Siêu âm với tần số cao khảo sát phân nhánh thần kinh vận động của thần kinh cơ bì chi phối cơ nhị đầu cánh tay: Từ vị trí tách nhánh đến phân bố trong cơ
KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN
Một tay bên phải ở một phụ nữ 28 tuổi không có
TKCB, chiếm 3,1%. Điều này được xác định khi không
tìm thấy cấu trúc thần kinh đi xuyên qua CQCT và
không tìm thấy trong khoảng gian cơ giữa CQCT và
CNĐ (Hình 8). Thần kinh giữa tách các nhánh khi còn
ở cánh tay để chi phối cho CNĐ và CCT (Hình 9). Sự
vắng mặt của thần kinh cơ bì được báo cáo trong một
số nghiên cứu về giải phẫu học trên xác [5,6,7].
Ba mươi mốt chi còn lại đều xác định được TKCB
và các PNTKVĐ chi phối cho CNĐ của các dây thần
kinh này, chiếm 96,9%. Các PNTKVĐ chi phối CNĐ
tách ra khỏi thân dây TKCB được tìm thấy ở vị trí quanh
đoạn giao giữa một phần ba trên và một phần ba giữa
cánh tay, sau đó đi trong khoảng gian bó cơ một đoạn
ngắn trước khi xuyên qua bao ngoài CNĐ tại mặt sau
bó cơ. Có hai dạng phân nhánh thần kinh đi vào CNĐ
được tìm thấy là: 1) một phân nhánh ở 21 chi (65,6%);
2) hai phân nhánh cho bó dài và bó ngắn của cơ nhị
đầu ở (31,3%). Các đặc điểm trên phù hợp với các báo
cáo về hình thái giải phẫu ở các nghiên cứu phẫu tích
của nhiều tác giả [4].
Phân nhánh dây thần kinh nhỏ nhất trong cơ có thể
nhận diễn rõ trên siêu âm có đường kính 0,3 mm. Trong
bó cơ, các PNTKVĐ nằm trong các dải hồi âm dày hơn
mô cơ hồi âm kém xung quanh. Dây thần kinh được
nhận diện vì hồi âm kém và lớn hơn với độ dày của
các dải hồi âm dày này. Các cấu trúc mạch máu cũng
đi trong các dải này và nằm kế cận các phân nhánh
thần kinh.
8 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 33 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Siêu âm với tần số cao khảo sát phân nhánh thần kinh vận động của thần kinh cơ bì chi phối cơ nhị đầu cánh tay: Từ vị trí tách nhánh đến phân bố trong cơ, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
SCIENTIFIC RESEARCH
SUMMARY
59ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 29 - 1/20178
Purpose: The aim of this study was to investigate the ability
of high-frequency ultrasonography in examing the motor branches
of the musculocutaneous nerveinnervating biceps brachii in the
correlation with anatomical and histological knowledge. We analysed
the location where they exit the main nerve trunk, penetrate the
muscle epimysium and distribute inside the muscle.
Methods: Sixteen healthy volunteers (eight males and eight
females, ages 20-60, mean age 35) were examined on both sides of
the musculocutaneous nerves and their branches innervating biceps
brachii. The 5-18 MHz and 16-23 Mhz multi-frequency transducers along
with the latest high-resolution ultrasound systems were used to examine
the musculocutaneous nerves slowly and continuously in cross section
from the coracoid process of the scapula to the elbow. By analyzing the
nerve bundles inside the musculocutaneous nerve and the epimysium
of biceps brachii, we observed the position where one nervebranch
separated from the main trunk of the nerve, penetratedthe epimysium
and distributedinside the muscle.Blood vessels were distinguished with
nerves by Doppler ultrasound and compression method.
Results: One right arm of a 28-year-old womanwas found with
the absence of the musculocutaneous nerve and the median nerve
give the motor branches to the biceps brachii.
Thirty one musculocutaneous nerves and their motor branches
to biceps brachii muscles were detected on ultrasound. Inside the
muscle, the nerve branches were located in the hyperechoic bands
while the surrounding muscular tissue was hypoechoic. In these
hyperechoic bands, the nerves were identified because of hypoechoic
structure and thicker than the thickness of the bands. The blood
vessels were also foundin these bands. The minimum diameter of
the nerve branches inside the muscles can be seen as 0.3 mm.
Conclusion: High-frequency ultrasonography can examine
very small nervestructure, detemine the position where the motor
branches exit from the maintrunk of the nerve, penetrate the muscle
epimysium and branching inside the muscle.
Keywords: ultrasound, motor branch of the nerve, intramuscular
nerve distribution, musculocutaneous nerve, biceps brachii muscle
SIÊU ÂM VỚI TẦN SỐ CAO KHẢO SÁT
PHÂN NHÁNH THẦN KINH VẬN ĐỘNG
CỦA THẦN KINH CƠ BÌ CHI PHỐI CƠ NHỊ
ĐẦU CÁNH TAY: TỪ VỊ TRÍ TÁCH NHÁNH
ĐẾN PHÂN BỐ TRONG CƠ
High-frequency ultrasonography for the motor branchesof
the musculocutaneous nerve innervating biceps brachii:
from the branching location to the distribution in the muscle
Lê Tự Phúc*
*Medic Medical center HCM
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 29 - 1/201860
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong sự hiểu biết của chúng tôi, hầu như chưa
có nghiên cứu ứng dụng siêu âm để khảo sát các phân
nhánh thần kinh vận động từ vị trí tách nhánh khỏi thân
dây thần kinh chính đến vị trí xuyên qua bao ngoài bó
cơ được chi phối, phân bố thần kinh trong bó cơ, vị trí
tương đối giữa thần kinh và các cấu trúc khác trong bó
cơ. Có rất nhiều bài báo cáo trong y văn thế giới chứng
minh khả năng của siêu âm trong khảo sát hình thái và
bệnh lý của các dây thần kinh ngoại biên với độ chính
xác khá cao khi so sánh với MRI hoặc trong phẫu thuật.
Tuy nhiên các nghiên cứu còn giới hạn vì chỉ khảo sát
các dây thần kinh chính với vị trí nằm gian bó cơ hoặc
các dây thần kinh cảm giác nằm gần da.
Các phân nhánh thần kinh vận động chuyên biệt
chi phối cơ và sự phân bố thần kinh trong cơ được quan
tâm và nghiên cứu bởi các khoa giải phẫu, mô học và
ngoại khoa. Các kiến thức này được ứng dụng trong
các phẫu thuật chuyển vạc cơ, lấy mảnh ghép dây thần
kinh tự thân sửa chữa đám rối thần kinh cánh tay, cắt
chọn lọc dây thần kinh vận động hoặcthủ thuật chích
huỷ dây thần kinh vận động trong liệt cứng[9-13]
Việc khảo sát được các phân nhánh thần kinh vận
động chuyên biệt chi phối cơ trên siêu âm không chỉ có
ý nghĩa giúp chẩn đoán hoặc nhận định hình thái trước
khi làm thủ thuật mà còn có ý nghĩa thực hành rất lớn
trong can thiệp thần kinh dưới hướng dẫn siêu âm bởi
ưu thế khảo sát trong thời gian thực của siêu âm.
Phân nhánh thần kinh vận động xuất phát từ thần
kinh cơ bì chi phối cho cơ nhị đầu cánh tay được chọn
để khảo sát trong nghiên cứu này nhằm làm rõ các vấn
đề nêu trên.
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1) Mười sáu người lớn khỏe mạnh tình nguyện
(gồm tám nam và tám nữ; tuổi từ 20-60; trung bình
35 tuổi) được khám siêu âm hai tay khảo sát dây thần
kinh cơ bì (TKCB) và phân nhánh thần kinh vận động
(PNTKVĐ) đi vào trong cơ nhị đầu cánh tay (CNĐ). Hai
đầu dò đa tần số 5-18 MHz và 16-23 MHz cùng với các
hệ thống máy siêu âm mới nhất với độ phân giải cao
được dùng để khảo sát trên mặt cắt ngang TKCB và
các cơ xung quanh đoạn từ mỏm quạ xương vai đến
vùng khuỷu.
Hình 1: Các mặt cắt ngang từ mỏm quạ xuống dưới để nhận diện CQCT và đầu ngắn CNĐ.
Hình a: mặt cắt ngang mỏm quạ xương vai. Hình b: ngay dưới mỏm quạ xương vai, CQCT là cấu trúc cơ
hồi âm kém, các mũi tên chỉ gân nguyên ủy đầu ngắn CNĐ là dải gân mỏng nằm trước ngoài CQCT.
Hình c: gân đầu ngắn CNĐ chuyển tiếp thành cơ khi khảo sát xuống dưới. Hình d: đầu ngắn và đầu dài
của CNĐ phân biệt với nhau và phân biệt với CQCT bởi các dải hồi âm dày.
2) Để phân tích sự tách nhánh của TKCB trên
siêu âm, chúng tôi quan sát các bó nhỏ bên trong
dây thần kinh trên mặt cắt ngang từ đoạn dây thần
kinh này đi xuyên qua cơ quạ cánh tay (CQCT) xuống
vùng khuỷu. Các cơ xung quanh TKCB là CNĐ và
CQCT cũng được xác định rõ giới hạn ngoài của bó
cơ, phân tích đặc điểm hình thái từ nguyên uỷ đến
bám tận.
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 29 - 1/2018 61
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Hình 2. Các mũi tên chỉ TKCB khi đi đi xuyên CQCT để xuống cánh tay. Hình a: dây thần kinh tiếp xúc bờ sau
trong CQCT. Hình b: dây thần kinh đi xuyên qua trung tâm CQCT. Hình c: vị trí dây thần kinh vừa ra khỏi CQCT.
Hình d: dây thần kinh nằm ở khoảng gian cơ giữa CQCT và CNĐ.
Hình 3. Mặt cắt ngang theo thứ tự từ hình a đến hình f, từ trên xuống dưới, so sánh tương quan giữa TKCB với
các cơ xung quanh sau khi dây thần kinh đi ra khỏi CQCT. Mũi tên rỗng: TKCB hoặc các phân nhánh cuối của
TKCB. Mũi tên trắng: đường tiếp xúc giữa các bó cơ. ĐN CNĐ: đầu ngắn cơ nhị đầu; ĐD CNĐ: đầu dài cơ nhị
đầu; XCT: xương cánh tay. Hình a: mũi tên rỗng chỉ TKCB nằm giữa CQCT và đầu ngắn CNĐ. Hình b: CQCT nhỏ
hơn đoạn phía trên khi xuống gần vị trí bám tận vào xương cánh tay. Hình c: CQCT nhỏ lại, CCT bắt đầu xuất
hiện. Hình d và e: CQCT không còn trên hình ảnh siêu âm, CCT ngày càng dày hơn khi khảo sát xuống dưới;
mũi tên rỗng chỉ các phân nhánh cuối của TKCB nằm trong khoảng gian cơ giữa CNĐ và CCT. Hình f: mũi tên
rỗng chỉ phân nhánh cuối của TKCB hay là thần kinh bì cẳng tay trước ngoài; nằm giữa các dấu sao là dải gân
trung tâm của CNĐ ở một phần ba dưới cánh tay.
Tại vị trí ngay dưới mỏm quạ xương vai, CQCT
sớm chuyển thành cấu trúc cơ hồi âm kém, với chiều
ngang CQCT lớn hơn chiều ngang của mỏm quạ, trong
khi đầu ngắn CNĐ vẫn là cấu trúc gân hồi âm dày có
kích thước nhỏ hơn, nằm cạnh trước ngoài CQCT (Hình
1b). Khảo sát xuống dưới, đầu ngắn CNĐ sẽ chuyển
dần từ gân thành cơ hồi âm kém và phân biệt với CQCT
bởi một vách gian cơ mỏng có hồi âm dày (Hình 1c).
TKCB được nhận diện khi chạy xuyên qua trung tâm
của CQCT, đi xuống dưới và bắt chéo từ bờ trong đến
bờ ngoài CQCT, sau đó đi trong khoảng gian cơ giữa
CQCT và CNĐ (Hình 2). Càng khảo sát xuống dưới,
CQCT sẽ bám vào bờ trong xương cánh tay, nhỏ dần
và không còn xuất hiện trên mặt cắt siêu âm, trong khi
cơ cánh tay (CCT) xuất hiện phía sau CNĐ và dày dần
lên. Tại một phần ba dưới cánh tay, các phân nhánh
cuối của TKCB đi giữa mặt sau CNĐ và mặt trước CCT
để xuống vùng khuỷu (Hình 3).
Dọc theo đường đi của TKCB, hình ảnh siêu âm
trên mặt cắt ngang dây thần kinh từ bờ trong CQCT đến
khoảng gian cơ giữa CQCT và CNĐ có thể thay đổi từ dẹt
sang tam giác hoặc hình bầu dục. Bên trong bao ngoài
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 29 - 1/201862
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Hình 4. Sự tách nhánh của TKCB thể hiện trên các mặt cắt ngang liên tục từ trên xuống bằng đầu dò 23 MHz. Mũi
tên rỗng chỉ TKCB. Mũi tên trắng chỉ phân nhánh xuất phát từ TKCB và dần dần các xa thân chính dây thần kinh.
dây thần kinh là các bó nhỏ thần kinh, hình tròn, hồi âm
kém xếp cạnh nhau dạng tổ ong, phân biệt với nhau bởi
mô đệm gian bó thần kinh hồi âm dày. Sự tách nhánh thần
kinh được nhận diện khi một hoặc vài bó nhỏ bên trong
dây thần kinh dần dần tách ra và cách xa khỏi thân dây
thần kinh chính trên mặt cắt ngang dây thần kinh (Hình 4).
3) Phân nhánh của TKCB được xem là đi vào trong
CNĐ khi xuyên qua bao ngoài cơ và nằm bên trong so
với bao cơ. Để quan sát điều này, chúng tôi xác định rõ
bao ngoài CNĐ tại các vùng tiếp giáp với TKCB, hay
là nơi tiếp xúc giữa các bao ngoài của CNĐ với CQCT
và CCT. Sau đó phân tích vị trí tương đối của các phân
nhánh tách từ TKCB đối với bao ngoài CNĐ.
Mặt sau và trong của bao ngoài CNĐ, nơi tiếp giáp
với CQCT và CCT, khó xác định vì rất mỏng và dễ nhầm
lẫn với các dải hồi âm dày bên trong các bó cơ. Chúng
tôi tìm đường phân cách nơi các bó cơ trượt lên nhau
để xác định bao ngoài CNĐ. Ngoài chức năng gấp cẳng
tay vào cánh tay, CNĐ còn có chức năng ngửa cẳng
tay, trong khi CQCT và CCT không có chức năng này.
Khi làm động tác ngửa cẳng tay chủ động,CNĐ xuất
hiện sự co cơ trong khi hai cơ còn lại không có hiện
tượng này, từ đó tạo ra chuyển động trượt lên nhau
giữa bao ngoài của các bó cơ, vị trí đường trượt này
chính là vị trí của bao ngoài CNĐ.
Hình 5. PNTKVĐ tách ra từ TKCB và đi vào trong CNĐ, khảo sát bằng đầu dò 18 MHz. Mũi tên trắng chỉ PNTKVĐ
của TKCB. Mũi tên rỗng chỉ thân chính TKCB sau khi tách nhánh. Hình a, b, c: TKCB tách nhánh khi đi trong
khoảng gian cơ giữa CQCT và CNĐ. Hình d: PNTKVĐ tách ra thành hai nhánh nhỏ hơn. Hình e: hai PNTKVĐ
xuyên qua bao cơ của CNĐ để vào cơ. Hình f: các PNTKVĐ nằm trong dải hồi âm dày bên trong CNĐ.
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 29 - 1/2018 63
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
4) Để phân tích vị trí và sự phân bố thần kinh bên
trong CNĐ, chúng tôi dùng phương pháp khảo sát liên tục
dò dọc theo PNTKVĐ trên mặt cắt ngang sau khi phân
nhánh này tách ra từ thân chính TKCB. Sự khảo sát dừng
lại cho tới khi các phân nhánh thần kinh này quá nhỏ và
không thể phân biệt được với các cấu trúc khác.
Siêu âm Doppler và phương pháp đè ép đầu dò
được sử dụng để nhân diện các mạch máu trong cơ.
Các động mạch trong cơ hồi âm gần trống và có mạch
đập trên siêu âm B-mode, tín hiệu mạch xuất hiện trên
siêu âm Doppler khi giảm PRF xuống mức thấp tối
ưu. Các tĩnh mạch hồi âm trống với vách mỏng hơn
động mạch, có thể không có tín hiệu mạch trên siêu âm
Doppler vì dòng chảy chậm, tuy nhiên có thể xác định
vì xẹp lại khi đè đầu dò. Thần kinh trong cơ được xác
định bằng cách dựa và tính chất không xẹp lại khi đè ép
đầu dò trên siêu âm B-mode và không có tín hiệu mạch
trên siêu âm Doppler.
Hình 6. Dây thần kinh 0,3mm có thể nhận diện và phân biệt rõ với các mạch máu khi khảo sát dọc theo
các dải hồi âm dày bên trong cơ nhị đầu. Các mũi tên trắng chỉ dây thần kinh, hồi âm kém, đè không xẹp
và không có tín hiệu màu trên siêu âm Doppler. Các mạch máu có tín hiệu màu siêu âm Doppler.
5) Các hình ảnh cắt ngang CNĐ dọc theo chiều dài
bó cơ kết hợp với vị trí tìm thấy dây thần kinh trong cơ
trên siêu âm được dùng để so sánh với các nghiên cứu
mô học về cấu trúc cơ.
Các phân nhánh thần kinh vận động được tìm thấy
rõ trong các dải hồi âm dày ở đoạn một phần ba trên,
hình ảnh siêu âm cắt ngang CNĐ cho thấy các dải hồi
âm dày đi từ mặt sau trong bó cơ hướng vào trong bó
cơ, phân nhánh vàmờ dần khi hướng ra chu vi bó cơ.
Các dải này liên tục xuống dưới một phần ba giữa bó
cơ, mỏng và mờ dần. Ở đoạn một phần ba dưới, các
thớ cơ sẽ hội tụ thành dải gân trung tâm (aponeurosis),
nằm trung tâm CNĐ, hồi âm dày. Càng xuống dưới, dải
gân trung tâm này sẽ chuyển tiếp dần thành gân bám
tận bám vào lồi củ xương quay.
Hình 7. Sự khác nhau về cấu trúc của CNĐ ở ba vùng trên, giữa và dưới cánh tay. Các mũi tên trắng chỉ mặt sau
trong của bao ngoài CNĐ. Hình a: đoạn một phần trên cánh tay, gần nơi nối tiếp với đoạn một phần ba giữa,
có các dải hồi âm dày xuất phát từ mặt sau trong bó cơ, hướng ra ngoại vi bó cơ và mờ dần. Hình b: đoạn một
phần ba giữa cánh tay, các dải mờ hồi âm dày phân bố rải rác bên trong bó cơ, không rõ như trên hình a. Hình
c: đoạn một phần ba dưới, các dấu sao chỉ dải gân trung tâm bó cơ và không liên tục với bao ngoài cơ.
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 29 - 1/201864
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Trong cấu trúc mô học của cơ vân, một bó cơ
(muscle belly) được bao quanh bởi bao cơ (epimysium)
và được hình thành bởi nhiều thớ cơ (muscle fascicle);
các thớ cơ được bao quanh bởi các lớp màng thớ cơ
(perimysium); một thớ cơ được hình thành bởi nhiều
sợi cơ (muscle fiber); các sợi cơ được bao quanh bởi
các lớp màng sợi cơ (endomysium). Các phân nhánh
thần kinh trong cơ và các mạch máu được tìm thấy
trong các lớp màng này. Các lớp màng này là mô liên
kết được cấu tạo bởi thành phần chính là collagen và
ít mô mỡ xen kẽ [8]. Trên siêu âm, mô collagen hồi âm
dày, mô cơ hồi âm kém. Điều này cho thấy sự tương
hợp giữa hình ảnh siêu âm và mô học: các dải hồi âm
dày bên trong bó cơ được tìm thấy trên hình ảnh siêu
âm là các lớp màng gian thớ cơ. Siêu âm tìm thấy vị
trí các phân nhánh thần kinh vận động nằm trong các
dải hồi âm dày, hay là các lớp màng gian thớ cơ, cũng
hoàn toàn phù hợp với cấu trúc mô học về phân bố thần
kinh trong cơ.
III. KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN
Một tay bên phải ở một phụ nữ 28 tuổi không có
TKCB, chiếm 3,1%. Điều này được xác định khi không
tìm thấy cấu trúc thần kinh đi xuyên qua CQCT và
không tìm thấy trong khoảng gian cơ giữa CQCT và
CNĐ (Hình 8). Thần kinh giữa tách các nhánh khi còn
ở cánh tay để chi phối cho CNĐ và CCT (Hình 9). Sự
vắng mặt của thần kinh cơ bì được báo cáo trong một
số nghiên cứu về giải phẫu học trên xác [5,6,7].
Ba mươi mốt chi còn lại đều xác định được TKCB
và các PNTKVĐ chi phối cho CNĐ của các dây thần
kinh này, chiếm 96,9%. Các PNTKVĐ chi phối CNĐ
tách ra khỏi thân dây TKCB được tìm thấy ở vị trí quanh
đoạn giao giữa một phần ba trên và một phần ba giữa
cánh tay, sau đó đi trong khoảng gian bó cơ một đoạn
ngắn trước khi xuyên qua bao ngoài CNĐ tại mặt sau
bó cơ. Có hai dạng phân nhánh thần kinh đi vào CNĐ
được tìm thấy là: 1) một phân nhánh ở 21 chi (65,6%);
2) hai phân nhánh cho bó dài và bó ngắn của cơ nhị
đầu ở (31,3%). Các đặc điểm trên phù hợp với các báo
cáo về hình thái giải phẫu ở các nghiên cứu phẫu tích
của nhiều tác giả [4].
Phân nhánh dây thần kinh nhỏ nhất trong cơ có thể
nhận diễn rõ trên siêu âm có đường kính 0,3 mm. Trong
bó cơ, các PNTKVĐ nằm trong các dải hồi âm dày hơn
mô cơ hồi âm kém xung quanh. Dây thần kinh được
nhận diện vì hồi âm kém và lớn hơn với độ dày của
các dải hồi âm dày này. Các cấu trúc mạch máu cũng
đi trong các dải này và nằm kế cận các phân nhánh
thần kinh.
Hình 8. Không có TKCB tại đường phân cách giữa CNĐ và CQCT bên tay phải. Các mũi tên rỗng
chỉ đường phân cách giữa CNĐ và CQCT. ĐMCT: động mạch cánh tay; TKG: thần kinh giữa.
Hình 9. Thần kinh giữa phải tách nhánh tại cánh tay trên các hình chụp liên tiếp.
Các mũi tên rỗng chỉ dây thần kinh giữa phải và các phân nhánh được tách ra.
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 29 - 1/2018 65
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
IV. KẾT LUẬN
Siêu âm có thể khảo sát các cấu trúc thần kinh
siêu nhỏ, xác định được vị trí phân nhánh thần kinh vận
động tách ra khỏi thân dây thần kinh chính, đi vào bó cơ
và phân bố thần kinh trong bó cơ. Nghiên cứu này mở
rộng khả năng chẩn đoán các bệnh lý thần kinh ngoại
biên trong cơ và có nhiều ứng dụng trong điều trị phục
hồi chức năng hoặc can thiệp tối thiểu các bệnh lý thần
kinh cơ dưới hướng dẫn siêu âm.
Các thuật ngữ tạm dịch trong bài:
- Bó cơ: muscle belly, được bao ngoài bởi lớp
epimysium.
- Bó cơ chứa các thớ cơ: muscle fascicle, bao
ngoài bởi lớp perimysium
- Thớ cơ chứa các sợi cơ: muscle fiber, được bao
ngoài bởi lớp endomysium
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Martinoli C, Bianchi S, Derchi LE.
Ultrasonography of peripheral nerves. Semin Ultrasound
CT MR.2000;21:205–13.
2. Tagliafico AS, Michaud J, Marchetti A,
Garello I, Padua L, Martinoli C. US imaging of the
musculocutaneous nerve. Skeletal Radiol. 2011
May;40(5):609-16.
3. Schafhalter-Zoppoth I, Gray AT. The
musculocutaneous nerve: ultrasound appearance for
peripheral nerve block. Reg Anesth Pain Med. 2005
Jul-Aug;30(4):385-90.
4. Pacha Vicente D, Forcada Calvet P, Carrera
Burgaya A, Llusá Pérez M. Innervation of biceps brachii
and brachialis: Anatomical and surgical approach. Clin
Anat. 2005 Apr;18(3):186-94.
5. Aydin ME, Kale A, Edizer M, Kopuz C, Demir
MT, Corumlu U. Absence of the musculocutaneous
nerve together with unusual innervation of the median
nerve. Folia Morphol (Warsz) 2006;65:228–31.
6. Satheeshanayak. Absence of musculocutaneous
nerve associated with clinically important variations in
the formation, course and distribution of the median
nerve: A case report. Neuroanatomy 2007;6:49-50.
7. Arora L, Dhingra R. Case report- Absence of
musculocutaneous nerve and accessory head of biceps
brachii: A case report. Indian J Plast Surg 2005;38:144-
6.
8. N Light, A E Champion. Characterization of
muscle epimysium, perimysium and endomysium
collagens. Biochem J. 1984 May 1; 219(3): 1017–1026.
9. Sindou MP, Simon F, Mertens P, Decq P.
Selective peripheral neurotomy (SPN) for spasticity in
childhood. Childs Nerv Syst. 2007;23:957–970.
10. Smyth MD, Peacock WJ. The surgical treatment
of spasticity. Muscle Nerve. 2000;23:153–163.
11. Lepage D, Parratte B, Tatu L, Vuiller F,
Monnier G. Extra- and intramuscular nerve supply of
the muscles of the anterior antebrachial compartment:
applications for selective neurotomy and for botulinum
toxin injection. Surg Radiol Anat. 2005;27:420–430.
12. Amirali A, Mu L, Gracies JM, Simpson DM.
Anatomical localization of motor endplate bands
in the human biceps brachii. J Clin Neuromuscul
Dis. 2007;9:306–312.
13. Moon JY, Hwang TS, Sim SJ, Chun SI, Kim
M. Surface mapping of motor points in biceps brachii
muscle. Ann Rehabil Med. 2012;36:187–196.
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 29 - 1/201866
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
TÓM TẮT
Mục đích
Mục đích của nghiên cứu này là để đánh giá khả năng của siêu âm với tần số cao trong khảo sát phân nhánh
thần kinh vận động của thần kinh cơ bì chi phối cơ nhị đầu cánh tay trong sự tương quan với kiến thức giải phẫu
học và mô học. Chúng tôi phân tích các phân nhánh này từ vị trí tách ra khỏi thân thần kinh chính, xuyên qua bao
ngoài cơ và phân bố bên trong bó cơ.
Phương pháp
Mười sáu người lớn khỏe mạnh tình nguyện (gồm tám nam và tám nữ; tuổi từ 20-60; trung bình 35 tuổi) được
khám siêu âm hai bên khảo sát dây thần kinh cơ bì và các phân nhánh dây thần kinh cơ bì chi phối cơ nhị đầu cánh
tay. Hai đầu dò đa tần số 5-18 MHz và 16-23 MHz cùng với các hệ thống máy siêu âm mới nhất với độ phân giải cao
được dùng để khảo sát dây thần kinh cơ bì một cách chậm rãi và liên tục trên mặt cắt ngang từ mỏm quạ xương
vai đến vùng khuỷu. Bằng cách phân tích các bó thần kinh nhỏ bên trong dây thần kinh cơ bì và lớp bao ngoài của
cơ nhị đầu cánh tay, chúng tôi xác định vị trí một phân nhánh thần kinh tách ra khỏi thân thần kinh chính, xuyên qua
bao ngoài cơ và phân bố trong cơ. Các mạch máu được phân biệt với thần kinh bởi siêu âm Doppler và phương
pháp đè ép.
Kết quả
Một cánh tay phải của một phụ nữ 28 tuổi được xác định không có thần kinh cơ bì và thần kinh giữa tách nhánh
thần kinh vận động chi phối cơ nhị đầu cánh tay.
Ba mươi mốt dây thần kinh cơ bì và phân nhánh dây thần kinh chi phối cơ nhị đầu cánh tay đều được xác định
trên siêu âm. Trong bó cơ, các phân nhánh thần kinh nằm trong các dải hồi âm dày trong khi mô cơ xung quanh hồi
âm kém. Tại các dải hồi âm dày này, phân nhánh thần kinh được nhận diện vì hồi âm kém và tăng độ dày so với độ
dày của dải hồi âm dày này. Kế cận các phân nhánh thần kinh là các cấu trúc mạch máu được phân biệt với dây
thần kinh bằng cách đè ép đầu dò và nhờ vào tín hiệu mạch trên Doppler. Đường kính phân nhánh dây thần kinh
nhỏ nhất trong cơ có thể thấy là 0,3 mm.
Kết luận
Siêu âm với tần số cao có thể khảo sát các cấu trúc thần kinh rất nhỏ, xác định được vị trí phân nhánh thần
kinh vận động tách ra khỏi thân dây thần kinh chính, vị trí nhánh thần kinh vận động đi vào bó cơ và phân bố thần
kinh trong bó cơ.
Từ khoá: siêu âm, thần kinh vận động cơ, sự phân bố thần kinh trong cơ, thần kinh cơ bì, cơ nhị đầu
Người liên hệ: BS Lê Tự Phúc; Email: letuphuc206@gmail.com
Ngày nhận bài: 10/10/2017; Ngày chấp nhận đăng: 30/11/2017
Các file đính kèm theo tài liệu này:
sieu_am_voi_tan_so_cao_khao_sat_phan_nhanh_than_kinh_van_don.pdf