Sinh thiết xuyên thành ngực dưới hướng dẫn siêu âm trong chẩn đoán bản chất các khối u trong lồng ngực

BÀN LUẬN Hiện nay, có nhiều phương pháp tiếp cận để lấy sinh thiết các khối u trong lồng ngực: nội soi phế quản (bronchoscopy), nội soi trung thất (mediastinoscopy), soi khoang màng phổi chẩn đoán (thoracoscopy), sinh thiết xuyên thành dưới hướng dẫn XQ và CTScan (CTscan-Xray guided transthoracic biopsy ), nội soi siêu âm sinh thiết (endoscopic ultrasound biopsy) và sinh thiết xuyên thành ngực dưới hướng dẫn của siêu âm (ultrasound guided transthoracic biopsy). Tùy theo từng trường hợp mà có thể lựa chọn phương pháp phù hợp(9,7,2). Tại Việt Nam hiện nay, nội soi trung thất và sinh thiết xuyên thành dưới hướng dẫn XQCTScan chưa được thực hiện phổ biến. Việc chẩn đoán bản chất các khối u ở phổi chủ yếu dựa vào nội soi phế quản. Tuy nhiên trong nhiều trường hợp, nội soi phế quản không thể tiếp cận được tổn thương, nhất là khi khối u phổi nằm ở ngoại vi. Các thủ thuật thực hiện khi nội soi phế quản như hút dịch rửa phế quản, chải rửa, sinh thiết bấm, sinh thiết xuyên thành phế quản cũng chỉ cho chẩn đoán dương tính với tỷ lệ thấp, tỷ lệ âm tính giả cao. Bên cạnh đó, các khối u trung thất đa số cũng chỉ được chẩn đoán hướng tới dựa vào các dấu hiệu lâm sàng và hình ảnh học (4) . Do đó, việc tiếp cận các khối u phổi ngoại vi cũng như một số các khối u trung thất nằm gần thành ngực phải dựa vào sinh thiết xuyên thành ngực dưới hướng dẫn của XQ-CTScan hoặc dưới hướng dẫn của siêu âm. So với sinh thiết hướng dẫn bằng XQ-CTScan, thì sinh thiết dưới hướng dẫn siêu âm có ưu điểm hơn là không nhiễm tia xạ và giá thành thấp hơn, do đó có tính khả thi hơn trong hoàn cảnh Việt Nam hiện nay(2,4,1). Tổng kết các nghiên cứu nước ngoài về siêu âm sinh thiết xuyên thành ngực bằng kim nhỏ, chúng tôi nhận thấy đây là phương pháp khá an toàn, ít xâm lấn, tai biến và biến chứng ít và thường nhẹ, tự thu xếp, cho tỷ lệ thành công cao, chẩn đoán chính xác bản chất u. (bảng)

pdf5 trang | Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 27/01/2022 | Lượt xem: 127 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Sinh thiết xuyên thành ngực dưới hướng dẫn siêu âm trong chẩn đoán bản chất các khối u trong lồng ngực, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
SINH THIẾT XUYÊN THÀNH NGỰC DƯỚI HƯỚNG DẪN SIÊU ÂM TRONG CHẨN ĐOÁN BẢN CHẤT CÁC KHỐI U TRONG LỒNG NGỰC Nguyễn Quang Thái Dương*, Lê Phi Long** TÓM TẮT Mục tiêu: đánh giá phương pháp sinh thiết xuyên thành ngực dưới hướng dẫn của siêu âm trong chẩn đoán bản chất các khối u trong lồng ngực. Phương pháp nghiên cứu: từ 05/2005 tới 08/2007, 30 ca gồm 22 nam và 8 nữ với tuổi từ 31 tới 85, có chỉ định sinh thiết u xuyên thành ngực. Có 06 trường hợp u trung thất và 24 ca u phổi. Tất cả sinh thiết lấy lõi mô được tiến hành bằng súng sinh thiết dưới hướng dẫn của siêu âm. Kết quả: tất cả lấy được mẫu mô, kết quả giải phẫu bệnh bao gồm 22 carcinoma, 01 ca lymphoma, 01 ca u tế bào schwann và 08 ca mô viêm. Không có xảy ra tai biến và biến chứng trong lô nghiên cứu này. Kết luận: phương pháp sinh thiết xuyên thành ngực dưới hướng dẫn của siêu âm trong chẩn đoán bản chất các khối u trong lồng ngực là phương pháp hiệu quả và an toàn. Tuy nhiên việc đánh giá chỉ định và kỹ thuật sinh thiết đóng vai trò quan trọng để tránh những tai biến có nguy cơ gây tử vong. ABSTRACT THE ULTRASOUND GUIDED TRANSTHORACIC BIOPSY IN PATHOLOGICAL DIAGNOSIS OF THORACIC TUMORS Nguyen Quang Thai Duong, Le Phi Long * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 12 – Supplement of No 1 – 2008: 109 - 111 Objectives: to evaluate the ultrasound guided transthoracic biopsy in pathological diagnosis of thoracic tumors. Methods: from 05/2005 to 08/2007, thirty cases including 22 males and 08 females with the average age 56.2 were indicated for the ultrasound guided transthoracic biopsy. There are 06 mediastinal tumors and 24 lung tumors. All cores were got by biopsygun. Results: we collected tissue cores of all the cases. Of all, we had 22 carcinoma, 01 lymphoma, 01 schwann cell tumor and 06 cases with the imflamatory tissue. we found no complications in our study. Conclusions: ultrasound guided transthoracic biopsy is effective and safe procedure. However, the correct indication and proper technique may avoid the deathly complication. MỞ ĐẦU Xác định được bản chất các khối u trong thành ngực là việc rất quan trọng trong quá trình chẩn đoán. Nhờ có được các thông tin về giải phẫu vi thể của khối u mà hướng xử trí cho từng trường hợp trở nên rõ ràng hơn. Tuy nhiên, do vị trí của các khối u vùng ngực thường nằm sâu và gần các cơ quan quan trọng, nên việc tiếp cận để lấy mẫu sinh thiết không phải lúc nào cũng có thể thực hiện được một cách dễ dàng. Trong nhiều trường hợp, có khi phải bắt buộc mổ để xác định rõ bản chất của khối u. Mục tiêu nghiên cứu Đánh giá phương pháp sinh thiết xuyên thành ngực dưới hướng dẫn của siêu âm trong chẩn đoán bản chất các khối u trong lồng ngực * Bộ môn Chẩn đoán Hình ảnh - Đại học Y dược TP. HCM. ** Bộ môn Ngoại Bệnh viện Đại học Y dược TPHCM. Phương pháp nghiên cứu Tiền cứu và can thiệp lâm sàng. Từ 05/2005 tới 08/2007, 30 ca gồm 22 nam và 8 nữ với tuổi từ 31 tới 85, tuổi trung bình là 56.2. tất cả có chỉ định sinh thiết u xuyên thành ngực. Có 06 trường hợp u trung thất và 24 ca u phổi (bên phải 16, bên trái: 9). Kỹ thuật thực hiện Bệnh nhân đều có chỉ định của phẫu thuật viên và chuẩn bị đầy đủ các xét nghiệm về đông máu, X quang ngực thẳng và chụp cắt lớp điện toán. Tất cả đều thực hiện dưới hướng dẫn của siêu âm (máy BK) có hoặc không có sử dụng gá hướng dẫn. Đầu dò siêu âm có thể sử dụng đầu dò cong 3.5-5Mhz hoặc đầu dò phẳng 5-10Mhz, tuỳ theo vị trí khối u và cửa sổ siêu âm. Tất cả thực hiện bởi một bác sĩ chuyên khoa hình ảnh học can thiệp. Bệnh nhân được siêu âm đánh giá trước khi sinh thiết. Tư thế bệnh nhân: nằm ngửa, nằm nghiêng trái hoặc nằm nghiêng phải Tê tại chỗ bằng lidocain 2%. Rạch da bằng dao 11. Sinh thiết lấy lõi bằng súng (core gunbiopsy: máy của BARD, Hoa Kỳ). KẾT QUẢ Tất cả lấy được mẫu mô, kết quả giải phẫu bệnh bao gồm 22 carcinôm, 01 ca lymphôm, 01 ca u tế bào schwann và 06 ca mô viêm. Không có xảy ra tai biến và biến chứng trong lô nghiên cứu này. BÀN LUẬN Hiện nay, có nhiều phương pháp tiếp cận để lấy sinh thiết các khối u trong lồng ngực: nội soi phế quản (bronchoscopy), nội soi trung thất (mediastinoscopy), soi khoang màng phổi chẩn đoán (thoracoscopy), sinh thiết xuyên thành dưới hướng dẫn XQ và CTScan (CTscan-Xray guided transthoracic biopsy ), nội soi siêu âm sinh thiết (endoscopic ultrasound biopsy) và sinh thiết xuyên thành ngực dưới hướng dẫn của siêu âm (ultrasound guided transthoracic biopsy). Tùy theo từng trường hợp mà có thể lựa chọn phương pháp phù hợp(9,7,2). Tại Việt Nam hiện nay, nội soi trung thất và sinh thiết xuyên thành dưới hướng dẫn XQ- CTScan chưa được thực hiện phổ biến. Việc chẩn đoán bản chất các khối u ở phổi chủ yếu dựa vào nội soi phế quản. Tuy nhiên trong nhiều trường hợp, nội soi phế quản không thể tiếp cận được tổn thương, nhất là khi khối u phổi nằm ở ngoại vi. Các thủ thuật thực hiện khi nội soi phế quản như hút dịch rửa phế quản, chải rửa, sinh thiết bấm, sinh thiết xuyên thành phế quản cũng chỉ cho chẩn đoán dương tính với tỷ lệ thấp, tỷ lệ âm tính giả cao. Bên cạnh đó, các khối u trung thất đa số cũng chỉ được chẩn đoán hướng tới dựa vào các dấu hiệu lâm sàng và hình ảnh học (4). Do đó, việc tiếp cận các khối u phổi ngoại vi cũng như một số các khối u trung thất nằm gần thành ngực phải dựa vào sinh thiết xuyên thành ngực dưới hướng dẫn của XQ-CTScan hoặc dưới hướng dẫn của siêu âm. So với sinh thiết hướng dẫn bằng XQ-CTScan, thì sinh thiết dưới hướng dẫn siêu âm có ưu điểm hơn là không nhiễm tia xạ và giá thành thấp hơn, do đó có tính khả thi hơn trong hoàn cảnh Việt Nam hiện nay(2,4,1). Tổng kết các nghiên cứu nước ngoài về siêu âm sinh thiết xuyên thành ngực bằng kim nhỏ, chúng tôi nhận thấy đây là phương pháp khá an toàn, ít xâm lấn, tai biến và biến chứng ít và thường nhẹ, tự thu xếp, cho tỷ lệ thành công cao, chẩn đoán chính xác bản chất u. (bảng) Nghiên cứu Số BN (n) Độ nhạy Độ đặc hiệu Tỷ lệ thành công Biến chứng Kết luận Seyfarth HJ (Germany) – 2007(9) 46 - - 95,6% 5% Phương tiện chẩn đoán an toàn Sartori S (Italy) – 2007(7) 285 95,2% 90,2% _ 2,8% Nghiên cứu Số BN (n) Độ nhạy Độ đặc hiệu Tỷ lệ thành công Biến chứng Kết luận Fontalvo LF (Canada) – 2006(2) 33 - - 84% 0% An toàn và hiệu quả Schubert P (S. Africa) – 2005(4) 85 - - 80% - Là lựa chọn hàng đầu Al-Damegh (A. Saudi) – 2004(1) 172 95% 92,5% 96% 0% An toàn, có thể thực hiện nhiều lần Gorguner M (Turkey) – 2003(4) 48 90% 87,5% 100% 0% Phương tiện chẩn đoán an toàn Scisca C (Italy) – 2002(8) 268 87% 92,1% 93,3% 0,7% Là lựa chọn đầu tiên Liao WY (Taiwan) – 2000(2) 50 - - 98% 4% Hiệu quả, an toàn, tránh được PT không cần thiết Sagar P (India) – 2000(6) 23 - - 76,6% 0% Chen CC (Taiwan) -1996(7) 0 - - 85% 2,5% Hiệu quả, an toàn Chúng tôi 30 100% 80% 100% 0% Hiệu quả, an toàn Đối với các khối u phổi, nội soi phế quản cần được làm thường quy, vì ngoài mục đích lấy mẫu sinh thiết, nó còn có vai trò xác định sự xâm lấn, lan rộng của khối u, nhằm góp phần xác định giai đoạn TMN. Trong các trường hợp không lấy được mẫu sinh thiết qua nội soi phế quản, nếu vị trí khối u phổi nằm ở ngoại vi, gần với thành ngực, chúng tôi đề nghị siêu âm khảo sát. Nếu có cửa sổ, sinh thiết xuyên thành ngực bằng kim nhỏ sẽ được thực hiện. Nếu không có cửa sổ siêu âm, hoặc thủ thuật thất bại, sẽ cân nhắc thực hiện sinh thiết dưới hướng dẫn XQ hoặc CTScan. Đối với các khối u trung thất, nếu u nằm gần thành ngực, có khả năng sinh thiết xuyên thành, siêu âm cũng sẽ được thực hiện. Tóm lại, trong hoàn cảnh thực tiễn hiện nay, sinh thiết xuyên thành ngực dưới hưỡng dẫn siêu âm là phương tiện khả thi, hiệu quả và an toàn, góp phần quan trọng trong chẩn đoán các khối u trong lồng ngực. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Al-Damegh SA. Ultrasound guided fine needle aspiration using 25G needle as a new technique for a wide range of pathological conditions, Saudi Med J. 2004 Oct;25(10):1374- 7. 2. Chen CC, Hsu WH, Huang CM. Ultrasound-guided fine needle aspiration biopsy of small pulmonary nodules abutting to the chest wall, Zhonghua Yi Xue Za Zhi (Taipei). 1996 Feb;57(2):106-11. 3. Fontalvo LF, Amaral JG. Percutaneous US-guided biopsies of peripheral pulmonary lesions in children. Pediatr Radiol. 2006 Jun;36(6):491-7. Epub 2006 Mar 22. 4. Gorgumer M, Misirlioglu F. Color Doppler sonographically guided transthoracic needle aspiration of lung and mediastinal masses, J Ultrasound Med. 2003 Jul;22(7):703-8. 5. Liao WY, Chen MZ, Chang YL. US-guided transthoracic cutting biopsy for peripheral thoracic lesions less than 3 cm in diameter, Radiology. 2000 Dec;217(3):685-91. 6. Sagar P, Gulati M, Gupta SK. Ultrasound-guided transthoracic co-axial biopsy of thoracic mass lesions, Acta Radiol. 2000 Nov;41(6):529-32. 7. Saroti S, Tombesi P, Trevisani. Accuracy of transthoracic sonography in detection of pneumothorax after sonographically guided lung biopsy: prospective comparison with chest radiography, AJR Am J Roentgenol. 2007 Jan;188(1):37-41. 8. Scisca C, Rizzo M, Maisano R. The role of ultrasound- guided aspiration biopsy of peripheral pulmonary nodules: our experience, Anticancer Res. 2002 Jul- Aug;22(4):2521-3. 9. Seyfarth HJ, Wirtz H, Borte G. Ultrasound guided transthoracic biopsy - safety and efficaces, Pneumologie. 2007 Sep;61(9):563-7. Epub 2007 Jul 2 10. Schubert P, Wright CA. Ultrasound-assisted transthoracic biopsy: cells or sections? Diagn Cytopathol. 2005 Oct;33(4):233-7.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfsinh_thiet_xuyen_thanh_nguc_duoi_huong_dan_sieu_am_trong_cha.pdf