Chúng tôi có 2 trường hợp biến chứng tràn máu
màng phổi, trong đó nhóm A là 1 BN và nhóm B là 1
BN, không có sự khác biệt ý nghĩa. Tràn máu màng phổi
dễ dàng được phát hiện sớm trên chụp CT liều thấp.
Sau khi để BN nằm bất động ổn định về phía chọc kim
khoảng 15-30 phút, chụp lại CT thấy số lượng dịch màng
phổi không tăng lên. Cả hai trường hợp đều tự hồi phục,
không phải thực hiện các can thiệp khác để cầm máu.
Biến chứng ho ra máu đôi khi gặp. Tuy không có
số lượng thống kê cụ thể nhưng chúng tôi thấy trên
thực tế thường BN chỉ ho ra máu trong khi làm thủ thuật
và ổn định ngay, không có trường hợp nào ho kéo dài.
Các trường hợp có nguy cơ ho ra máu thường là các
tổn thương hang hóa, hoặc các khối u nằm cạnh các
nhánh phế quản.
Tuy nhiên, trong nghiên cứu này chúng tôi chỉ thực
hiện sinh thiết cho các tổn thương có kích thước >1cm,
mặt khác, các tổn thương đều là khối đặc. Như vậy,
chúng tôi chưa đánh giá được vai trò của chụp CT liều
thấp đối với sinh thiết các tổn thương có kích thước nhỏ
(<1cm) hay các tổn thương dạng đám mờ, nên cần cân
nhắc khi sử dụng cho các bn này, nếu cần có thể chuyển
chụp CT bình thường để cho hình ảnh rõ nét hơn.
6 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 42 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Sinh thiết ngực dưới hướng dẫn của cắt lớp vi tính liều thấp, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 21 - 08/201538
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
SCIENTIFIC RESEARCH
SUMMARY
SINH THIẾT NGỰC DƯỚI HƯỚNG DẪN
CỦA CẮT LỚP VI TÍNH LIỀU THẤP
The application of low dose CT guided thoracic
biopsy
Nguyễn Đình Minh*, Vũ Hoài Linh*
Purpose: Study the application of low dose CT guided thoracic
biopsy.
Materials and Methods: 192 patients with CT guided thoracic
biopsy including 100 patients with rutine protocol (group A) and 92
patients with low dose protocol (group B) from 4/2014 to 4/2015.
Results: the average total dose length product is 274.3+/-
172.26 mGy in group A and 93.8+/-32.87 mGy in group B (p<0.001).
Effective dose is 3.8+/-2.41 mSv in group A and 1.3 +/-0.46 mSv
in group B (p <0.01). Pneumothorax are 17 (17%) in group A and
11 (11.96%) in group B. Three cases in group A and two cases in
group B have instantly pneumothorax drainage. Hemothorax is 1
(1%) in group A and 1 (1.1%) in group B. All the complication are
stable without intervention.
Conclusion: low dose CT guided thoracic biosy reduces
remarkable radiation dose, neither increases the complication nor
degrades image quality or diagnostic accuracy.
Key words: CT guided thoracic, low dose CT guided thoracic
biosy.
*Khoa Chẩn đoán hình ảnh,
BV Hữu Nghị Việt Đức
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 21 - 08/2015 39
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
I. ĐĂT VẤN ĐỀ
Sinh thiết ngực dưới hướng dẫn của cắt lớp vi
tính (CT) là phương pháp lấy mẫu để chẩn đoán tế
bào học nhằm xác định phương hướng điều trị thích
hợp cho bệnh nhân (BN). Trong sinh thiết cần hạn chế
biến chứng, rút ngắn thời gian, giảm liều bức xạ. Kỹ
thuật chụp CT liều thấp (low dose CT) đã được áp dụng
nhằm giảm liều bức xạ trong chẩn đoán cũng như trong
sinh thiết ngực. Tuy nhiên, kỹ thuật này vẫn chưa được
ứng dụng rộng rãi trong thực hành lâm sàng. Do vậy,
nghiên cứu này có mục đích là đánh giá chất lượng
hình ảnh và liều bức xạ ở BN sử dụng CT liều thấp
trong sinh thiết ngực.
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1. Đối tượng
Đối tượng nghiên cứu là các BN được chẩn đoán
u phổi hoặc u trung thất trên chụp X quang hay chụp
CT ngực, gửi đến Khoa Chẩn đoán hình ảnh – Bệnh
viện Hữu Nghị Việt Đức để làm sinh thiết. Các BN được
tiến hành sinh thiết xuyên thành ngực dưới hướng dẫn
của CT theo chương trình chụp (protocol) thông thường
hoặc liều thấp.
2. Phương pháp nghiên cứu
A. Phương tiện:
- Máy chụp CT hai dãy đầu thu Emotion Duo (Siemens).
- Dụng cụ: Kim dẫn đường Coaxial 15-17G, Kim
sinh thiết Core 16-18G (semi-automatic).
- Bộ vô khuẩn: toan lỗ, săng, khay hạt đậu, kìm
koser, bông, betadin, bơm kim tiêm.
B. Kỹ thuật:
- Bệnh nhân được làm sinh thiết ngực dưới hướng
dẫn của CT với độ dày lát cắt 3-5mm, kim chọc 16-18G
tùy theo tổn thương, lấy khoảng 2-4 mẫu bệnh phẩm,
thủ thuật kéo dài 20-40 phút.
- Bệnh nhân được theo dõi chặt chẽ 06 giờ sau thủ
thuật. Nếu BN khó thở hoặc nghi ngờ có biến chứng
tràn khí hoặc tràn máu màng phổi thì chụp Xquang
ngực để kiểm tra.
C. Phương pháp:
Các BN nghiên cứu tiến cứu được thu thập số liệu
và phân chia thành hai nhóm. Nhóm A được sinh thiết
theo protocol chụp ngực bình thường: 130kv; 60mAs; độ
dày lát cắt 5mm; pitch 18mm/vòng; n = 100 BN và nhóm
B theo protocol liều thấp: 130kv; 18mAs; dày 5mm; pitch
18mm/vòng; n = 92 BN. Các yếu tố về liều bức xạ, chất
lượng hình ảnh, biến chứng được so sánh. Số liệu được
xử lý theo thuật toán Chi-square và Student. Giá trị P<
0,05 được xem là có ý nghĩa thống kê.
III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Trong thời gian từ tháng 04/2013 đến tháng
04/2015, có 192 BN có chẩn đoán là u phổi hoặc u
trung thất được chỉ định làm sinh thiết dưới CT. Tiến
hành sinh thiết u theo protocol A hoặc B. Số mẫu bệnh
phẩm được lấy trung bình là 3.
Trong 192 BN, có 100 BN nhóm A (protocol liều
bình thường) và 92 BN nhóm B ( protocol liều thấp),
trong đó có 132 nam và 60 nữ, tỷ lệ nam : nữ là 2,2 : 1.
Độ tuổi trung bình của các BN là 50 +/- 16,35 tuổi, thấp
nhất là 11 tuổi, cao nhất là 81 tuổi.
Thông số được đánh giá là liều bức xạ theo chiều
dài tổng thể DLP (Dose Length Product) được tính theo
công thức:
DLP = CTDIvol * chiều dài đoạn cắt
Đơn vị tính: DLP là mGy; CTDI là mGy/cm; chiều
dài tính bằng cm [3].
Bảng so sánh bức xạ trung bình theo từng Protocol chụp
Liều bức xạ TB DLP Nhóm A DLP Nhóm B p
Định vị trước sinh thiết 49,5+/-23,9 17,1+/-7,02 <0.001
Xác định vị trí chọc kim 4,4+/-3,46 2,9+/-2,51 =0,001
Định vị trong sinh thiết 163,4 +/- 140,38 73,6 +/- 31,78 <0,001
Tổng liều bức xạ 274,3+/-172,26 93,8+/-32,87 <0,001
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 21 - 08/201540
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Số lần cắt trung bình cho mỗi BN của nhóm A là:
10,1+/-3,52 lần; của nhóm B là: 10,3 +/- 3,63 lần (p
= 0,635). Tổng liều bức xạ trung bình của nhóm A là
274,3+/-172,26 mGy và của nhóm B là 93,8+/-32,87
mGy (p<0,001).
Liều hiệu dụng của CT (CT effective dose) được
tính theo công thức:
CT effective dose = DLP * k
Trong đó: đơn vị DLP là mGy; k = 0,014mSv/mGy
[3].
Kết quả thu được liều hiệu dụng CT của nhóm A
là 3,8+/-2,41 mSv, của nhóm B là 1,3 +/-0,46 mSv (p
<0.01).
Chất lượng hình ảnh của hai Protocol chụp là khác
nhau không đáng kể, phục vụ tốt cho quá trình sinh
thiết. Không có trường hợp nào phải thay đổi protocol
trong suốt quá trình thủ thuật. Bệnh phẩm lấy ra được
bác sĩ giải phẫu bệnh đánh giá là đủ điều kiện để chẩn
đoán.
Các biến chứng chúng tôi gặp: tràn khí màng phổi
ở nhóm A là 17/100 BN (17%), ở nhóm B là 11/92 BN
(11,96%). Có 3 BN (3%) tràn khí ở nhóm A phải tiến
hành hút khí ngay trước khi kết thúc thủ thuật, ở nhóm
B là 2 BN (2,2%). Tràn máu màng phổi nhóm A là 1/100
BN (1%), nhóm B là 1/92 BN (1,1%). Các BN biến
chứng sẽ tự ổn định sau khi BN nằm bất động và theo
dõi chặt chẽ tại bệnh phòng. Không có trường hợp nào
phải can thiệp ngoại khoa.
IV. BÀN LUẬN
Sinh thiết là phương pháp lấy mẫu bệnh phẩm
để chẩn đoán tế bào học các khối u lồng ngực. Mẫu
bệnh phẩm có thể được lấy bằng các kỹ thuật khác
nhau như chọc hút tế bào hay cắt bằng kim sinh thiết.
Các kỹ thuật này có thể thực hiện dưới hướng dẫn của
các phương tiện chẩn đoán hình ảnh như siêu âm, CT,
DSA, MRI... Sinh thiết ngực dưới hướng dẫn của CT
là phương pháp thông dụng, thực hiện được với hầu
hết các tổn thương mà không bị hạn chế như ở các
phương pháp khác. Tuy nhiên, đây là phương pháp gây
phơi nhiễm tia X nên khi thực hiện cần phải quan tâm
đến việc giảm liều bức xạ cho các bệnh nhân.
Chụp CLVT ngực liều thấp từ lâu đã được ứng
dụng để sàng lọc ung thư đối với các cá nhân có nguy
cơ mắc ung thư phổi. Chụp CT ngực liều thấp cho kết
quả chính xác, tin cậy và đầy đủ hơn chụp X quang
ngực trong phát hiện các thể ung thư phổi giai đoạn
sớm. Mặt khác liều bức xạ của chụp CT liều thấp là có
thể chấp nhận được trong giới hạn tương đương với
bức xạ trong tự nhiên [3].
Khác với chụp CT ngực chẩn đoán thông thường,
chụp CT trong sinh thiết ngực cần phải chụp nhiều lần
tập trung vào khu vực có tổn thương để định vị đường
đi của kim do vậy liều bức xạ tại chỗ sẽ lớn hơn rất
nhiều. Hơn nữa, nếu trong trường hợp bệnh phẩm lấy
ra không đủ điều kiện chẩn đoán thì sinh thiết lần 2 sẽ
được đặt ra. Vì vậy, cần phải có cách thức (protocol)
chụp phù hợp nhằm hạn chế tối đa mức độ nhiễm xạ
cho cả bn và thầy thuốc trên nguyên tắc ALARA (As low
as reasonably achievable).
(a) (b)
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 21 - 08/2015 41
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Tất cả các máy chụp CT đều có một hệ thống gồm
một đầu phát tia X và các đầu thu. Khi đi qua cơ thể,
chùm tia tới sẽ bị suy giảm phụ thuộc vào thành phần
mô khu vực đó (suy giảm thấp ở mô mềm và cao hơn
ở xương). Tín hiệu tạo ra bởi sự suy yếu của chùm tia
khi đến đầu thu sẽ được sử dụng để tái tạo hình ảnh.
Năng lượng chùm tia X (xác định bằng điện thế của
bóng) và dòng photon (xác định bởi dòng điện và thời
gian) là yếu tố chính ảnh hưởng đến tiếp xúc bức xạ
của bệnh nhân [4].
Trong chụp X quang, liều bức xạ giảm liên tục từ
khi vào đến khi ra khỏi cơ thể. Trong khi đó ở CT, liều
được phân phối đồng đều trên các hướng của mặt
phẳng quét. Năng lượng bức xạ phát ra từ CT không
chỉ nằm toàn bộ trong thể tích quét. Sự phân tán bức
xạ, sự phân kỳ của chùm bức xạ, hạn chế của việc khu
trú tia sẽ làm cho phơi nhiễm bức xạ vượt qua ra ngoài
giới hạn của thể tích quét. Trong trường hợp quét nhiều
lần cắt để tạo hình ảnh của một phần cơ thể như sinh
thiết thì cần phải xem xét đến hiệu ứng của bức xạ phát
ra bên ngoài giới hạn của một lát cắt.
Liều bức xạ được biểu thị bằng chỉ số liều CT, hay
CTDI (Computer Tomography Dose Index), là tích hợp
liều bức xạ phát ra cả trong và ngoài thể tích quét. CTDI
là một chỉ số cơ bản được dùng trong CT. Chỉ số liều bức
xạ trung bình trong trường quét, gồm cả sự thay đổi của
liều hấp thụ từ ngoại vi vào trung tâm của vật thể, gọi là
CTDI trọng lượng (CTDIw). CTDIw biểu thị liều bức xạ
trung bình cho một thể tích khi quét liên tục.
Trong trường hợp giữa các lát cắt có khoảng cách
hoặc chồng chéo, phải mô tả liều bức xạ theo thể tích
CTDI (CTDIvol). CTDIvol biểu thị liều bức xạ trung bình
trong một thể tích quét. CTDIvol tính bằng miligrays
(mGy), là liều bức xạ trung bình phát ra từ nguồn quét
hàng loạt. Theo đó, nếu đoạn quét dài hơn sẽ có tổng
liều bức xạ cao hơn đoạn quét ngắn.
Thuật ngữ độ dài liều bức xạ - DLP (Dose Length
Product) biểu thị liều bức xạ tích hợp = CTDIvol x độ dài
quét (centimet). Tham số này được biểu hiện trên các
hệ thống máy CT, đơn vị tính là: mGy*cm. DLP phản
ánh năng lượng bức xạ tích hợp có khả năng gây hiệu
ứng sinh học đến phần cơ thể được quét. Như vậy,
DLP sẽ tỷ lệ thuận với độ dài quét [2].
Theo Meng X.X và cs [5] khi nghiên cứu 90 BN sinh
thiết phổi, sự giảm dòng của bóng chụp CT từ 200 mA
xuống 10mA đã cho thấy liều bức xạ trung bình (DLP)
giảm tương ứng từ 211,74 ± 37,89 mGy*cm xuống còn
10,98 ± 1,56 mGy*cm.
Grasso RF và cs [1] nghiên cứu 52 BN sinh thiết
phổi được chia làm hai nhóm liều bình thường và liều
thấp. Kết quả cho thấy, tổng liều bức xạ (TDLP) giảm
xuống ở các BN chụp liều thấp là 54,2 ± 46,2 mGy*cm
so với các BN chụp bình thường là 206 ± 59 mGy*cm.
Trong nghiên cứu này, tổng liều bức xạ TDLP trung
bình cho các BN nhóm A là 274,3+/-172,26 mGy*cm so
với các BN nhóm B là 93,8+/-32,87 mGy*cm, sự khác
biệt ở đây là có ý nghĩa thống kê với p< 0,001. Như
vậy, khi tiến hành chụp theo protocol liều thấp để sinh
(c) (d)
Hình 1. Hình ảnh chụp CT ngực với protocol bình thường (a)(b) và protocol liều thấp (c)(d).
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 21 - 08/201542
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
thiết ngực cho các BN, chúng tôi đã giảm được 2/3 liều
bức xạ.
Liều hiệu dụng (Effective Dose) là một khái niệm
phản ánh các rủi ro ngẫu nhiên do tiếp xúc với bức
xạ ion hóa gây ra, được tính bằng đơn vị milli-Sieverts
(mSv). Liều hiệu dụng phản ánh bức xạ gây thiệt hại
trung bình lên một cơ thể nói chung, do đó không phải
là chỉ số rủi ro cụ thể cho bất kỳ một cá nhân nào. Tuy
nhiên, nó tạo điều kiện tiêu chuẩn hóa cho việc so sánh
các tác động sinh học giữa các thăm khám chẩn đoán
liên quan đến tia X [4].
Nghiên cứu của Grasso RF và cs [1] cho thấy liều
hiệu dụng ở các BN chụp liều thấp (0,92 ± 0,78 mSv)
giảm đáng kể so với các BN chụp bình thường (3,5 ±
1,0 mSv). Trong nghiên cứu của chúng tôi, liều hiệu
dụng được giảm xuống còn 1,3 ± 0,46 mSv khi chụp
CT liều thấp so với 3,8 ± 2,41 mSv khi chụp CT bình
thường. Như vậy, khi sử dụng chương trình chụp CT
liều thấp trong sinh thiết ngực, chúng tôi đã giảm liều
bức xạ xuống còn khoảng 1/3 so với liều thông thường.
Theo số liệu từ các nghiên cứu, liều bức xạ nền
từ các nguồn tự nhiên ở Mỹ trung bình là 3 mSv/năm,
thay đổi từ 1-10 mSv trên khắp nước Mỹ [4]. Như vậy
liều bức xạ mắc phải của BN khi làm sinh thiết ngực sẽ
không vượt quá liều bức xạ tự nhiên hàng năm. Tuy
nhiên, khi BN bị bệnh, sẽ có nhiều thăm khám hình ảnh
khác liên quan đến tia X, nên liều tích lũy sẽ tăng dần
lên. Do vậy, giảm liều bức xạ trong sinh thiết cũng là
một trong những biện pháp cần thiết để giảm liều tổng
thể ở các BN cần thăm khám X quang.
Chất lượng hình ảnh của CT trong sinh thiết không
phải là yếu tố quan tâm chính như trong chẩn đoán, chủ
yếu là xác định được chính xác vị trí đầu kim trong quá
trình sinh thiết. Điều này có thể dễ dàng đạt được với
các lát cắt CT liều thấp có độ dày 3-5mm. Tuy nhiên,
các tổn thương nhỏ cũng cần phải được nhìn thấy để
tiếp cận một cách hợp lý nhất, lấy được mẫu bệnh
phẩm và hạn chế tối đa các biến chứng. Các cấu trúc
lân cận như mạch máu, kén khí cũng cần phải thấy
được trên hình ảnh để tránh đường chọc kim.
Phần lớn các BN đến sinh thiết ngực trong nghiên
cứu này đã có kết quả chụp CT ngực từ trước đó.
Chúng tôi nghiên cứu kỹ hình ảnh tổn thương và liên
quan tổn thương trên phim chụp CT nhằm xác định
đường chọc kim thích hợp trước khi làm thủ thuật. Do
vậy, chất lượng hình ảnh của CT liều thấp là đủ để thực
hiện thủ thuật.
Chúng tôi nhận thấy, đối với một số BN béo, kích
thước chiều ngang của ngực lớn, khi chụp CT liều thấp
sẽ có hiện tượng nhiễu ngang làm giảm chất lượng
hình ảnh. Mặt khác, với các BN không thể nâng tay
về phía đầu thì sẽ bị nhiễu ảnh nếu dùng CT liều thấp.
Do đó, chúng tôi khuyên nên sử dụng chụp CT thông
thường để định hướng sinh thiết cho các BN này.
Đối với các tổn thương có tăng sinh mạch hoặc có
các mạch máu nằm sát tổn thương thì cần phải nghiên
cứu kỹ hình ảnh chụp CT ngực trước đó và nếu cần thì
phải thực hiện chụp CT thông thường để thấy rõ vị trí
mạch máu để tránh chọc vào gây biến chứng nguy hiểm.
Chúng tôi gặp 17% BN nhóm A và 11,96% BN nhóm
B có tràn khí màng phổi, sự khác biệt là không có ý nghĩa.
Biến chứng tràn khí màng phổi hay gặp khi kim sinh thiết
chọc xuyên qua nhu mô phổi lành. Tràn khí màng phổi
thường được phát hiện ngay trong quá trình làm thủ thuật.
Chụp CT liều thấp dễ dàng phát hiện tràn khí màng phổi
khi còn rất ít. Tràn khí màng phổi số lượng ít sẽ ổn định
và tự thóai triển sau vài ngày. Những trường hợp tràn khí
nhiều, có nguy cơ tăng lên hoặc ảnh hưởng đến chức
năng hô hấp thì được tiến hành hút trực tiếp qua kim dẫn
đường. Tiến hành nối kim dẫn đường với Xylanh 50ml
qua một khóa 3 chạc có dây nối. Tạo áp lực chân không
trong xy lanh và từ từ kéo kim dẫn đường ra ngoài. Khi
đầu kim đến khoang màng phổi thì khí sẽ được hút theo
kim ra ngoài. Thực hiện thủ thuật này đã giải quyết được
hầu hết các trường hợp có tràn khí màng phổi. Sau khi
chụp kiểm tra lại thấy lượng khí giảm đi nhiều. Có 5 bn
được thực hiện dẫn lưu khí tại chỗ trong đó nhóm A là 3
BN và nhóm B là 2 BN, không có trường hợp nào phải
phẫu thuật dẫn lưu màng phổi sau đó.
Chúng tôi có 2 trường hợp biến chứng tràn máu
màng phổi, trong đó nhóm A là 1 BN và nhóm B là 1
BN, không có sự khác biệt ý nghĩa. Tràn máu màng phổi
dễ dàng được phát hiện sớm trên chụp CT liều thấp.
Sau khi để BN nằm bất động ổn định về phía chọc kim
khoảng 15-30 phút, chụp lại CT thấy số lượng dịch màng
phổi không tăng lên. Cả hai trường hợp đều tự hồi phục,
không phải thực hiện các can thiệp khác để cầm máu.
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 21 - 08/2015 43
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Biến chứng ho ra máu đôi khi gặp. Tuy không có
số lượng thống kê cụ thể nhưng chúng tôi thấy trên
thực tế thường BN chỉ ho ra máu trong khi làm thủ thuật
và ổn định ngay, không có trường hợp nào ho kéo dài.
Các trường hợp có nguy cơ ho ra máu thường là các
tổn thương hang hóa, hoặc các khối u nằm cạnh các
nhánh phế quản.
Tuy nhiên, trong nghiên cứu này chúng tôi chỉ thực
hiện sinh thiết cho các tổn thương có kích thước >1cm,
mặt khác, các tổn thương đều là khối đặc. Như vậy,
chúng tôi chưa đánh giá được vai trò của chụp CT liều
thấp đối với sinh thiết các tổn thương có kích thước nhỏ
(<1cm) hay các tổn thương dạng đám mờ, nên cần cân
nhắc khi sử dụng cho các bn này, nếu cần có thể chuyển
chụp CT bình thường để cho hình ảnh rõ nét hơn.
V. KẾT LUẬN
Kỹ thuật sinh thiết ngực dưới hướng dẫn của CT
liều thấp cho thấy các chỉ số liều bức xạ giảm đáng kể,
không làm gia tăng các biến chứng và không làm thay
đổi đáng kể chất lượng hình ảnh hay độ chính xác của
thủ thuật. Do vậy, kỹ thuật này nên được ứng dụng một
cách rộng rãi và phổ biến để giảm liều bức xạ cho các
bệnh nhân khi làm thủ thuật này.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Grasso RF, Cazzato RL, Luppi G, D’Agostino
F, Schena E, Del Vescovo R, Giurazza F, Faiella E,
Beomonte ZB. Percutaneous lung biopsies: performance
of an optical CT-based navigation system with a low-
dose protocol. Eur Radiol 2013; 23 (11): 3071-3076.
2. Kalra MK, Maher MM, Toth TL, Hamberg LM, Blake
MA, Shepard JA, Saini S. Strategies for CT Radiation
Dose Optimization. Radiology 2004; 230: 619-628.
3. Larke FJ, Kruger RL, Cagnon CH, Flynn MJ,
McNitt-Gray MM, Wu X, Judy PF, Cody DD. Estimated
Radiation Dose Associated with Low-Dose Chest CT of
Average-Size Participants in the National Lung Screening
Trial. AJR Am J Roentgenol 197, no. 5 (2011): 1165-9.
4. McCollough CH, Primak AN, Braun N, Kofler J,
Yu L, Christner J. Strategies for Reducing Radiation
Dose in CT. Radiol Clin North Am 2009;47: 27-40.
5. Meng XX, Kuai XP, Dong WH, JIa NY, Liu
SY, Xiao XS. Comparison of lung lesion biopsies
between low-dose CT-guided and conventional CT-
guided techniques. Acta Radiol 2013; 54 (8): 909-915.
TÓM TẮT
Mục tiêu: Nghiên cứu ứng dụng sinh thiết ngực dưới hướng dẫn của chụp liều thấp.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: gồm 192 BN được sinh thiết ngực dưới hướng dẫn của CT trong đó
100 BN được chụp CT với liều thông thường (nhóm A) và 92 BN được chụp CT liều thấp (nhóm B).
Kết quả: Tổng liều bức xạ trung bình của nhóm A là 274,3+/-172,26 mGy và của nhóm B là 93,8+/-32,87 mGy
(p<0,001). Liều hiệu dụng CT của nhóm A là 3,8+/-2,41 mSv và của nhóm B là 1,3 +/-0,46 mSv (p <0.01). Biến
chứng tràn khí màng phổi ở nhóm A là 17/100 (17%), ở nhóm B là 11/92 (11,96%). Có 3BN (3%) tràn khí ở nhóm
A và 2BN (2,2%) nhóm B phải tiến hành dẫn lưu khí tại chỗ. Tràn máu màng phổi nhóm A là 1/100 (1%) nhóm B là
1/92 (1,1%). Các BN bị biến chứng sẽ tự ổn định, không có trường hợp nào phải can thiệp ngoại khoa.
Kết luận: Sinh thiết ngực dưới hướng dẫn của CT liều thấp làm giảm đáng kể liều bức xạ, không làm gia tăng
các biến chứng, giảm chất lượng hình ảnh hay độ chính xác của thủ thuật.
Từ khóa: sinh thiết ngực, cắt lớp vi tính liều thấp.
Người liên hệ: Nguyễn Đình Minh, Email: minhdr24@gmail.com
Ngày nhận bài: 7. 6. 2015
Ngày chấp nhận đăng: 15. 6. 2015
Các file đính kèm theo tài liệu này:
sinh_thiet_nguc_duoi_huong_dan_cua_cat_lop_vi_tinh_lieu_thap.pdf