Sinh kế là điều kiện để con người có thể
thỏa mãn các nhu cầu cơ bản của mình. Sinh
kế càng quan trọng hơn đối với các cộng đồng
nghèo, dễ bị tổn thương và với các mục tiêu
thiên niên kỷ, việc xóa nghèo, giảm nghèo
là một mục tiêu đặc biệt quan trọng. Do đó,
nghiên cứu sinh kế được chú ý quan tâm để
giúp cộng đồng nghèo có được chiến lược
sinh kế tốt nhất dựa trên việc sử dụng nguồn
vốn sinh kế, cùng với đó là những chính sách
hiệu quả để đạt được kết quả sinh kế có lợi
nhất cho cộng đồng, để cộng đồng có thể thực
hiện được sinh kế bền vững, có khả năng phục
hồi trước những tổn thương trong cuộc sống.
Điểm du lịch xuất hiện có vai trò như một
“đầu tàu” kéo nền kinh tế của địa phương đi
lên. Trong bối cảnh đó, cộng đồng địa phương
có cơ hội để thực hiện chiến lược sinh kế mới.
Đó là các loại hình sinh kế dựa vào điểm du
lịch, đặc biệt là kinh doanh dịch vụ du lịch.
“Cơ thể kinh tế” địa phương mạnh lên cũng
như cộng đồng địa phương thu được những
lợi nhuận mà điểm du lịch mang lại. Tác động
rõ rệt nhất tới cộng đồng của điểm du lịch thể
hiện qua những đổi thay diện mạo vật chất và
mức sống cư dân. Bên cạnh đó, điểm du lịch
cũng đặt ra nhiều vấn đề, đặc biệt là những tác
động tiêu cực đến văn hóa, xã hội.
Chính vì lý do đó, nghiên cứu sinh kế dựa
vào điểm du lịch một mặt sẽ thấy được cộng
đồng đã thực hiện sinh kế như thế nào, với
mức độ ra sao và thu lại được những gì. Bên
cạnh đó, nghiên cứu này cũng chỉ ra cộng
đồng thực hiện sinh kế mất gì, mà chủ yếu là
về mặt văn hóa, xã hội. Ngoài ra, việc chỉ ra
tác động ngược trở lại của các chiến lược sinh
kế đến điểm du lịch, đặc biệt là hình ảnh du
lịch, cũng là một việc quan trọng để tìm ra các
giải pháp vừa đảm bảo lợi ích cho cộng đồng
trong mối quan hệ với tài nguyên du lịch, với
chính quyền địa phương, với doanh nghiệp và
du khách, vừa đảm bảo tốt nhất cho hình ảnh
điểm du lịch.
7 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 10/01/2022 | Lượt xem: 448 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Sinh kế của cộng đồng địa phương dựa vào điểm du lịch: Những vấn đề đặt ra hiện nay, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
79Số 26 - Tháng 12 - 2018
VĂN HÓA DU LỊCH
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
SINH KẾ CỦA CỘNG ĐỒNG ĐỊA PHƯƠNG DỰA VÀO
ĐIỂM DU LỊCH: NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA HIỆN NAY
ĐOÀN VĂN THẮNG
Tóm tắt
Du lịch được coi là ngành công nghiệp không khói, ngày càng đóng vai trò quan trọng trong việc
thay đổi cơ cấu kinh tế, cung cấp việc làm và đóng góp vào ngân sách quốc gia, địa phương. Ở một số
nơi có điểm du lịch, một bộ phận dân cư của cộng đồng địa phương đã dựa vào sự phát triển du lịch để
thay đổi các chiến lược mưu sinh. Quá trình thích ứng với sinh kế mới đưa đến nhiều thay đổi tại cộng
đồng trên các phương diện thu nhập, diện mạo vật chất, lối sống và các thực hành văn hóa. Cộng đồng
được gì và mất gì trong quá trình thay đổi sinh kế, đưa đến những thay đổi về mặt văn hóa là vấn đề
cần được quan tâm.
Từ khóa: Cộng đồng, sinh kế, điểm du lịch
Abstract
Tourism is considered a smokeless industry, which plays an important role in changing the economic
structure, providing jobs and contributing to national and local budgets. In some places where there
are tourist sites, a part of the local community has relied on tourism development to change their
livelihood strategies. The process of adapting to new ways of livelihood leads to many changes in
the community in terms of income, appearance of material, lifestyle and cultural practices. What the
community can gain and lose in the process of changing the ways of livelihood, resulting changes in
cultural aspects is concerned matter.
Keywords: Community, livelihoods, tourism site
1. Bối cảnh
Trong những năm qua, diện mạo nông thôn Việt Nam trên các phương diện kinh tế, văn hóa, xã hội có nhiều thay
đổi dưới tác động của phát triển kinh tế. Công
nghiệp hóa, đô thị hóa và kinh tế thị trường
như một lực tác động tạo ra những biến đổi từ
các thực hành văn hóa, lối sống đến các mối
quan tâm về vấn đề quyền lực, sự sở hữu, sử
dụng tài nguyên và việc lựa chọn, quyết định
các phương thức mưu sinh Trong bối cảnh
đó, xuất hiện tình trạng “nhạt” nông nghiệp
đã diễn ra tại nhiều cộng đồng nông thôn khi
đứng trước quá trình thu hồi quyền sử dụng
đất nông nghiệp để xây dựng hạ tầng các khu
công nghiệp, khu đô thị; trước sức hút từ các
khu công nghiệp, các chiến lược sinh kế mới
và các cơ hội thu nhập tốt hơn từ quá trình di
dân nông thôn - đô thị trong việc tìm ra con
đường giải quyết vấn đề kinh tế hộ gia đình. Ở
cấp độ có tính vĩ mô, các học giả và nhà quản
lý quan tâm đến các nghiên cứu, hỗ trợ việc
hoạch định chính sách nhằm tìm ra con đường
“cải tạo” nông thôn với hy vọng “thủ tiêu” cơ
chế làng xã cũ và các mặt hạn chế của nó để
đưa các làng xã này trở thành “nông thôn mới”
với kỳ vọng mang lại cho cộng đồng nông
thôn những yếu tố tích cực trong đời sống vật
chất và tinh thần.
Trong mục tiêu phát triển nông thôn
và giảm nghèo, sinh kế trở thành mục tiêu
nghiên cứu và phân tích nhằm tìm ra những
chiến lược hiệu quả, góp phần cải thiện cuộc
sống của cộng đồng bởi nó là phương tiện để
đảm bảo đời sống. Theo định nghĩa của DFID
(Department for International Development -
Số 26 - Tháng 12 - 201880
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
Bộ Phát triển Quốc tế Anh), “sinh kế bao gồm
các khả năng, các tài sản (bao gồm cả các
nguồn lực vật chất và xã hội) và các hoạt động
cần thiết để kiếm sống” (5, tr.5). Trong khung
phân tích sinh kế bền vững của DFID, vốn sinh
kế được chia thành 4 loại: Vốn nhân lực, vốn vật
chất, vốn xã hội, vốn tự nhiên và vốn tài chính.
Sinh kế bền vững có thể được hiểu như sau:
“Một sinh kế sẽ phải tùy thuộc vào khả năng
và của cải (cả nguồn lực vật chất và xã hội)
và những hoạt động mà tất cả là cần thiết để
mưu sinh. Sinh kế của một người hoặc của
một gia đình chỉ có thể là bền vững khi họ có
thể đương đầu và phục hồi trước những căng
thẳng và biến động, và tồn tục được hoặc nâng
cao thêm các khả năng và của cải của mình
hiện nay và của cả trong tương lai mà không
làm tổn hại đến các nguồn lực môi trường” (2,
tr.104). Sinh kế của con người rất đa dạng, tùy
từng điều kiện tự nhiên, trình độ kinh tế, văn
hóa, xã hội mà có các chiến lược sinh kế khác
nhau với các nhóm khác nhau thực hiện sinh
kế. Gần biển, bám biển; gần rừng, bám rừng,
với các hình thức khai thác đơn giản nhất của
cộng đồng đến những công việc có tính chất
phức tạp như làm nghiên cứu khoa học hay các
nghề nghiệp đòi hỏi kỹ năng và chất xám cao
như công nghệ điện tử, vũ trụ Sinh kế không
phải là thứ bất biến đối với bất cứ cá nhân,
cộng đồng nào. Một tác động từ bên ngoài hay
tính chủ động của con người sẽ làm thay đổi
chiến lược sinh kế và từ đó dẫn tới những biến
đổi về mức sống cùng các vấn đề kéo theo nó
khi kinh tế thay đổi. Có những ví dụ về vấn đề
thay đổi sinh kế do tác động từ bên ngoài, điển
hình là việc “xâm lăng” của công nghiệp hóa,
đô thị hóa đến các vùng nông thôn. Một mặt,
cộng đồng cư dân phải thay đổi chiến lược
sống, thích nghi với các sinh kế mới, mặt khác
là những thay đổi về văn hóa xã hội. Có một
loại tác động thường không được chú ý nhiều
như đối với vấn đề công nghiệp hóa, đô thị
hóa nhưng cũng mang lại những tác động rất
lớn tới việc lựa chọn chiến lược sinh kế, tới đời
sống kinh tế, văn hóa xã hội của cộng đồng,
đó chính là tác động của các điểm du lịch, đặc
biệt là các điểm du lịch lớn, nổi tiếng, giàu tiềm
năng. Việc xuất hiện điểm du lịch đã cung cấp
sinh kế mới, thay đổi cách làm ăn kinh tế, từ đó
đưa đến sự thay đổi trong đời sống văn hóa
của người dân.
Du lịch đang trở thành một ngành công
nghiệp được khai thác có hiệu quả tại Việt
Nam. Điều này được chứng minh qua các con
số thống kê về số lượng khách nội địa, khách
quốc tế và doanh thu tăng qua các năm. Nhiều
điểm du lịch được hình thành, thu hút vốn
đầu tư, kéo theo kinh doanh du lịch làm lợi
cho các doanh nghiệp và cho cả cộng đồng
địa phương. Cộng đồng địa phương một mặt
được hưởng lợi, mặt khác đóng góp một phần
vào phát triển các dịch vụ cung cấp cho khách
du lịch, tham gia bảo vệ tài nguyên du lịch và
được nhìn nhận như một bên tham gia, một
đối tác của ngành du lịch nhằm đảm bảo lợi
ích trong trong mô hình có sự tham gia của
Chính quyền - Doanh nghiệp du lịch - Cộng
đồng - Du khách.
Nghiên cứu sinh kế dựa vào điểm du lịch là
một hướng tiếp cận để thấy được cộng đồng
đã tận dụng và chịu tác động như thế nào từ
một yếu tố mới xuất hiện trong cuộc sống, đặc
biệt là với những người nông dân nhiều thế hệ
quen với kinh tế nông nghiệp và văn hóa từ
nền kinh tế nông nghiệp sản sinh ra. Nghiên
cứu như vậy sẽ chỉ ra được cộng đồng được gì
và mất gì, cụ thể hơn là tìm hiểu những biến
đổi về kinh tế, đời sống văn hóa xã hội của
cộng đồng địa phương do tác động của điểm
du lịch đem lại. Ngoài ra, nghiên cứu sinh kế
dựa vào điểm du lịch cũng chỉ ra loại hình nào
ảnh hưởng đến hình ảnh điểm du lịch và cần
có cách xử lý ra sao. Do đó, đây là một công
việc vừa có ý nghĩa khoa học, vừa có ý nghĩa
thực tiễn.
2. Điểm du lịch và cơ hội thay đổi chiến lược
sinh kế của cộng đồng địa phương
2.1. Khái niệm điểm du lịch
Theo Quyết định phê duyệt “Chiến lược
phát triển du lịch Việt Nam đến năm 2020,
tầm nhìn đến năm 2030” của Thủ tướng Chính
phủ, mục tiêu chiến lược của du lịch Việt Nam
là phát triển ngành du lịch thành ngành kinh
tế mũi nhọn, có tính chuyên nghiệp, hiện đại,
mang đến những sản phẩm du lịch chất lượng,
81Số 26 - Tháng 12 - 2018
VĂN HÓA DU LỊCH
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
đa dạng, có thương hiệu, mang đậm bản sắc
văn hóa dân tộc, cạnh tranh được với các nước
trong khu vực và thế giới. Trong bối cảnh như
vậy, ngành du lịch phải ra sức khai thác các
tiềm năng du lịch từ nguồn vốn du lịch nhân
văn, du lịch tự nhiên để đạt chỉ tiêu đề ra. Cùng
với đó là lợi nhuận khiến các doanh nghiệp du
lịch sẵn sàng chi một khoản lớn trong chiến
lược kinh doanh của mình. Do đó, các điểm tài
nguyên du lịch được rót vốn đầu tư, khai thác,
biến thành các điểm du lịch và trong chiến
lược kinh doanh sẽ được quảng bá rộng để trở
nên nổi tiếng, có sức hút, hay tạo ra “lực hấp
dẫn du lịch”. Vậy điểm du lịch là gì?
“Theo nghĩa chung nhất, điểm du lịch là
những chỗ hoặc cơ sở mà khách du lịch hướng
đến và lưu trú, điểm du lịch có thể là những
chỗ không có dân cư. Đó là nghĩa rộng của
điểm du lịch. Tuy nhiên, trong kinh tế du lịch,
điểm du lịch là một nơi, một vùng hay một đất
nước có sức hấp dẫn đặc biệt với người dân
ngoài địa phương và có những thay đổi nhất
định trong kinh tế do hoạt động du lịch gây
nên” (6, tr.112). Điểm du lịch có thể là một điểm
lớn hay nhỏ có tài nguyên du lịch. Trong đó,
theo cách phân loại đơn giản nhất, tài nguyên
du lịch bao gồm: tài nguyên du lịch văn hóa,
tài nguyên du lịch tự nhiên. Do đó, ngoài khái
niệm điểm du lịch, cũng cần làm rõ khái niệm
điểm tài nguyên. Có thể định nghĩa điểm tài
nguyên là nơi có một hay nhiều tài nguyên du
lịch hấp dẫn du khách nhưng chưa được khai
thác. Như vậy, cũng có thể hiểu điểm du lịch là
điểm đã khai thác tài nguyên du lịch.
Điểm du lịch có thể chia thành điểm du lịch
tự nhiên và điểm du lịch văn hóa nếu đặt cách
phân chia theo quan điểm nhị nguyên: chia tài
nguyên du lịch thành hai thực thể tự nhiên và
văn hóa. Trong đó, điểm du lịch tự nhiên được
hiểu là điểm du lịch mà các hoạt động của nó
chủ yếu dựa vào khai thác giá trị các tài nguyên
du lịch tự nhiên. Thường thì các loại hình du
lịch nghỉ dưỡng, du lịch thể thao, du lịch núi,
du lịch biển sẽ gắn với điểm du lịch loại này.
Đối với điểm du lịch văn hóa, các giá trị khai
thác sẽ tập trung vào các trung tâm lịch sử, văn
hóa, giáo dục. Đặc biệt là việc khai thác các sinh
hoạt văn hóa của các cộng đồng còn tồn tại
nhiều nét văn hóa truyền thống như các làng
điển hình ở đồng bằng châu thổ sông Hồng,
nơi diễn ra nhiều lễ hội lớn. Các doanh nghiệp
du lịch cũng thường kinh doanh tại những
cộng đồng xa trung tâm đô thị, đặc biệt như ở
Việt Nam là các cộng đồng tộc người thiểu số
có văn hóa được mô tả là khác lạ, kỳ bí, do đó
có sức hút đặc biệt với du khách, cả khách nội
địa và khách quốc tế. Các trung tâm tôn giáo
cũng là một nguồn tài nguyên lớn cho du lịch
để tạo nên các điểm du lịch tôn giáo. Ngoài ra,
các trung tâm kinh tế, chính trị cũng là nơi thu
hút được hoạt động du lịch. Trên thực tế, hiếm
có điểm du lịch nào chỉ bao gồm một nhân tố
tự nhiên hoặc văn hóa mà chủ yếu là các điểm
du lịch có sự kết hợp nhiều yếu tố.
Ngoài ra, cũng có thể chia điểm du lịch
thành điểm du lịch có ý nghĩa địa phương,
vùng, quốc gia, quốc tế, hay chia thành hai loại
điểm: điểm du lịch có ý nghĩa hạn chế và điểm
du lịch có ý nghĩa tuyệt đối. Điểm du lịch có
ý nghĩa hạn chế khi chỉ thu hút được một số
Năm
Chỉ tiêu 2009 2010 2011 2012 2013 2014 2015 2016 2017
Tổng thu từ
khách du lịch
(Nghìn tỉ
đồng)
68,00 96,00 130,00 160,00 200,00 230,00 337,83 400,00 510,90
Tốc độ tăng
trưởng (%)
13,3 41,2 35,4 26,1 25,0 15,0 * 18,4 27,5
Bảng 1. Tổng thu từ khách du lịch giai đoạn 2009 - 2017
Chú thích: * Theo phương pháp thống kê mới (Nguồn: Tổng cục Du lịch)
Số 26 - Tháng 12 - 201882
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
du khách hạn chế ở một vài địa phương, vùng,
hay đất nước. Điểm du lịch có ý nghĩa tuyệt
đối là điểm du lịch thu hút không hạn chế số
lượng du khách.
2.2. Điểm du lịch - cơ hội sinh kế của cộng
đồng địa phương
Cộng đồng là một khái niệm có độ co giãn
về nội hàm và ngoại diên nên khó có một
định nghĩa thống nhất. Theo nhà nghiên cứu
Lương Hồng Quang, khái niệm cộng đồng
(community) được sử dụng để chỉ các đối
tượng có những đặc điểm khác nhau về quy
mô, đặc tính xã hội. Rộng nhất có thể kể đến
các khối tập hợp người, các liên minh rộng lớn
như cộng đồng thế giới, cộng đồng châu Âu
Nhỏ hơn có thể áp dụng cho một kiểu/ hạng
xã hội, căn cứ vào các đặc tính tương đồng
như tôn giáo, sắc tộc như cộng đồng người
Do Thái, cộng đồng người Thanh giáo Ở cấp
độ nhỏ hơn, cộng đồng được sử dụng để chỉ
các đơn vị cơ bản như cộng đồng làng hay
một nhóm xã hội có những đặc tính chung về
giới, nghề nghiệp, thân phận xã hội (3, tr.5).
Cũng theo ông, cộng đồng là một tập hợp
người được nhận diện dựa trên yếu tố địa vực,
nghề nghiệp và văn hóa. Trong đó, yếu tố địa
vực thường gắn chặt với đất đai, là đặc điểm
để khu biệt một cộng đồng. Những cộng đồng
làng thường gắn với yếu tố này. Tuy nhiên có
những kiểu cộng đồng ít gắn với yếu tố địa vực
mà sự phân định cộng đồng được dựa trên sự
chia sẻ chung tính chất nào đó. Nhìn chung,
yếu tố địa vực là đặc điểm khu biệt cộng đồng.
Yếu tố kinh tế vừa (hay nghề nghiệp) vừa tạo
ra sự đảm bảo về mặt vật chất, vừa tạo ra một
sự chia sẻ chung về địa vị kinh tế, cách thức
làm ăn, về tổ nghề,... Yếu tố văn hóa rõ ràng
có vai trò quan trọng trong xác định đặc điểm
nhận dạng một cộng đồng, là một biểu thị có
tính tổng hợp khi nhận biết các cộng đồng,
trong đó đặc biệt chú ý đến các khía cạnh như
truyền thống - lịch sử, tộc người, tôn giáo - tín
ngưỡng, hệ thống giá trị - chuẩn mực, phong
tục tập quán... (3, tr.16-18)
Trong trường hợp nghiên cứu sinh kế của
cộng đồng địa phương dựa vào điểm du lịch,
có thể hiểu rằng đây là tập hợp cư dân sinh
sống trong hoặc liền kề với với điểm du lịch.
Cũng cần thống nhất một cách tương đối rằng
đây là các cộng đồng thuộc khu vực nông
thôn hoặc các khu vực hẻo lánh, văn hóa còn
khá thuần nhất bởi sự khu biệt tương đối với
cuộc sống bên ngoài. Các đặc điểm về yếu tố
địa vực, kinh tế và văn hóa trong trường hợp
này dễ dàng nhận biết để phản ánh các đặc
trưng của cộng đồng. Bởi sinh sống gắn với
các điểm tài nguyên du lịch, cho nên các tài
nguyên du lịch tự nhiên cũng là một nguồn
khai thác sinh kế của cộng đồng qua các hoạt
động như săn bắn, khai thác tài nguyên rừng
(đặc biệt là tại các khu vườn quốc gia, khu
bảo tồn thiên nhiên...). Bên cạnh đó, với các
tài nguyên nhân văn, cộng đồng địa phương
thường được xem như là chủ thể sáng tạo, gìn
giữ và phát huy giá trị. Do đó, cộng đồng địa
phương cần nhận được sự quan tâm và chia
sẻ quyền lợi trong quá trình phát triển du lịch,
cũng như cần được nâng cao nhận thức và mối
quan tâm của họ trong việc bảo vệ cảnh quan
môi trường tự nhiên và các giá trị văn hóa gắn
với cộng đồng.
Một tính chất phổ biến của điểm du lịch là
sự đan xen, hay tính xen ghép với điểm sinh
sống và hoạt động kinh tế của cộng đồng địa
phương. Điều này thể hiện rõ nhất tại các điểm
du lịch làng quê, du lịch phố cổ, du lịch văn hóa
- lễ hội, Không những vậy, ngay cả các điểm
du lịch tự nhiên như Cát Bà, Đồ Sơn, Hạ Long,
Bãi Cháy, cũng là các khu vực dân cư có hoạt
động kinh tế sôi động (1, tr. 31). Do đó, một khi
điểm du lịch xuất hiện sẽ tạo ra những cơ hội
thay đổi chiến lược sinh kế cho cộng đồng địa
phương nơi đó vì những nhu cầu của du khách
và chính bản thân ngành du lịch.
Trước hết, du khách khi đến với điểm du
lịch thường có nhu cầu khám phá văn hóa,
phong tục tập quán của địa phương và sử
dụng các dịch vụ ăn, nghỉ, hỗ trợ đi lại, nghỉ
ngơi Đặc biệt, những sự khác biệt, lạ lẫm
thường trở thành điều thích thú đối với họ. Đó
là cơ sở để cộng đồng địa phương nắm bắt cơ
hội, thực hiện những dịch vụ phục vụ du khách
từ loại hình đơn giản nhất cho đến các hình
thức phức tạp. Các loại hình dịch vụ du lịch,
trong đó có kinh doanh lưu trú, kinh doanh
ăn uống, thậm chí các hoạt động bán rong
83Số 26 - Tháng 12 - 2018
VĂN HÓA DU LỊCH
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
cũng đem lại một nguồn thu nhập lớn trong
cơ cấu kinh tế của các hộ gia đình. Các thứ vải
thổ cẩm - một sản phẩm quá quen thuộc với
người dân, trở thành món hàng đắt tiền tại Sa
Pa khi du khách, đặc biệt là người nước ngoài,
thấy cuốn hút trước những sản phẩm như
vậy. Một món bánh quen thuộc, đơn giản của
cộng đồng địa phương nhưng lại được khách
du lịch mua nhiều làm quà cho bạn bè, người
thân như bánh củ mài ở chùa Hương cũng tạo
ra cơ hội việc làm cho không ít người sản xuất
sản phẩm này, Dịch vụ ẩm thực cũng có cơ
hội thu lợi nhuận lớn, giá cả của chúng thường
cao hơn nhiều so với mặt bằng chung Và
cũng bởi cộng đồng địa phương thường quan
niệm khách du lịch là những người nhiều tiền
và sẵn sàng chi cho những dịch vụ cần thiết
nên những cảnh “chặt chém” thường xảy ra.
Nói chung, điểm du lịch đã mang đến cho
cộng đồng địa phương những cơ hội việc làm
tại chỗ, tạo điều kiện cho họ sinh sống và tiến
hành các chiến lược sinh kế thường nhật, tận
dụng cơ hội từ điểm du lịch để có chiến lược
sinh kế mới, góp phần tăng thu nhập kinh tế.
Điểm du lịch xuất hiện cũng là một cơ
hội kinh doanh đem lại lợi nhuận lớn cho các
doanh nghiệp du lịch. Sau những sáng kiến
của địa phương nhằm đáp ứng nhu cầu của du
khách và quảng bá du lịch, các doanh nghiệp
du lịch tiến hành đầu tư xây dựng cơ sở hạ
tầng, cung cấp dịch vụ. Cùng với việc đầu tư
kinh doanh du lịch, chính quyền và các doanh
nghiệp du lịch phải giải quyết hài hòa sao cho
cộng đồng địa phương cũng được chia sẻ
quyền lợi. Các lý thuyết về du lịch bền vững
hay du lịch cộng đồng đều nhắc tới vấn đề
này. Đặc biệt, khái niệm du lịch cộng đồng còn
khẳng định: du lịch cộng đồng là du lịch mang
lại lợi ích cho cộng đồng. Nói chung, một yếu
tố quan trọng trong du lịch là có thể cải thiện
chất lượng cuộc sống của cộng đồng bản địa,
cải thiện tính công bằng xã hội trong phát
triển (1, tr.63). Do vậy, chính quyền thường
tạo điều kiện để người dân đăng ký các điểm
kinh doanh và các doanh nghiệp du lịch ngoài
việc tập trung cho chiến lược kinh doanh của
mình thường có chính sách thu hút lao động
địa phương. Đây cũng là một yếu tố góp phần
giải quyết nạn thất nghiệp và tạo ra nguồn
thu nhập mới. Chính những điều này “sẽ làm
giảm tình trạng di cư về các khu đô thị, làm
ảnh hưởng đến các cân đối vĩ mô và chương
trình dịch chuyển cơ cấu của một số quốc gia”
(7, tr.50). Ngoài ra, địa phương nơi có điểm du
lịch sẽ được nhận những lợi ích nhất định về
cơ sở hạ tầng, đặc biệt là hệ thống giao thông.
Để phục vụ du lịch, các tuyến đường sẽ được
mở rộng và hiện đại hóa giúp cho việc đi lại
của người dân dễ dàng, thuận hiện hơn, tạo
điều kiện thúc đẩy giao lưu kinh tế và văn hóa.
Do vậy, có thể thấy rằng, điểm du lịch không
những tạo ra sinh kế mới, đem lại hiệu quả về
mặt kinh tế cho cộng đồng mà còn góp phần
giải quyết một số vấn đề văn hóa - xã hội.
Một số tổ chức như DFID, WTO (World
Tourism Organization - Tổ chức Du lịch thế
giới) hay SNV (Netherlands Development
Organisation - Tổ chức Phát triển Hà Lan) đã
có những chương trình về tác động của du
lịch đối với cộng đồng, đặc biệt họ nhắm tới
du lịch vì cộng đồng nghèo. Trong đó, SNV đã
phân tích những tác động tích cực của du lịch
đến cộng đồng, một trong số đó có liên quan
đến vấn đề sinh kế, có thể khái quát một vài
vấn đề như sau:
Trước hết, trong du lịch - một ngành công
nghiệp mang khách hàng đến với sản phẩm,
các sản phẩm du lịch được sản xuất và tiêu
thụ gần như đồng thời. Do vậy, cộng đồng địa
phương với các sản phẩm của mình không cần
phải qua khâu trung gian mà trực tiếp đến tay
du khách, do vậy sẽ đem lại nguồn thu nhập
cao hơn, đặc biệt có lợi cho người nghèo.
Thứ hai, có thể thấy rằng các tài nguyên du
lịch có tính cạnh tranh cao thường chủ yếu tập
trung ở các vùng xa trung tâm công nghiệp,
đô thị bởi những nơi này còn giữ được những
điều kiện thuần nhất về tự nhiên cũng như
lối sống, phong tục, tập quán Do đó sẽ có
sức thu hút du khách và có lợi thế trong kinh
doanh du lịch. Bởi vậy, cộng đồng địa phương
ở những nơi này có nhiều cơ hội dựa vào các
điểm du lịch để cải thiện cuộc sống của mình
bằng việc thực hiện các chiến lược sinh kế dựa
vào điểm du lịch và làm nhân công cho các
doanh nghiệp du lịch bằng các loại công việc
Số 26 - Tháng 12 - 201884
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
thường xuyên hoặc bán thời gian. Đặc biệt,
điểm du lịch sẽ tạo ra cơ hội việc làm lớn cho
phụ nữ và những người trẻ, do đó góp phần
phá vỡ vòng luẩn quẩn đói nghèo.
Thứ ba, điểm du lịch tạo lợi ích phi vật chất
cho cộng đồng trong việc nâng cao nhận thức
về các giá trị văn hóa, giá trị tự nhiên của điểm
du lịch mà không gian sinh hoạt, không gian
sống của cộng đồng đan xen hoặc liền kề bởi
cộng đồng sẽ hiểu được lợi ích của các giá trị
đó trong việc tạo nguồn thu nhập và nâng cao
mức sống của mình.
Cuối cùng, cộng đồng sẽ được hưởng
những lợi ích khác từ việc cơ sở hạ tầng được
cải thiện về giao thông, thông tin liên lạc, cung
cấp nước, điều kiện vệ sinh, an sinh xã hội, an
ninh công cộng, các dịch vụ y tế.
Thông qua những phân tích trên có thể
thấy rằng, điểm du lịch xuất hiện sẽ đem lại lợi
ích cho chính địa phương có điểm bằng việc
thu hút được các nguồn vốn đầu tư từ chính
quyền và doanh nghiệp du lịch để từ đó tăng
được nguồn vốn vật chất, bao gồm hệ thống
điện, đường, trường, trạm. Mặt khác, việc tạo
ra những công việc mới sẽ đem đến những
nguồn lợi trực tiếp cho những nhóm thực hiện
chiến lược sinh kế “bám” vào điểm du lịch trong
nỗ lực nâng cao nguồn vốn tài chính của mình.
2.3. Một số xu hướng tiêu cực từ vấn đề
sinh kế dựa vào điểm du lịch
Khẳng định những tác động tích cực của
điểm du lịch đến cộng đồng địa phương nhưng
điều đó cũng không thể phủ định những mặt
tiêu cực mang lại. Có thể coi điểm du lịch là
“liều thuốc” chữa căn bệnh đói nghèo của
cộng đồng địa phương và làm cho “cơ thể kinh
tế” của cộng đồng mạnh lên. Tuy vậy, giống
như thuốc, ngoài tác dụng chữa bệnh cũng có
thể có tác dụng phụ. Điểm du lịch cũng mang
lại những vấn đề mà về một khía cạnh nào đó,
không ai muốn nó xảy đến.
Trước tiên, về kinh tế: Cạnh tranh trong
kinh doanh du lịch sẽ có thể biến những người
dân địa phương trước đây sống cố kết bằng
truyền thống cộng đồng nay trở thành những
đối thủ kinh doanh, do đó có thể đưa đến
những mâu thuẫn, giảm tính cố kết trong cộng
đồng. Thêm một hiện tượng khác, đó là việc
cạnh tranh giữa doanh nghiệp du lịch với cộng
đồng địa phương có thể gây ra những mâu
thuẫn nhất định. Lợi nhuận thu được từ du lịch
có thể tập trung phần lớn vào tay các doanh
nghiệp du lịch từ bên ngoài. Cộng đồng địa
phương có thể mất lợi thế kinh tế, xã hội và
chính trị khi bị gạt ra ngoài di sản của chính
họ. Các doanh nghiệp du lịch đẩy cộng đồng
ra khỏi di sản được cho là của chính họ và biến
họ trở thành những người làm thuê cho doanh
nghiệp, thậm chí với mức lương rẻ mạt, tạm
bợ theo mùa. Ngoài ra, “các dòng chuyển cư
và di cư trong các khu vực phát triển du lịch
cũng làm nảy sinh những va chạm và xung
đột văn hóa giữa nhóm người bản địa và du
khách, giữa họ với các nhóm di cư đến làm ăn
tại khu du lịch” (4, tr.7). Thêm vào đó, sự khai
thác quá mức tài nguyên du lịch, đặc biệt các
tài nguyên tự nhiên để phục vụ phát triển kinh
tế du lịch cũng là nguyên nhân gây ra suy thoái
môi trường, suy thoái văn hóa.
Về văn hóa, xã hội: Khi việc tập trung quá
đông khách du lịch đến điểm du lịch sẽ gây
ra những ảnh hưởng đến cuộc sống của cộng
đồng địa phương, cho dù đây là một cơ hội
tốt để kiếm tiền. Người dân địa phương còn
có thể bị tác động bởi những kiểu văn hóa
ngoại lai mà du khách đem đến, gây ra sự
vọng ngoại, đặc biệt là giới trẻ, những người
dễ bị cuốn hút bới phong cách của du khách.
Khi kinh tế phát triển, có điều kiện hơn, giới
trẻ thường thay đổi cách sống như vốn có của
cộng đồng mình. Việc đua đòi, tham gia các tệ
nạn xã hội có thể sẽ diễn ra. Do đó, lối sống
và văn hóa của cộng đồng địa phương có thể
bị biến dạng. Như đã phân tích, sự cạnh tranh,
giành khách hàng có thể sẽ biến những người
dân địa phương sống quần tụ với nhau trong
không gian của cộng đồng từ lâu trở thành
những đối thủ của nhau. Bởi vậy, truyền thống
duy tình, trọng tình, cố kết cộng đồng sẽ giảm
đi. Một số vấn đề khác cũng sẽ được bàn đến
như việc tham gia vào hoạt động kinh doanh
du lịch sẽ khiến học sinh là con em của cộng
đồng địa phương sao nhãng học hành, gây
ảnh hưởng trực tiếp lên kết quả học tập. Hay
nói cách khác, vốn con người không được quan
85Số 26 - Tháng 12 - 2018
VĂN HÓA DU LỊCH
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
tâm đúng mức vì những lợi ích kinh tế trước
mắt. Ngoài ra, điểm du lịch còn kéo theo một
số hiện tượng xã hội như nạn tội phạm (nhất
là nạn lừa đảo, móc túi du khách), ma túy, mại
dâm, đặc biệt ảnh hưởng xấu đến hình ảnh
du lịch.
Những phân tích trên cho thấy tác động
của du lịch nói chung và các điểm du lịch nói
riêng tới cộng đồng. Rõ ràng, khi nhìn nhận
một vấn đề cần phải thấy được tính hai mặt
của nó. Sự xuất hiện và phát triển điểm du lịch
cũng như vậy. Đối với cộng đồng địa phương,
điểm du lịch tạo ra những tác động có hướng
tích cực trong việc thay đổi hiện trạng kinh tế,
văn hóa, xã hội. Bên cạnh đó, những tác động
tiêu cực cũng gây ra những ảnh hưởng lớn tới
cộng đồng.
3. Kết luận
Sinh kế là điều kiện để con người có thể
thỏa mãn các nhu cầu cơ bản của mình. Sinh
kế càng quan trọng hơn đối với các cộng đồng
nghèo, dễ bị tổn thương và với các mục tiêu
thiên niên kỷ, việc xóa nghèo, giảm nghèo
là một mục tiêu đặc biệt quan trọng. Do đó,
nghiên cứu sinh kế được chú ý quan tâm để
giúp cộng đồng nghèo có được chiến lược
sinh kế tốt nhất dựa trên việc sử dụng nguồn
vốn sinh kế, cùng với đó là những chính sách
hiệu quả để đạt được kết quả sinh kế có lợi
nhất cho cộng đồng, để cộng đồng có thể thực
hiện được sinh kế bền vững, có khả năng phục
hồi trước những tổn thương trong cuộc sống.
Điểm du lịch xuất hiện có vai trò như một
“đầu tàu” kéo nền kinh tế của địa phương đi
lên. Trong bối cảnh đó, cộng đồng địa phương
có cơ hội để thực hiện chiến lược sinh kế mới.
Đó là các loại hình sinh kế dựa vào điểm du
lịch, đặc biệt là kinh doanh dịch vụ du lịch.
“Cơ thể kinh tế” địa phương mạnh lên cũng
như cộng đồng địa phương thu được những
lợi nhuận mà điểm du lịch mang lại. Tác động
rõ rệt nhất tới cộng đồng của điểm du lịch thể
hiện qua những đổi thay diện mạo vật chất và
mức sống cư dân. Bên cạnh đó, điểm du lịch
cũng đặt ra nhiều vấn đề, đặc biệt là những tác
động tiêu cực đến văn hóa, xã hội.
Chính vì lý do đó, nghiên cứu sinh kế dựa
vào điểm du lịch một mặt sẽ thấy được cộng
đồng đã thực hiện sinh kế như thế nào, với
mức độ ra sao và thu lại được những gì. Bên
cạnh đó, nghiên cứu này cũng chỉ ra cộng
đồng thực hiện sinh kế mất gì, mà chủ yếu là
về mặt văn hóa, xã hội. Ngoài ra, việc chỉ ra
tác động ngược trở lại của các chiến lược sinh
kế đến điểm du lịch, đặc biệt là hình ảnh du
lịch, cũng là một việc quan trọng để tìm ra các
giải pháp vừa đảm bảo lợi ích cho cộng đồng
trong mối quan hệ với tài nguyên du lịch, với
chính quyền địa phương, với doanh nghiệp và
du khách, vừa đảm bảo tốt nhất cho hình ảnh
điểm du lịch.
Đ.V.T
(ThS., Trường Đại học Văn hóa Hà Nội)
Tài liệu tham khảo
1. Nguyễn Đình Hòe (2001), Du lịch bền vững,
Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
2. Kooes Nefies (2003), Môi trường và sinh kế -
Các chiến lược phát triển bền vững, Nxb. Chính trị
Quốc gia, Hà Nội.
3. Lương Hồng Quang (2018), Phát triển văn
hóa dựa vào cộng đồng - Các tranh luận lý thuyết
và thực tiễn, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà
Nội.
4. Võ Quế (2006), Du lịch cộng đồng - Lý thuyết
và vận dụng, Nxb. Khoa học và kỹ thuật, Hà Nội.
5. Nguyễn Văn Sửu (2010), Khung sinh kế bền
vững: Một cách phân tích toàn diện về phát triển
và giảm nghèo, Tạp chí Dân tộc học, số 2, tr.3-12.
6. Trần Đức Thanh (1999), Nhập môn khoa học
du lịch, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
7. Phạm Ngọc Thắng (2009), Điều kiện để phát
triển du lịch gắn với xóa đói giảm nghèo, Tạp chí
Du lịch Việt Nam, số 10, tr.50-52.
Ngày nhận bài: 17 - 10 - 2017
Ngày phản biện, đánh giá: 5 - 12- 2018
Ngày chấp nhận đăng: 25 - 12 - 2018
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- sinh_ke_cua_cong_dong_dia_phuong_dua_vao_diem_du_lich_nhung.pdf