thùy
trái và túi tinh) nhưng không xâm lấn, phá vỡ
bao xơ tuyến. Trên T1W, thường các tổn thương
dạng đặc ở TTL đều có tín hiệu thấp khá đồng
nhất, khó phân định mặt phân cách giữa các cấu
trúc giải phẫu của tuyến và u. Ở bệnh nhân
chúng tôi, trên T1W khối u có tín hiệu cao nhẹ
khá đồng nhất so với thùy trái không có tổn
thương. Điều này có thể giải thích do hiện tượng
tẩm nhuận vào mô u các sản phẩm
methemoglobin do xuất huyết sau sinh thiết
trước đó 4 ngày, với những ổ khu trú chứa cục
máu có tín hiệu cao mạnh hơn. Carlo Bartolozzi1
báo cáo 3 trường hợp sarcôm TTL gồm 2 sarcôm
cơ trơn và 1 trường hợp sarcôm cơ vân cũng ghi
nhận những đặc tính của u tương tự (kích thước
rất to, nhiều thùy, tín hiệu cao không đồng nhất
trên T2W, PSA trong khoảng bình thường ).
Ngoài ra, tác giả cũng ghi nhận trên các xung
T2W axial và sagittal quan sát được cả 3 trường
hợp, u đều có xuất phát từ phần tuyến trung
tâm, chèn ép làm dẹt vùng tuyến ngoại biên, nơi
thường hay xảy ra carcinoma tuyến. Khảo sát ở
bệnh nhân của chúng tôi, trên các xung T2W
cũng như T1W FS sau chích gadolinium, xác
định khá dễ dàng tổn thương phát xuất từ vùng
tuyến ngoại biên, nơi ít khi xảy ra sarcôm
7 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 25/01/2022 | Lượt xem: 286 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Sarcôm cơ vân của tuyến tiền liệt: Hình ảnh cộng hưởng từ, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
SARCÔM CƠ VÂN CỦA TUYẾN TIỀN LIỆT:
HÌNH ẢNH CỘNG HƯỞNG TỪ
Võ Tấn Đức*, Đỗ Hải Thanh Anh*, Phan Châu Hà*, Võ Phương Trúc*
TÓM TẮT
Mở đầu và Mục tiêu: Sarcôm cơ vân tuyến tiền liệt (TLT) là bệnh lý u rất hiếm gặp, nhất là ở người lớn
tuổi và có tiên lượng rất xấu. Khảo sát đặc điểm hình ảnh học cộng hưởng từ và lâm sàng bệnh lý này nhân một
trường hợp.
Phương pháp và kết quả: Nhân một trường hợp. Chúng tôi báo cáo một trường hợp xảy ra ở bệnh nhân
64 tuổi, vào viện vì tiểu khó, đại tiện khó và đau vùng hậu môn. Khám trực tràng phát hiện khối u to đè vào gây
hẹp lòng trực tràng nghi ngờ u tuyến tiền liệt. Siêu âm tuyến tiền liệt to, không đồng nhất, sinh thiết qua ngả
đáy chậu cho kết quả sarcôm cơ vân. Khảo sát cộng hưởng từ cho thấy khối u xuất phát từ vùng tuyến ngoại vi
của thùy phải phát triển ra ngoài tuyến, bao bọc thùy trái, túi tinh, đè ép vào lòng trực tràng. Tổn thương có
dạng đa thùy, tín hiệu cao không đồng nhất trên T2W, phân cách bởi các vách xơ, có nhiều ổ xuất huyết bên
trong do sinh thiết. Khối u bắt gadolinium không đồng nhất.
Kết luận: Sarcôm cơ vân rất hiếm gặp. Một khối u TLT to, PSA bình thường, MRI cho thấy khối u to dạng
nhiều thùy, tín hiệu cao không đồng nhất trên T2W, bắt gadolinium mạnh không đồng nhất nên nghĩ đến bệnh lý
này và cần sinh thiết để xác định chẩn đoán.
ABSTRACT
RHABDOMYOSARCOMA OF THE PROSTATE: MR FINDINGS.
Võ Tấn Đức, Đỗ Hải Thanh Anh, Phan Châu Hà, Võ Phương Trúc
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 12 – Supplement of No 1 – 2008: 112 - 116
Background and Objectives: Prostatic rhabdomyosarcoma is a rare tumor, especially in the elderly, and
has extremely poor prognosis. The clinical and MR imaging features of this disease are discussed based on one
case.
Method and Results: We report a case of rhabdomyosarcoma of the prostate on a 64 year-old patient who
was admitted to hospital, complaining of dysuria, and pain in anus region. Rectal digital examination found a
large mass compressing the rectum, which was suspected tumor of the prostate. Ultrasound: Prostate was
enlarged and heterogenous. Perineal biopsy revealed rhabdomyosarcoma. MR examination demonstrated the
tumor arises from peripheral gland zone of the right lobe, developing outward, encasing the left lobe, seminal
vesicles, compressing the rectum. The tumor was lobulated, seperated by fibrous septa, heterogenous
hyperintensity on T2W, with many hemorrhage foci due to recent biopsy. The tumor enhanced heterogenously
after contrast administration.
Conclusion: Prostatic Rhabdomyosarcoma is rare. A large prostatic mass, normal PSA with MR imaging
demonstrated a lobulated heterogenous hypersignal on T2W tumor and intensive contrast media enhanced
suggest the diagnosis. Biopsy should be done to confirm.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Sarcôm tuyến tiền liệt (TTL) là bệnh ác tính
rất hiếm gặp, thường xảy ra ở trẻ em và ở độ
tuổi thiếu niên. Tiên lượng bệnh rất xấu do xâm
lấn và di căn sớm. Rất hiếm các báo cáo ghi nhận
bệnh này ở người trưởng thành và người lớn
* Bộ môn Chẩn đoán Hình ảnh - Đại học Y dược TP. HCM.
tuổi. Vì vậy, hình ảnh học của sarcôm cơ vân
TTL ở người trưởng thành nhất là người già
chưa được mô tả nhiều trên y văn. Chúng tôi
báo cáo một trường hợp ở bệnh nhân lớn tuổi,
được phát hiện bằng cộng hưởng từ và xác định
chẩn đoán trên mô học.
BỆNH ÁN
Bệnh nhân nam, 64 tuổi, vào viện vì tiểu khó,
đại tiện khó từ khoảng 1 năm, không bí tiểu.
Cách 6 tháng trước đã được mổ nội soi cắt 2
nang đơn thuần to 8cm ở thận trái với chỉ định
đau lưng trái. Lúc này bệnh nhân đã được phát
hiện có tuyến tiền liệt to, PSA 0,2 ng/ml nhưng
triệu chứng tiểu khó không nổi bật. Khoảng 1
tháng trước nhập viện, bệnh nhân tiểu đêm
nhiều lần, 3-4 lần/đêm, đại tiện phân nhỏ, dẹt và
có cảm giác tức nặng vùng hậu môn. Thể trạng
trung bình, sinh hiệu bình thường, không sốt.
Thăm trực tràng thấy tuyến tiền liệt to 8x8cm,
nhô cao vào lòng trực tràng gây hẹp, mật độ
cứng, bề mặt không đều dạng nhiều thùy, mất
rãnh giữa, niêm mạc trực tràng phần u nhô vào
còn nhẵn.
PSA: 0,3 ng/ml. Siêu âm: TTL to: 55 x 75 x
85mm, phản âm kém, không đồng nhất, dạng đa
nhân rải rác ở cả thùy phải, trái, mỏm và đáy, bờ
đa cung, phát triển chủ yếu về phía sau, và nhô
nhẹ vào lòng bàng quang, có vôi hóa rải rác bên
trong mô u (hình 1). Kết quả sinh thiết qua ngả
đáy chậu dưới hướng dẫn siêu âm lấy 6 mẫu ghi
nhận 4 mẫu ở thùy phải, trái, mỏm và đáy đều
có tế bào có nhân to, dẹp hoặc tròn, tăng sắc; có
nhân không đồng đều, có nhiều bào tương. Các
tế bào này xếp thành bó hoặc đám nhỏ, không
tạo tuyến, xâm nhập mô đệm (hình 2). Nhuộm
hóa mô miễn dịch tế bào u: Vimentin (+), CK (-),
EMA (-), LCA (-), NSE (-).
Kết luận: Sarcoma kém biệt hóa dạng sarcôm
cơ vân của TTL. Bệnh nhân được khảo sát cộng
hưởng từ trên hệ thống toàn thân 1,5 Tesla,
(MAGNETOM AVANTO; Siemens Medical
Solution, Germany). Để đặc trưng tính chất khối
u TTL, chúng tôi sử dụng các chuỗi xung sau
đây: turbo spin-echo T2 weighted axial
(TE:112/TR: 3850ms), tse T2W sagittal
(111/3740ms), tse T2W coronal (111/3740ms), fat-
suppressed T2W axial (112/4160ms), gradient-
echo T1W axial (241/4,2ms); fat suppressed T1W
axial (10/539ms) và sagittal (10/494ms) trước và
sau tiêm gadolinium contrast (Dotarem,
Guerbet, France) liều 0,1 mmol/kg cân nặng.
Khối u dạng nhiều thùy, có kích thước: 7,5
cm(cao) x 9cm (ngang) x 8,5cm (trước-sau), xuất
phát từ phần tuyến ngoại vi của thùy phải (hình
3), phát triển rất to ra phía sau, lên trên và sang
trái, bao bọc túi tinh (hình 4) và phần tuyến
ngoại vi thùy trái (hình 3), đè ép vào lòng trực
tràng. Giới hạn giữa phần này với phần tuyến
trung tâm còn rõ thấy bởi bao xơ phẫu thuật.
Tổn thương có tín hiệu cao nhẹ khá đồng nhất
trên T1Ws, cao vừa phải không đồng nhất trên
T2Ws, với những ổ cao mạnh rải rác ở trung
tâm, có ổ có mức dịch-dịch trên cả T1Ws và
T2Ws, có và không có xóa mỡ, phù hợp với
những vùng xuất huyết do sinh thiết trước đó.
Khối u có dạng nhiều thùy ngăn cách nhau bởi
các vách xơ có tín hiệu thấp. Sau chích
gadolinium, tổn thương bắt thuốc mạnh khá
đồng nhất trên các thì so với mô tuyến lành ở
thùy trái, với những mảng tín hiệu cao hơn bên
trong mô u (hình 6). Bao xơ tuyến bị xâm lấn ở ¼
trên-phải vào mô mỡ bao quanh (hình 5), quan
sát rõ trên hình T2W và T1W FS sau chích
gadolinium. Vài hạch nhỏ (>3 hạch) có trục ngắn
6-10mm trong mô mỡ quanh tuyến. Không có
dấu hiệu xâm lấn vào túi tinh, trực tràng hay
bàng quang. Với hình ảnh như trên, chẩn đoán
được nghĩ đến là sarcôm cơ vân ở thùy phải có
xuất huyết trong u. Xếp giai đoạn T3a, N2. Chẩn
đoán này được xác định bằng kết quả mô học
sau đó. Bệnh nhân từ chối phẫu thuật cắt bỏ
tuyến tiền liệt tận gốc.
HÌNH 1 HÌNH 2
HÌNH 3 HÌNH 4
HÌNH 5 HÌNH 6
BÀN LUẬN
Sarcôm tuyến tiền liệt nguyên phát rất hiếm
gặp, chiếm dưới 0,1% các u ác tính TTL ở người
trưởng thành. Trong đó, hai loại thường được đề
cập đến trên y văn là sarcôm cơ trơn
(leiomyosarcoma) thường xảy ra ở người trưởng
thành, gặp ở khoảng 25% tồng số sarcôm TTL và
sarcôm cơ vân (rhabdomyosarcoma) thường gặp
hơn ở trẻ em. Theo Hội Đồng Về Các Khối U
Tuyến Tiền Liệt (Pháp)15, các loại sarcôm TTL có
phân bố lưỡng cực, sarcôm cơ vân gặp nhiều ở
trẻ em và nguời trẻ tuổi, còn sarcôm cơ trơn
thường gặp ở người trên 60 tuổi. Sarcôm cơ vân
TTL cực kỳ hiếm gặp, đa số thuộc tiểu loại phôi
thai (embryonal)1,5,7-10,13,14, các tiểu loại synovial2,
botryoid11 ít gặp hơn. Các báo cáo trên y văn
về sarcôm cơ vân hầu hết là trường hợp đơn lẻ
và nhiều hơn ở trẻ em. Sarcôm cơ vân cũng như
các sarcôm khác của TTL có biểu hiện lâm sàng
với các triệu chứng tiểu khó, đại tiện khó, cảm
giác tức nặng vùng hậu môn. Khối u thường có
kích thước rất to, dạng nhiều thùy, phát triển
nhanh và xâm lấn vào khoang quanh niệu đạo,
quanh bàng quang và quanh trực tràng gây tắc
nghẽn các lối ra, giải thích cho các triệu chứng
trên. U xâm lấn bàng quang sẽ làm khó phân
biệt nguồn gốc của u từ bàng quang hay TTL. U
thường di căn sớm vào các hạch vùng chậu, các
hạch di căn có thể rất to, chèn ép niệu quản gây
suy thận. Di căn xa thường xảy ra ở phổi, gan và
xương; di căn xương thường ở dạng hủy
xương1,8.
Sarcôm cơ vân loại phôi thai có nguồn gốc từ
các tế bào trung mô không biệt hóa bao quanh
các ống trung thận trong quá trình tạo phôi. Các
tế bào này cấu thành bàng quang và TTL, và có
thể biệt hóa thành nguyên bào cơ vân trong đời
sống sau này. Khác với adenocarcinoma, sarcôm
TTL đều có nồng độ prostatic specific antigen
(PSA) huyết thanh không cao. Trường hợp của
chúng tôi cả hai lần thử PSA cách nhau 6 tháng
đều rất thấp (0,2 và 0,3 ng/ml). Khảo sát MR,
trước đây, người ta thường phải sử dụng loại
endocoil dẹt đặt vào lòng trực tràng để khảo sát
mới có được hình ảnh TTL với độ phân giải cao.
Các thế hệ máy gần đây như MAGNETOM
Avanto hay Sonata 1,5T không cần dùng
endocoil vẫn có được hình ảnh phân giải cao của
TTL và các cơ quan khác ở vùng chậu. Hình ảnh
khối u dễ dàng nhận định trên các xung T2W
sagittal và axial, giống như các loại ung thư TTL
khác, sarcôm cơ vân cũng có tín hiệu cao không
đồng nhất4,6. Ở bệnh nhân của chúng tôi, khối u
ngoài tín hiệu cao không đồng nhất, còn có đặc
tính đáng ghi nhận khác: (1) kích thước rất to, (2)
dạng nhiều thùy phân cách nhau bởi các vách xơ
và (3) phát triển mạnh nhô ra bên ngoài tuyến về
phía sau và theo chiều ngang (bao quanh thùy
trái và túi tinh) nhưng không xâm lấn, phá vỡ
bao xơ tuyến. Trên T1W, thường các tổn thương
dạng đặc ở TTL đều có tín hiệu thấp khá đồng
nhất, khó phân định mặt phân cách giữa các cấu
trúc giải phẫu của tuyến và u. Ở bệnh nhân
chúng tôi, trên T1W khối u có tín hiệu cao nhẹ
khá đồng nhất so với thùy trái không có tổn
thương. Điều này có thể giải thích do hiện tượng
tẩm nhuận vào mô u các sản phẩm
methemoglobin do xuất huyết sau sinh thiết
trước đó 4 ngày, với những ổ khu trú chứa cục
máu có tín hiệu cao mạnh hơn. Carlo Bartolozzi1
báo cáo 3 trường hợp sarcôm TTL gồm 2 sarcôm
cơ trơn và 1 trường hợp sarcôm cơ vân cũng ghi
nhận những đặc tính của u tương tự (kích thước
rất to, nhiều thùy, tín hiệu cao không đồng nhất
trên T2W, PSA trong khoảng bình thường).
Ngoài ra, tác giả cũng ghi nhận trên các xung
T2W axial và sagittal quan sát được cả 3 trường
hợp, u đều có xuất phát từ phần tuyến trung
tâm, chèn ép làm dẹt vùng tuyến ngoại biên, nơi
thường hay xảy ra carcinoma tuyến. Khảo sát ở
bệnh nhân của chúng tôi, trên các xung T2W
cũng như T1W FS sau chích gadolinium, xác
định khá dễ dàng tổn thương phát xuất từ vùng
tuyến ngoại biên, nơi ít khi xảy ra sarcôm.
Tóm lại
Sarcôm cơ vân (Rhabdomyosarcoma) ở
tuyến tiền liệt rất hiếm gặp. Đứng trước một
bệnh nhân có những triệu chứng khó tiểu tiện,
đại tiện, tức nặng vùng chậu; khám thấy TTL rất
to, PSA trong giới hạn bình thường; hình ảnh
học MR cho thấy khối rất to chèn ép trực tràng,
nhiều thùy, tín hiệu cao không đồng nhất trên
T2W và bắt gadolinium mạnh, cần nghĩ đến
bệnh lý này và sinh thiết TTL qua ngả trực tràng
cần được thực hiện để xác định chẩn đoán.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bartolozzi C, Selli C, Olmastroni M, Menchi I, Di Candio
G. Rhabdomyosarcoma of the prostate: MR Findings. AJR,
1988; 150: 1333-1334
2. Cheng YC, Wang JH, Shen Sh, Chang YH, Chen CH, Pan
CC, Ko SC, Chang CY. MRI findings of prostatic synovial
sarcoma. The British Journal of Radiology, 2007; 80: e15-e18
3. Buckley DL, Roberts C, Parker GJM, Logue JP, Hutchinson
CE. Prostate cancer: Evaluation of Vascular characteristics with
dynamic contrast-enhanced T1-weighted MR Imaging-Initial
Experience. Radiology 2004; 233: 709-715
4. Martin DR, Brown MA, Semelka RC. Male pelvis. Primer
on MR Imaging of the abdomen and pelvis. WILE. USA,
2005, 401-422
5. Lazar EB., Whitman GJ, Chew FS. Embryonal
Rhabdomyosarcoma of the prostate. AJR 1996; 166:72
6. Pretorius ES, Siegelman ES. MRI of the male pelvis and the
bladder. Body MRI. Elsevier. USA, 2005, 371-424
7. Ito H, Murase T, Takashi M, Sobazima T, Miyake K,
Mitsuya H. Rhabdomyosarcoma of the prostate. Hinyokika
Kiyo. 1986; 32(1): 119-23
8. Logani S, Cabrera RA, Amin Mahul B. Pathology Case
Reviews, 2003; 8(2): 82-87
9. Nabi G, Dinda AK, Dogra PN. Primary embryonal
rhabdomyosarcoma of the prostate in adults: diagnosis and
management. Int Urol Nephrol, 2002-2003; 34(4): 531-4
10. Nagata Y, Hoshino H, Kinoshita H, Kawamura N, Suzuki
K. A case of rhabdomyosarcoma of the prostate in children.
Hinyokika Kiyo, 1985; 31(2): 319-26
2. Nuwal P, Solanki RL, Jain S, Pachori G. Botryoid
rhabdomyosarcoma of prostate – a case report. Indian J Pathol
Microbiol. 2001; 44(1): 65-6
3. Sanghvi AD, Purandare NC, Jambhekar NA, Thakur MH,
Joshi MS. Primary rhabdomyosarcoma of the seminal vesicle.
The British Journal of Radiology, 2004; 77: 159-160
4. Seino K, Tanji S, Yamamoto T, Fujizuka I, Ohinata M,
Kubo T, Ohhori T. Rhabdomyosarcoma of the prostate: report
of a case and review of the literature. Hinyokika Kiyo, 1987;
33(11): 1906-12
5. Sotolongo VI, Suarez CRE, Portilla FI, Reno CJ, Artiaga
HE. Embryonic rhabdomyosarcoma of the prostate. Report of a
case and review of the literature. Arch Esp Urol, 2003; 56(4):
418-21
6. Villers A, Barre C, Cornud F, Fontaine E, Molinie V,
Peneau M, Prapotnich D, Ravery V, Richaud P, Rossi D,
Ruffion A, Soulie M, Rtaerman F. Comit tumeurs de prostate.
Tumeurs rares de prostate.p. 35-54.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- sarcom_co_van_cua_tuyen_tien_liet_hinh_anh_cong_huong_tu.pdf