Kinh tế tư nhân đã có những đóng góp rất lớn
cho sự phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập
quốc tế của Việt Nam. Ở Việt Nam hiện có
khoảng 600 nghìn doanh nghiệp, trong đó có gần
500 nghìn doanh nghiệp thuộc sở hữu tư nhân.
Trong số này có tới hơn 96% là doanh nghiệp
nhỏ và vừa, 2% doanh nghiệp quy mô vừa và 2%
doanh nghiệp lớn. Doanh nghiệp thuộc sở hữu tư
nhân tạo ra khoảng 1,2 triệu việc làm, đóng góp
hơn 40% tổng sản phẩm quốc nội (GDP) mỗi
năm. Tuy nhiên thu nhập GDP theo đầu người
của Việt Nam năm 2018 chỉ đứng thứ 136/168
nước tham gia xếp hạng của thế giới. Phát triển
kinh tế tư nhân được cho là vẫn chưa tương xứng
với tiềm năng; lượng vốn, tiền vàng trong dân
không đưa vào hoạt động sản xuất kinh doanh
còn nằm rất lớn. Bởi lẽ những ông chủ tư nhân
vẫn chưa tin tưởng vào chủ trương chính sách
phát triển kinh tế tư nhân qua nhiều năm bị trưng
thu, trưng mua sung vào công quỹ nhà nước, một
cách tùy tiện, thậm chí người muốn phát triển theo
tinh thần của sở hữu tư nhân còn bị tù đầy [7].
Những năm gần đây, Đảng và Nhà nước Việt
Nam đã nhận thức rõ hơn vị trí, vai trò của kinh
tế tư nhân trong chính sách phát triển nền kinh tế
nhiều thành phần. Chiến lược kinh tế của Đảng
và Nhà nước Việt Nam đang hướng tới việc tạo
điều kiện thuận lợi cho kinh tế tư nhân phát triển
mạnh hơn. Chính phủ cam kết sẽ cải thiện môi
trường kinh doanh theo hướng bình đẳng, minh
bạch, an toàn và thân thiện, tạo mọi điều kiện để
doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp tư
nhân, doanh nghiệp nhỏ và vừa, doanh nghiệp
khởi nghiệp phát triển thuận lợi.
Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc
vừa ký ban hành Quyết định số 1362/QĐ-TTg
của Thủ tướng Chính phủ, phê duyệt kế hoạch
phát triển bền vững doanh nghiệp khu vực tư
nhân đến năm 2025, tầm nhìn 2030 với 6 nhóm
giải pháp trọng tâm: i) tiếp tục đẩy mạnh cải
thiện môi trường đầu tư kinh doanh nhằm đảm
bảo, duy trì niềm tin và tăng cường đầu tư kinh
doanh bền vững của doanh nghiệp khu vực tư
nhân; ii) khuyến khích doanh nghiệp áp dụng các
mô hình kinh doanh bền vững, công nghệ sản
xuất sạch hơn, sử dụng hiệu quả tài nguyên thiên
nhiên, bảo vệ môi trường; iii) thúc đẩy khởi
nghiệp sáng tạo và đẩy mạnh thực hiện hiệu quả
các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa;
iv) hỗ trợ nâng cao năng suất lao động trong
doanh nghiệp; phát triển nguồn nhân lực chất
lượng cao, nâng cao năng lực quản lý, quản trị
doanh nghiệp; v) khuyến khích doanh nghiệp
khu vực tư nhân ứng dụng khoa học công nghệ,
khai thác cơ hội của cách mạng công nghiệp 4.0;
vi. tăng cường vai trò của các tổ chức hiệp hội
doanh nghiệp trong hỗ trợ doanh nghiệp khu vực
tư nhân phát triển hiệu quả, bền vững.
Với những giải pháp trên góp phần chứng
minh Nhà nước Việt Nam đang tăng cường củng
cố thế chế sở hữu tư nhân và bảo vệ sở hữu tư
nhân trong nền kinh tế Việt Nam. Đây là định
hướng đúng đắn tạo đặc điểm khác biệt quan
trọng của nền kinh tế hiện nay so với nền kinh tế
bao cấp trước đây. Đó cũng là cơ sở cho sự phát
triển bền vững của Nhà nước Việt Nam.
9 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 21/01/2022 | Lượt xem: 199 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Sở hữu tư nhân và bảo vệ quyền sở hữu tư nhân - Nền tảng của môi trường phát triển bền vững, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
VNU Journal of VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 36, No. 2 (2020) 73-81
73
Original Article
Private Property and Protection of Private Property
- The Foundation of A Sustainable Development Environment
Nguyen Dang Duy
VNU School of Law, Vietnam National University, Hanoi,
144 Xuan Thuy, Cau Giay, Hanoi, Vietnam
Received 15 March 2020
Revised 21 April 2020; Accepted 24 June 2020
Abstract: Property ownership is an ancient concept and plays an important role in determining the
status of each individual in society and for the nation's development. During the past 70 years since
its inception, the Democratic Republic of Vietnam, which is the Socialist Republic of Vietnam
today, has only policy guidelines for this guarantee.
Keywords: property ownership, private economic, private ownership.
________
Corresponding author.
Email address: tduong_nguyen@ymail.com
https://doi.org/10.25073/2588-1167/vnuls.4277
N.D. Duy / VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 36, No. 2 (2020) 73-81
74
Sở hữu tư nhân và bảo vệ quyền sở hữu tư nhân
- nền tảng của môi trường phát triển bền vững
Nguyễn Đăng Duy
Khoa Luật - ĐHQGHN, 144 Xuân Thủy, Cầu Giấy, Hà Nội
Nhận ngày 15 tháng 03 năm 2020
Chỉnh sửa ngày 21 tháng 04 năm 2020; Chấp nhận đăng ngày 24 tháng 6 năm 2020
Tóm tắt: Quyền tư hữu tài sản là một khái niệm có từ thời xa xưa và đóng vai trò quan trọng, quyết
định đến địa vị của từng cá nhân trong xã hội và cho sự phát triển quốc gia. Suốt 70 năm đã qua kể
từ khi thành lập, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa mà ngày nay là Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
mới có những chủ trương chính sách cho sự bảo đảm này.
Từ khóa: quyền tư hữu tài sản, kinh tế tư nhân, sở hữu tư nhân.
1. Sở hữu và bảo vệ quyền sở hữu là nền tảng
cho sự phát triển của mọi quốc gia
Quan hệ giữa con người và con người xét cho
cùng chủ yếu là quan hệ liên quan đến tài sản.
Quyền về tài sản là một khái niệm có từ thời xa
xưa và đóng vai trò quan trọng, quyết định đến
địa vị của từng cá nhân trong xã hội. Đã có thời
kỳ, quyền sở hữu tài sản chỉ thuộc về một bộ
phận nhỏ trong dân cư. Quyền sở hữu đem lại
cho những người này thêm nhiều của cải vật
chất, tạo dựng cho họ địa vị xã hội; giúp họ nắm
giữ cả quyền lực về kinh tế lẫn chính trị. Quyền
sở hữu đã giúp bộ phận nhỏ này kiểm soát tất cả
đời sống xã hội.
Ngày nay, tài sản được phân chia rộng rãi
hơn, mỗi người đều có quyền sở hữu và đều có
thể được hưởng thành quả dựa trên lao động và
tài sản của mình. Có được điều này là bởi chúng
ta đều nhận thức được rằng con người ai cũng
phải có quyền được sở hữu và sử dụng tài sản
của mình. Quyền sở hữu và sử dụng tài sản đã
trở thành một bộ phận quan trọng trong những
quyền của người dân.
________
Tác giả liên hệ.
Địa chỉ email: tduong_nguyen@ymail.com
https://doi.org/10.25073/2588-1167/vnuls.4277
Trong Hội nghị Philadelphia, nơi soạn thảo
Hiến pháp thành văn đầu tiên của thế giới, mọi
người đều có quan điểm cho rằng “tài sản chắc
chắn là vật thể chủ yếu của xã hội”. Hiến pháp
tin rằng sự tôn trọng các quyền tài sản cá nhân là
cốt lõi của mọi khế ước xã hội [1].
Tuy vậy, quyền sở hữu có phải là một quyền
luôn luôn tuyệt đối hay không? Liệu người chủ
có quyền kiểm soát tuyệt đối đối với tài sản của
mình hoặc có quyền được sử dụng một cách
thoải mái theo bất cứ cách nào mà mình mong
muốn hay không? Các truyền thống thông luật
của Anh đã đưa ra câu trả lời khi luôn luôn có
những hạn chế đối với quyền sở hữu tài sản. Ví
dụ thông luật về cấm gây phiền nhiễu ngăn chặn
không cho những chủ sở hữu được sử dụng đất
đai theo cách can thiệp một cách vô lý vào các
quyền của những người láng giềng. Phong tục
thường cho phép săn bắn trên đất của tư nhân
không có bờ rào và yêu cầu người sở hữu đất cho
phép tiếp cận với sông và hồ. Đối với tài sản dưới
hình thức kinh doanh, thì đều có những qui định
riêng so với các tài sản thông thường. Thí dụ ở
Anh và các thuộc địa Bắc Mỹ, các quán rượu,
N.D. Duy / VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 36, No. 2 (2020) 73-81
75
bến phà và các tuyến xe đều được quản lý
nghiêm ngặt. Chính phủ của nhiều quốc gia có
thể và đã đánh thuế tài sản cá nhân. Trong khi
chúng ta phần lớn nhận rõ tầm quan trọng của
thuế khóa trong việc cung cấp các dịch vụ công
của chính phủ, thì cũng không thể không thừa
nhận rằng việc đánh thuế cũng lấy đi tài sản của
các cá nhân bị đánh thuế. Có lẽ hình thức can
thiệp mạnh mẽ nhất đối với các quyền về tài sản
riêng tư chính là việc trưng thu có đền bù. Dựa
vào trưng thu, chính quyền có thể buộc chủ sở
hữu tư nhân chuyển tài sản sang cho chính phủ
với mục đích sử dụng công cộng, như xây dựng
đường sá hoặc kênh đào,
Do có sự phân đôi giữa việc bảo vệ đầy đủ
các quyền sở hữu tài sản và hạn chế các quyền
đó vì mục đích công cộng, nên phạm vi can thiệp
của chính phủ đối với những quyền tài sản cá
nhân chưa từng bao giờ được xác định một cách
hoàn toàn rõ ràng và không gây tranh cãi. Qua
thời gian, ý nghĩa của bản thân sở hữu tài sản
cũng thay đổi. Như vẫn thường thấy trong lịch
sử Mỹ, tòa án được yêu cầu, đứng ra giải thích ý
nghĩa của các quan niệm khác nhau về quyền sở
hữu tài sản được thể hiện trong Hiến pháp. Có
những lúc ngành tư pháp là người bảo vệ quyền
sở hữu tư nhân và những quyết định của nó đã
được chào đón như một đảm bảo cần thiết đối
với tự do về kinh tế, khuyến khích cạnh tranh và
bảo vệ hệ thống doanh nghiệp của tư nhân. Tuy
nhiên cũng có những chỉ trích cho rằng những
quyết định đó là những trở ngại làm phá hoại hệ
thống phúc lợi công.
Sự thật là đôi khi cũng rất cần thiết có những
cuộc đấu tranh giữa ngành tư pháp bảo thủ muốn
bảo vệ đầy đủ cái mà các thẩm phán coi là các
quyền bất khả xâm phạm về tài sản và các nhà
cải cách - những người tin tưởng rằng cần phải
áp đặt những giới hạn cho quyền sở hữu dưới
hình thức hạn chế hoặc thậm chí buộc chuyển
nhượng. Tuy nhiên vấn đề tương tự như vậy đã
được giải quyết trong lịch sử nước Mỹ liên quan
đến vấn đề về tài sản kinh doanh và hợp đồng lao
động vào thời kỳ chuyển đổi công nghiệp của
nước Mỹ, từ những năm 1870 cho tới những năm
1930. Các vấn đề cơ bản đã được giải quyết theo
hướng: quyền về tài sản kinh doanh là quan
trọng, nhưng có thể bị hạn chế khi cần thiết phải
bảo vệ phúc lợi chung. Các quyền của người sở
hữu tài sản cá nhân thường phải nhường bước
trước nhu cầu của nhà nước nhằm bảo vệ những
kẻ yếu hoặc không có lợi thế.
Theo Locke thì tài sản tư hữu xuất phát từ
luật tự nhiên, nó tồn tại từ trước khi chính phủ
xuất hiện, quyền sở hữu tài sản vì thế không tùy
thuộc vào ý tưởng bất chợt của Nhà Vua hoặc
Nghị viện. Ngược lại, mục đích chủ yếu của
chính phủ là bảo vệ các quyền đối với tài sản, bởi
lẽ những quyền đó là cơ sở của mọi quyền tự do.
Không có quyền sở hữu đối với tài sản thì cũng
không thể nào có mọi sự tự do khác. Người dân
thiết lập nên chính phủ để bảo vệ “Cuộc sống, tự
do và tài sản của họ”. Vì quyền sở hữu và quyền
được hưởng tài sản xuất phát từ luật tự nhiên, nên
chính phủ tồn tại là để giữ gìn tài sản và những
sự tự do được sản sinh từ đó. Các luật gia Mỹ tin
tưởng rằng thông luật về việc bảo vệ tài sản đã
được xây dựng và tìm được sự ủng hộ với quan
điểm này qua những nhận xét về luật pháp nước
Anh vốn có một ảnh hưởng to lớn của nhà luật
học Wiliam Blackstone. Ông nhấn mạnh: Điều
tuyệt vời “là ở sự tôn trọng đối với luật về tài sản
tư hữu và rằng nó sẽ không cho phép có sự vi
phạm, dầu là tối thiểu đối với tài sản đó”. John
Adams Tổng thống thứ hai của Hoa Kỳ phản ánh
một cách hoàn chỉnh truyền thống này với lời
tuyên bố của ông vào năm 1790 rằng “Tài sản
phải được bảo đảm, nếu không thì tự do không
thể tồn tại.” Giống các điều khoản khác của Hiến
pháp, nhiều điều khoản liên quan đến tài sản
được đưa ra không phải trên một tấm bảng trống
rỗng, mà nó phản ánh di sản trí tuệ của phong
trào Ánh sáng cùng những kinh nghiệm cụ thể
của các thuộc địa. Trong số những nhà lập quốc
của Mỹ, nhiều người từng ký tên vào Tuyên ngôn
năm 1776, thì 11 năm sau cũng ký tên vào Hiến
pháp. Hai văn kiện đó bổ sung cho nhau. Một
văn kiện tuyên bố đất nước đã nổi dậy, bởi vì vua
George III đã chà đạp lên quyền của họ. Còn văn
kiện kia đã thiết lập nên một khuôn khổ để chính
phủ bảo vệ những quyền đó, bao gồm quyền cơ
bản về sở hữu tài sản [1]. Việc ghi nhận quyền
sở hữu tài sản trong Hiến pháp cũng đặt ra hạn
chế đối với chính Chính phủ Mỹ nhằm phòng
N.D. Duy / VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 36, No. 2 (2020) 73-81
76
ngừa sự tước đoạt giống như những gì đã từng
xảy ra dưới ách cai trị của nhà Vua ở nước Anh.
Quyền sở hữu của người dân là nền tảng cho
mọi hoạt động của xã hội con người. Quyền sở
hữu có nghĩa là con người có thể nắm giữ và
kiểm soát cái gì đó và quan trọng là con người
có quyền không cho người khác nắm giữ hay
kiểm soát nó. Bạn có thể thụ hưởng, cho người
khác thuê, bán, cho hay thậm chí phá hủy tài sản
của mình, nhưng những người khác không thể sử
dụng hay lấy khi chưa được bạn cho phép.
Không ai có thể tước đoạt một cách bất hợp pháp
tài sản của bạn. Cá nhân cũng như các nhóm
người, các đôi vợ chồng, các quan hệ đối tác kinh
doanh, các công ty, các chính phủ và các tổ chức
xã hội đều có thể sở hữu tài sản.
Thiết chế sở hữu tư nhân cũng lâu đời như
chính loài người mặc dù không phải lúc nào
người ta cũng tôn trọng nó. Ở Sparta cổ đại, ý
tưởng về chế độ tư hữu bị đem ra chế giễu. Gần
đây hơn những nước như Nga, Trung quốc và
nhiều nhà nước xã hội chủ nghĩa khác khác cũng
đã thử nghiệm quyền sở hữu tập thể nhà máy và
nông trại. Nhưng chỉ với sự chấp nhận tài sản tư
nhân và bảo vệ nó thì nền thương mại hiện đại
mới xuất hiện - của cải mới gia tăng nhanh
chóng. Dễ dàng biết vì sao, nhà sinh tái học
Garrett Hardin viết về bi kịch tài sản chung [2].
Khi người dân sở hữu nguồn lực thì họ sẽ quan
tâm hơn đến với việc giữ gìn nuôi dưỡng nó hơn
hẳn với khi họ không sở hữu nó. Đất đai do tư
nhân sở hữu được chăm sóc kỹ hơn là đất đai của
tập thể.
Bảo vệ tài sản và tôn trọng quyền sở hữu tạo
điều kiện cho con người tích lũy vốn sản xuất.
Người nông dân thích gieo trồng, chăm sóc cây
cối và và công cụ sản xuất của họ hơn, khi họ
được sở hữu sản phẩm do mình tạo ra. Doanh
nghiệp sẽ chấp nhận rủi ro khi đầu tư vào nhà
máy, thiết bị, và dây truyền sản xuất, nếu họ có
thể tự quyết định tài sản này được sử dụng như
thế nào và biết chắc rằng người khác không có
quyền lấy và sử dụng tài sản của họ. Nếu quyền
sở hữu được bảo vệ và được tôn trọng thì người
ta sẽ tích lũy vốn sản xuất và năng suất lao động
sẽ gia tăng, toàn bộ xã hội sẽ được lợi. Nhưng
nếu tài sản đó có thể bị người khác ăn cắp, hay
phá hoại hay một người nào đó sẽ lấy những thứ
mà họ tạo ra, thì sẽ không còn động lực khuyến
khích người ta đầu tư kĩ năng, tiền bạc, công sức
và hiểu biết vào sản xuất nữa - và toàn bộ xã hội
sẽ bị thiệt hại.
Các quyền và tự do mà người dân được
hưởng trong xã hội bám chặt vào thiết chế sở
hữu. Không có quyền sở hữu tư nhân thì cũng
không có quyền tự do và những quyền khác. Nếu
không có quyền tư hữu, thì chính phủ sẽ kiểm
soát tất cả các nguồn lực liên quan đến việc thực
hiện quyền tự do ngôn luận. Quyền tham gia
chính trị của người dân sẽ không được tiến hành.
Nếu một Chính phủ nắm được tất cả các phương
tiện phòng họp, in ấn, các phương tiện truyền
thông, thì Chính phủ này có thể cản trở chiến
dịch tranh cử của bất kỳ ứng cử viên nào.
Không có tài sản riêng thì cũng không có
công lí. Nếu con người không có quyền sở hữu
đối với cơ thể của mình, với lao động của mình
và tài sản của mình, thì người ta có thể lấy mà
không cần phải đền bù. Nếu bạn không có quyền
đối với cơ thể của mình, thì bạn có thẻ dễ dàng
bị bắt, bị bỏ tù, và bị giết hại; nếu bạn không có
quyền đối với lao động của mình, thì bạn có thể
bị bắt làm nô lệ, nếu bạn không có quyền đối với
của cải của mình, thì bạn có thể bị tước đoạt.
Sở hữu và bảo vệ quyền sở hữu tạo cho các
cá nhân có được “lá chắn” trước quyền lực của
chính phủ và áp chế của những người khác. Sở
hữu tài sản tạo cho các cá nhân khả năng tự bảo
vệ mình, tự lựa chọn, tự lập kế hoạch, theo đuổi
tham vọng hay thể hiện quan điểm cá nhân của
mình mà không lệ thuộc vào người khác.
Tài sản, luật lệ buôn bán và trao đổi từ quyền
sở hữu mà ra, tạo điều kiện cho các cá nhân hợp
tác một cách hòa bình và vì lợi ích chung. Nó tạo
điều kiện cho họ sống, cùng nhau chia sẻ nguồn
lực tự nhiên lẫn thành quả lao động của mình
theo những luật lệ đã được thỏa thuận, mà không
cần tranh cãi, bạo lực và cưỡng ép.
Quyền sở hữu tài sản không chỉ thúc đẩy hợp
tác một cách hòa bình, mà nó còn làm cho hợp
tác trở nên bắt buộc đối với tất cả mọi người
N.D. Duy / VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 36, No. 2 (2020) 73-81
77
muốn cải thiện điều kiện sống của mình tốt hơn.
Người ta không thể dùng vũ lực để lấy những thứ
mà họ muốn. Tài sản chỉ có thể chuyển giao cho
người khác thông qua các hình thức như bán,
thuê, chia sẻ, cho thuê hay cho tặng - với sự đồng
ý của chủ sở hữu. Xã hội càng tự do bao nhiêu,
thì càng có nhiều cơ chế nhằm bảo vệ quyền tài
sản của con người. Những người tự do coi những
biện pháp chuyển giao nguồn lực như thế là hợp
với đạo đức hơn là bị cướp bóc, cướp đoạt, bằng
bạo lực hay ăn cắp.
Những tác dụng trên vô hình chung không
chỉ làm lợi cho những người sở hữu tài sản mà
còn khuyến khích tăng cường đầu tư, tích lũy vốn
và làm cho tất cả xã hội đều có lợi. Người thành
phố không có sở hữu đất đai nông nghiệp, nhưng
vẫn có cái ăn là nhờ mua những nông sản từ
người nông dân chăm sóc ruộng vườn trên mảnh
đất nông nghiệp của họ. Trong những nước mà ở
đó quyền sở hữu không được bảo đảm có kết quả
khác. Ví dụ như ở Zimbabwe nơi người dân được
khuyến khích chiếm ruộng đất của các điền chủ
như thể đấy là đất của mình. Khi các điền chủ bỏ
đi (đa số là người da trắng), kết quả không phải
là thịnh vượng hơn, mà nghèo khó hơn. Không
có luật sở hữu đất đai rõ ràng, sản lượng nông
nghiệp lập tức lao dốc khiến cho người dân thành
thị lâm vào tình trạng thiếu hụt lương thực, thực
phẩm trầm trọng.
Vì vậy trong xã hội tự do, bảo vệ quyền sở
hữu tài sản là rất quan trọng và là nhiệm vụ căn
bản của nhà nước. Khi có tranh chấp về tài sản,
thì nhà nước là một chủ thể quan trọng cho việc
giải quyết, đem lại cuộc sống hòa bình và ổn định
cho toàn xã hội. Ví dụ, tranh chấp về ranh giới
giữa những người láng giềng, hay giữa những
doanh nghiệp sẽ được đưa ra tòa - một phần của
quyền lực nhà nước được thành lập ra có chức
năng giải quyết tranh chấp. Tòa án phải đưa ra
phán quyết một cách công bằng cho các tranh
chấp cụ thể theo quy định của pháp luật mỗi
quốc gia. Các vụ tranh chấp là khác nhau khiến
cho các thẩm phán của nhà nước không thể tùy
tiện ra quyết định. Họ phải áp dụng một cách
hợp lý các quy định của pháp luật và những
nguyên tắc đã được công nhận từ lâu vào
những hoàn cảnh mới.
Tính chất cơ bản của các quy tắc công lý
trong xã hội là phải áp dụng một cách bình đẳng
đối với tất cả mọi người. Những người khác nhau
rơi vào hoàn cảnh giống nhau thì phải được nhà
nước đối xử như nhau. Về nguyên tắc pháp luật
của nhà nước là công lý. Nhưng không phải lúc
nào luật pháp và công lí cũng là một, vì vậy trong
nhiều trường hợp các thẩm phán phải tính toán
và lập luận riêng, thậm chí không áp dụng những
đạo luật trong từng trường hợp cụ thể của vụ việc
để có được công lý.
Luật lệ áp dụng đối với sở hữu tài sản, không
phải lúc nào cũng rõ ràng. Quyền sở hữu đất có
cho tôi khai thác khoáng sản nằm dưới mảnh đất
sở hữu không? Nó có cho tôi quyền cấm người
ta bay trên một chiếc máy bay trên đất thuộc sở
hữu đó không? Tôi có quyền ngăn chặn nhà máy
ở gần đó gây ô nhiễm không khí qua cái ống khói
hay không? Những chi tiết này phải được pháp
luật quy định rõ ràng [3]. Hơn nữa trong các
phiên tòa, những luật lệ này liên tục được đưa ra
kiểm tra và chỉnh sửa bởi các thẩm phán.
Ngày nay, ở các nước phát triển, thành phần
kinh tế tư nhân chiếm trên 85% GDP, là nền tảng
và là trụ cột đảm bảo cho nền kinh tế quốc gia
phát triển ổn định, vững mạnh [4].
Như vậy, kinh tế của các nước phát triển hầu
như dựa trên thành phần kinh tế tư nhân. Muốn
đạt được điều này các quốc gia đều phải xây
dựng thể chế tư hữu phù hợp. Thế chế tư hữu cho
tất cả mọi người phần của mình trong xã hội và
sự quan tâm của mọi người đến sự hợp tác một
cách hòa bình để gia tăng điều kiện sống của mọi
người. Quyền này mang lại lợi ích cho tất cả mọi
người. Nó khuyến khích người ta quản lý và sử
dụng một cách hiệu quả tài sản của mình, tạo
điều kiện cho người ta tích lũy và duy trì phát
triển sản xuất. Trong một xã hội tự do quyền sở
hữu tài sản không phải là đặc quyền, đặc lợi của
một nhóm người. Nó là quyền con người của tất
cả mọi người, và nó có thể mang lại lợi ích cho
tất cả mọi người.
N.D. Duy / VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 36, No. 2 (2020) 73-81
78
2. Quyền sở hữu và bảo vệ sở hữu ở Việt Nam
Nhà nước Việt Nam hiện nay là tiếp nối
nhà nước của Dân chủ Cộng hòa được thành
lập năm 1945 do Hồ Chí Minh và Đảng Cộng
sản Việt Nam thành lập. Ngay từ đầu Nhà nước
này đã dựa trên căn bản của học thuyết chủ
nghĩa Mác, mà trọng tâm của chủ nghĩa này
xác định bằng câu:
“Điểm khác biệt của chủ nghĩa cộng sản
không phải là sự xóa bỏ sở hữu nói chung, mà là
xóa bỏ sở hữu tư sản. Nhưng chế độ tư hữu tư
sản hiện thời, lại là biểu hiện cuối cùng đầy đủ
nhất của phương thức sản xuất chiếm hữu sản
phẩm dựa trên trên đối kháng giai cấp, trên cơ sở
thiểu số bóc lột đa số. Theo đó lý thuyết của
những người cộng sản có thể được tóm tắt một
câu độc nhất như sau: Xóa bỏ chế độ tư hữu” [5].
Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945 với
khẩu hiệu Người cày có ruộng vừa kịp hoàn
thành, người Việt đã nhanh chóng tiến hành việc
đưa người nông dân vào hợp tác xã, để xóa bỏ sở
hữu tư nhân trên chính mảnh đất của họ vừa được
giành được sau Cải cách ruộng đất. Cũng tương
tự như vậy với công cuộc cải tạo công thương
trong khu vực phi nông nghiệp. Nói chung người
Việt đại đa số chưa kịp làm quen với sở hữu tư
nhân đã phải nhanh chóng bước vào công cuộc
sở hữu chung của toàn dân. Ở Việt Nam, từ năm
1954 (với miền Bắc) và từ năm 1975 (trên phạm
vi cả nước) đến trước thời kỳ đổi mới cả nước
năm 1986, do ảnh hưởng của mô hình CNXH Xô
Viết, kinh tế thị trường bị kỳ thị, tẩy chay do vậy
trừ kinh tế cá thể nhỏ lẻ, còn lại kinh tế tư nhân,
trước hết là các doanh nghiệp tư nhân bị xóa sổ
[4]. Chính đây là nguyên nhân dẫn đến cuộc
khủng hoảng kinh tế - xã hội những thập niên
cuối cùng của thế kỷ XX, mà muốn thoát khỏi,
bắt đầu từ năm 1986, Việt Nam buộc phải tiến
hành công cuộc đổi mới kinh tế, xây dựng nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
thay cho nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp
của hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa.
Gần 100 năm qua với nhiều thăng trầm thử
thách, kinh tế tư nhân trở thành động lực quan
trọng của nền kinh tế. Điều đó được chứng minh
qua những điểm cơ bản sau:
Thứ nhất, vai trò của kinh tế tư nhân đối với
nền kinh tế ngày càng quan trọng. Trong nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa,
phát triển kinh tế tư nhân là nhân tố không chỉ
bảo đảm cho việc duy trì tốc độ tăng trưởng GDP
cao, tạo nguồn thu cho ngân sách nhà nước mà
còn tham gia vào giải quyết hàng loạt những vấn
đề xã hội như: tạo việc làm, xóa đói, giảm nghèo,
phát triển nguồn nhân lực, Kinh tế tư nhân liên
tục duy trì tốc độ tăng trưởng khá, chiếm tỉ trọng
40-43% GDP; thu hút khoảng 85% lực lượng lao
động, góp phần quan trọng trong huy động các
nguồn lực xã hội cho đầu tư phát triển sản xuất
kinh doanh, tăng trưởng kinh tế, chuyển dịch cơ
cấu kinh tế, tăng thu ngân sách nhà nước, tạo
việc làm, cải thiện đời sống nhân dân, bảo đảm
an sinh xã hội.
Thứ hai, đóng góp vào nền kinh tế và hiệu
quả hoạt động của khu vực kinh tế tư nhân cao,
nhiều sáng kiến, đổi mới và sự đột phá được xuất
phát từ những doanh nghiệp tư nhân. Hiệu quả
sử dụng vốn đầu tư của khu vực kinh tế tư nhân
cao hơn 1,2 lần so với mức bình quân của nền
kinh tế và hơn 1,9 lần so với khu vực nhà nước.
Đóng góp của khu vực kinh tế tư nhân trong cơ
cấu GDP luôn ở mức trên 43% GDP (so với
khu vực kinh tế nhà nước 28,9% GDP và khu
vực có vốn đầu tư nước ngoài FDI là 18%
GDP). Số lượng doanh nghiệp tư nhân tăng
mạnh, đạt hơn 110.000 doanh nghiệp mới
(2016). Thương hiệu của khu vực tư nhân đã
không chỉ được ghi nhận ở thị trường trong
nước mà cả ở thị trường khu vực và quốc tế.
Đã xuất hiện những tập đoàn kinh tế tư nhân
có quy mô lớn cả về vốn và công nghệ cao.
Trong bối cảnh đầu tư tài chính của nhiều
doanh nghiệp nhà nước đạt hiệu quả thấp. Hiệu
quả sản xuất kinh doanh kém, gây ra những hậu
quả kinh tế lớn. Một số doanh nghiệp nhà nước
chưa thực hiện được vai trò là lực lượng nòng
cốt, dẫn dắt, tạo động lực phát triển đối với nền
kinh tế [6]. Vị trí, vai trò của kinh tế tư nhân ngày
càng được đánh giá tích cực hơn.
Tuy vậy kinh tế tư nhân ở nước ta vẫn còn
tồn tại nhiều vấn đề khó khăn tác động tới sự phát
triển như:
N.D. Duy / VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 36, No. 2 (2020) 73-81
79
Thứ nhất, vấn đề năng lực nội tại của kinh tế
tư nhân. Khu vực này thiếu hụt lao động có kỹ
năng, năng suất lao động còn thấp. Cách thức
quản trị hiện nay của nhiều doanh nghiệp còn
theo kiểu gia đình, ít tiếp cận quản trị hiện đại,
thông lệ quốc tế. Tình trạng doanh nghiệp thành
công dựa vào quan hệ không lành mạnh với giới
hoạch định chính sách, khai thác lợi thế đất đai,
tài nguyên ảnh hưởng đến sự phát triển bền
vững của nền kinh tế. Hệ quả là doanh nghiệp
khu vực tư nhân kém chịu sức ép cạnh tranh.
Thứ hai, kinh tế tư nhân hạn chế đầu tư vào
công nghệ, dẫn tới trình độ sản xuất, kỹ thuật chỉ
ở mức thấp. Điều này bắt nguồn từ thực tế nhiều
doanh nghiệp khu vực tư nhân không có đủ năng
lực tài chính để đầu tư vào tài sản cố định, máy
móc công nghệ để giảm chi phí, nâng cao hiệu
quả hoạt động. Tài sản cố định bình quân của
một doanh nghiệp khu vực tư nhân nhỏ chỉ duy
trì ở mức 7-8 tỷ đồng/ doanh nghiệp và không có
cải thiện đáng kể trong suốt giai đoạn 2011 -
2015 (Cục Phát triển doanh nghiệp, 2017).
Thứ ba, việc tiếp cận tín dụng của doanh
nghiệp khu vực tư nhân còn nhiều khó khăn. Chỉ
có 40% trong tổng số doanh nghiệp đang hoạt
động có khả năng tiếp cận vốn vay từ ngân hàng
(Cục Phát triển doanh nghiệp, 2017). Nhiều
doanh nghiệp khó đáp ứng quy định cho vay của
các tổ chức tín dụng do chưa minh bạch, rõ ràng
về tình hình tài chính của mình.
Thứ tư, các yếu tố khách quan từ thể chế,
chính sách còn tồn tại cũng cản trở sự phát triển
của kinh tế tư nhân:
i) Thủ tục hành chính còn phức tạp; liên
thông giải quyết thủ tục cho doanh nghiệp còn
bất cập; còn những điểm không thống nhất giữa
Luật Đầu tư, Luật Đất đai, Luật Đấu thầu hoặc
chưa phù hợp với thực tiễn, làm chậm quá trình
đầu tư phát triển của kinh tế tư nhân;
ii) Tồn tại nhiều rào cản điều kiện đầu tư kinh
doanh. Theo thống kê sơ bộ của Viện Nghiên
cứu quản lý kinh tế Trung ương (tháng 06/2017),
có hơn 3.500 điều kiện kinh doanh tương ứng với
243 ngành nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện.
Nhiều ngành nghề, điều kiện đầu tư kinh doanh
không đáp ứng tiêu chí về sự cần thiết quy định
tại Điều 7 Luật Đầu tư. Các điều kiện đầu tư kinh
doanh được quy định chung chung, không rõ
ràng. Điều này tạo ra rào cản gia nhập thị trường,
hạn chế cạnh tranh và tác động bất lợi đến doanh
nghiệp vừa và nhỏ;
iii) Thị trường, cơ hội đầu tư chưa có cơ chế
để khai thác triệt để. Tỷ lệ các gói thầu chào hàng
cạnh tranh và đấu thầu rộng rãi áp dụng đấu thầu
qua mạng chỉ chiếm lần lượt 5,7% và 4,4% trong
khi quy định tối thiểu là 20% và 10% (Cục Phát
triển doanh nghiệp, 2017);
iv) Ngoài ra, một số ngành nghề vẫn do
doanh nghiệp nhà nước nắm giữ và việc quản lý
chất lượng hàng hóa chưa hiệu quả dẫn tới sức
ép cả trong và ngoài nước về cơ hội kinh doanh
cho doanh nghiệp khu vực tư nhân.
Thứ năm, khả năng tiếp cận đất đai hạn chế.
Thủ tục giải phóng mặt bằng, thu hồi đất tốn thời
gian, ảnh hưởng đến kế hoạch kinh doanh của
doanh nghiệp. Phương pháp tính giá đất, thủ tục
cấp phép, thông tin quy hoạch còn gây nhiều bức
xúc, cản trở tốc độ thu hồi và bàn giao đất sạch
cho các nhà đầu tư. Mặt khác, giá cho thuê đất
cao... cũng hạn chế khả năng tiếp cận đất đai sản
xuất, kinh doanh của nhiều doanh nghiệp khu
vực tư nhân.
Thứ sáu, chi phí kinh doanh cao làm giảm
khả năng cạnh tranh: Chi phí vận tải cao, chi phí
vận chuyển 1 container từ Cảng Hải Phòng về
Hà Nội gấp 3 lần chi phí từ Hàn Quốc, Trung
Quốc về Việt Nam. Chi phí nhân sự cũng là một
gánh nặng lớn. Bên cạnh đó, tốc độ tăng lương
tối thiểu thời gian qua từ 8-12% nhưng tốc độ
tăng năng suất lao động chỉ đạt 4-5%.
Tính từ thời kỳ đổi mới, kinh tế tư nhân
không ngừng lớn mạnh, trở thành một trong
những nhân tố chính tạo nên sự tăng trưởng kinh
tế nhanh. Trải qua hơn 30 năm đổi mới, kinh tế
tư nhân đã không chỉ dần được phục hồi mà còn
có những bước phát triển cả về số lượng và chất
lượng. Đặc biệt là sau Đại hội X (năm 2006), khi
kinh tế tư nhân được xác định chính thức là thành
N.D. Duy / VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 36, No. 2 (2020) 73-81
80
phần kinh tế được khuyến khích phát triển,
không hạn chế về quy mô.
Kinh tế tư nhân đã có những đóng góp rất lớn
cho sự phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập
quốc tế của Việt Nam. Ở Việt Nam hiện có
khoảng 600 nghìn doanh nghiệp, trong đó có gần
500 nghìn doanh nghiệp thuộc sở hữu tư nhân.
Trong số này có tới hơn 96% là doanh nghiệp
nhỏ và vừa, 2% doanh nghiệp quy mô vừa và 2%
doanh nghiệp lớn. Doanh nghiệp thuộc sở hữu tư
nhân tạo ra khoảng 1,2 triệu việc làm, đóng góp
hơn 40% tổng sản phẩm quốc nội (GDP) mỗi
năm. Tuy nhiên thu nhập GDP theo đầu người
của Việt Nam năm 2018 chỉ đứng thứ 136/168
nước tham gia xếp hạng của thế giới. Phát triển
kinh tế tư nhân được cho là vẫn chưa tương xứng
với tiềm năng; lượng vốn, tiền vàng trong dân
không đưa vào hoạt động sản xuất kinh doanh
còn nằm rất lớn. Bởi lẽ những ông chủ tư nhân
vẫn chưa tin tưởng vào chủ trương chính sách
phát triển kinh tế tư nhân qua nhiều năm bị trưng
thu, trưng mua sung vào công quỹ nhà nước, một
cách tùy tiện, thậm chí người muốn phát triển theo
tinh thần của sở hữu tư nhân còn bị tù đầy [7].
Những năm gần đây, Đảng và Nhà nước Việt
Nam đã nhận thức rõ hơn vị trí, vai trò của kinh
tế tư nhân trong chính sách phát triển nền kinh tế
nhiều thành phần. Chiến lược kinh tế của Đảng
và Nhà nước Việt Nam đang hướng tới việc tạo
điều kiện thuận lợi cho kinh tế tư nhân phát triển
mạnh hơn. Chính phủ cam kết sẽ cải thiện môi
trường kinh doanh theo hướng bình đẳng, minh
bạch, an toàn và thân thiện, tạo mọi điều kiện để
doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp tư
nhân, doanh nghiệp nhỏ và vừa, doanh nghiệp
khởi nghiệp phát triển thuận lợi.
Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc
vừa ký ban hành Quyết định số 1362/QĐ-TTg
của Thủ tướng Chính phủ, phê duyệt kế hoạch
phát triển bền vững doanh nghiệp khu vực tư
nhân đến năm 2025, tầm nhìn 2030 với 6 nhóm
giải pháp trọng tâm: i) tiếp tục đẩy mạnh cải
thiện môi trường đầu tư kinh doanh nhằm đảm
bảo, duy trì niềm tin và tăng cường đầu tư kinh
doanh bền vững của doanh nghiệp khu vực tư
nhân; ii) khuyến khích doanh nghiệp áp dụng các
mô hình kinh doanh bền vững, công nghệ sản
xuất sạch hơn, sử dụng hiệu quả tài nguyên thiên
nhiên, bảo vệ môi trường; iii) thúc đẩy khởi
nghiệp sáng tạo và đẩy mạnh thực hiện hiệu quả
các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa;
iv) hỗ trợ nâng cao năng suất lao động trong
doanh nghiệp; phát triển nguồn nhân lực chất
lượng cao, nâng cao năng lực quản lý, quản trị
doanh nghiệp; v) khuyến khích doanh nghiệp
khu vực tư nhân ứng dụng khoa học công nghệ,
khai thác cơ hội của cách mạng công nghiệp 4.0;
vi. tăng cường vai trò của các tổ chức hiệp hội
doanh nghiệp trong hỗ trợ doanh nghiệp khu vực
tư nhân phát triển hiệu quả, bền vững.
Với những giải pháp trên góp phần chứng
minh Nhà nước Việt Nam đang tăng cường củng
cố thế chế sở hữu tư nhân và bảo vệ sở hữu tư
nhân trong nền kinh tế Việt Nam. Đây là định
hướng đúng đắn tạo đặc điểm khác biệt quan
trọng của nền kinh tế hiện nay so với nền kinh tế
bao cấp trước đây. Đó cũng là cơ sở cho sự phát
triển bền vững của Nhà nước Việt Nam.
Kết luận
Trong lịch sử phát triển của loài người, bảo
vệ quyền sở hữu tài sản, tư hữu tài sản là một vấn
đề rất quan trọng. Bảo vệ được quyền sở hữu tài
sản cho nhân dân là nền tảng đảm bảo cho sự
phát triển của xã hội trong tương lai. Suốt 70 năm
đã qua kể từ khi thành lập Nhà nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa mà ngày nay là Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa mới có những chủ trương chính
sách cho sự bảo đảm này.
Tài liệu tham khảo
[1] Melvin Urofsky, Rights of The People: Individual
Freedom and The Bill of Rights.
[2] Garrett Hardin, The tragedy of the commons, Science
162 (3859) 1968.
[3] Milton Friedmen and Rose Friedman, Capitalism and
Freedom, University of Chicago, IL., 1962.
[4] Nguyen Huy Vien, Developing private economy, the
people will be richer and the country will be stronger,
22/05/2019.
N.D. Duy / VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 36, No. 2 (2020) 73-81
81
https://vietnamnet.vn/vn/tuanvietnam/tieudiem/chi-
khi-kinh-te-tu-nhan-phat-trien-moi-co-dan-giau-
nuoc-manh-533536.html.
[5] Karl Marx, The Communist Manifesto, 1848,
London.
[6] Pham Thi Thanh Binh, Private economy: An
important driving force in Vietnam's economic
development, tapchitaichinh.vn 13/01/2018.
doi-binh-luan/kinh-te-tu-nhan-dong-luc-quan-trong-
trong-phat-trien-kinh-te-viet-nam-134456.html.
[7] Le Tho Binh, “The king of tires” Nguyen Van Chan:
a miser, Vietnamnet.vn 11/10/2004.
https://vietnamnet.vn/psks/nhanvat/2004/10/333737/.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- so_huu_tu_nhan_va_bao_ve_quyen_so_huu_tu_nhan_nen_tang_cua_m.pdf