So sánh Breast Stimulation Test và Oxytocin Challenge Test trong đánh giá sức khỏe thai

Một vấn đề luôn gây do dự cho các nhà lâm sàng trong việc chọn phương pháp se đầu vú để tạo cơn co tử cung là sự xuất hiện hội chứng quá kích cơn co tử cung. Thật vậy, Schellpfeffer và cs 1985 rất ưa chuộng phương pháp se đầu vú trong việc tạo cơn co vì tính thuận lợi của nó nhưng vẫn còn e ngại về sự xuất hiện các cơn co cường tính. Tuy nhiên, theo Frager và Miyazaki 1987 nhận xét chưa thấy sự đe doạ thai đáng kể nào khi thực hiện se đầu vú. Theo Schrocksnadel, cơn co cường tính xuất hiện khoảng 10% nhưng chỉ 1% gây biểu hiện những bất thường bệnh lý nhịp tim thai đối với phương pháp BST(8). Theo Rosenzweig, tỉ lệ này là 2,9% đối với BST và 1% đối với OCT(7) Vì khả năng gây cơn co cường tính chưa được thống kê một cách chính xác nên chỉ thực hiện BST ở những đợn vị lâm sàng thử nghiệm, đối với những cơ sở không có sự giám sát y khoa sát sao thì BST là một chống chỉ định(7). Lý do của sự dao dộng tỉ lệ cơn co cường tính giữa các nghiên cứu là cách thức se đầu vú khác nhau. Thật vậy, se đầu vú có thể trực tiếp hoặc gián tiếp qua lớp áo của sản phụ, thời gian se và khoảng cách nghỉ giữa các đợt se đều là các yếu tố quan trọng cho hậu quả này. Chính vì cân nhắc vấn đề trên nên trong nghiên cứu, chúng tôi đã chọn cách se đầu vú luân phiên cách quãng từng bên, thời gian se 5 phút, thời gian nghỉ 5 phút qua lớp áo sản phụ. Kết quả tỉ lệ xuất hiện cơn co cường tính là 3% đối với phương pháp OCT và 5% đối với phương pháp BST, các trường hợp có cơn co cường tính không gây một biểu hiện xấu nào trên tim thai đáng kể, và các biểu hiện cường tính này nhanh chóng được cải thiện khi giảm liều Oxytocin ngoại sinh đối với phương pháp OCT hoặc sau khi điều chỉnh phương pháp se đầu vú đối với phương pháp BST, không trường hợp nào cần phải giảm co bằng Salbutamol. Tỉ lệ xuất hiện cơn co cường tính này cũng không quá khác biệt so với kết quả của các công trình nghiên cứu trước.

pdf7 trang | Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 28/01/2022 | Lượt xem: 232 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu So sánh Breast Stimulation Test và Oxytocin Challenge Test trong đánh giá sức khỏe thai, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 11 * Phụ bản Số 1* 2007 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Sức Khỏe Bà Mẹ – Trẻ Em 214 SO SÁNH BREAST STIMULATION TEST VÀ OXYTOCIN CHALLENGE TEST TRONG ĐÁNH GIÁ SỨC KHỎE THAI Võ Thị Thùy Diệu*, Nguyễn Duy Tài** TÓM TẮT Stress Test (ST) là một chứng nghiệm có ý nghĩa trong việc lượng giá khả năng chịu đựng của thai qua một cuộc chuyển dạ sanh ngã âm đạo. Phương pháp se đầu vú luân phiên cách quãng có khả năng tạo cơn co tử cung để đánh giá thử nghiệm giống như việc sử dụng Oxytocin ngoại sinh. Mục tiêu: So sánh phương pháp se đầu vú với sử dụng Oxytocin ngoại sinh trong việc tạo cơn co tử cung để thực hiện Stress Test. Phương pháp nghiên cứu: Thiết kế nghiên cứu thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên có đối chứng, với 200 sản phụ tại Bệnh viện Hùng Vương, 100 sản phụ được tiến hành làm OCT và 100 sản phụ được tiến hành làm BST. Kết quả: Khả năng tạo cơn co chuẩn của cả 2 phương pháp OCT và BST khá cao và tương đồng nhau, lần lượt là 93% và 89% (p = 0,687). Phương pháp se đầu vú có khả năng giảm thiểu được thời gian tiến hành làm nghiệm pháp 20 phút so với phương pháp OCT kinh điển trước đây: BST: 9,08 ± 6,87 phút; OCT: 28,09 ± 16,23 phút (p < 0,001). Hội chứng cơn co cường tính trong nhóm OCT: 3%, trong nhóm BST: 5% (p = 0,470). Kết luận: BST có thể thay thế OCT nhằm tiết kiệm thời gian thử nghiệm. Từ khóa: Stress Test (ST), Breast Stimulation Test (BST), Oxytocin Challenge Test (OCT), Nipple Stimulation ABSTRACT COMPARISON OF BREAST STIMULATION TEST AND OXYTOCIN CHALLENGE TEST FOR ASSESSMENT OF FETAL WELL-BEING Vo Thi Thuy Dieu, Nguyen Duy Tai * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 11 – Supplement of No 1 – 2007: 214 - 220 Background: Stress Test (ST) was found to be one of the reliable tests for assessment of fetal well- being. Intermittent breast stimulation has ability to induce uterine contraction to evaluate test as Oxytocin Challeng Test. Objective: To compare nipple stimulation and exogenous oxytocin in inducing uterine contractions for Stress Test. Methods: A prospective randomized controlled trial conducted at Hung Vuong hospital, 200 pregnant women who had indication for Stress test were enrolled in the study: one hundred in BST group and one hundred in OCT group. These data were analyzed with analysis of variance, Chi-square test, t-test. Results: Effective uterine contractions were found in 93% of the OCT group and 89% of the BST group (p = 0.687). Mean duration for achievement of a contraction stress test was found to be significantly different between two group (9.08 ± 6.87 minutes vs 28.09 ± 16.23 minutes in the BST group and OCT group, respectively – p<0.0001). Uterine hyperstimulation occurred in 3% and 5% of OCT and BST group, respectively (p = 0.470). Conclusion: BST approved to be an alternative test for OCT with less time-consuming. Key words: Stress Test (ST), Breast Stimulation Test (BST), Oxytocin Challenge Test (OCT), Nipple * Khoa Sản bệnh, BV Phụ Sản Hùng Vương - TP. Hồ Chí Minh ** Bộ môn Phụ Sản Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 11 * Phụ bản Số 1* 2007 Sản Phụ Khoa 215 Stimulation ĐẶT VẤN ĐỀ Đối với những thai kỳ nguy cơ cao, việc đánh giá sức khỏe thai và lượng giá khả năng chịu đựng một cuộc chuyển dạ sanh ngã âm đạo vô cùng cần thiết. Stress Test là một chứng nghiệm nhằm ước định những khả năng của thai nhi chống lại tác động của tình trạng giảm tưới máu tử cung-nhau gây nên bởi cơn co tử cung, và như thế Stress Test (ST) có ý nghĩa trong việc lượng giá khả năng chịu đựng của thai qua một cuộc chuyển dạ sanh ngã âm đạo (9) . Năm 1972, Ray là người đầu tiên đề nghị dùng thử nghiệm này với Oxytocin ngoại sinh để tạo ra một cuộc chuyển dạ nhân tạo, và nghiệm pháp này có tên là Oxytocin Challenge Test (OCT) (3,6) . Cùng với sự phát triển không ngừng của y khoa về những thay đổi giải phẫu học và sinh lý học của người mẹ trong lúc mang thai; nhận thấy, đầu núm vú có những điểm tiếp nhận, khi bị kích thích cơ học sẽ tạo ra những xung động thần kinh tác động lên thùy sau tuyến yên gây tăng tiết Oxytocin nội sinh. Dựa trên nguyên lý này, Huddleston là người đầu tiên giới thiệu về phương thức “Se đầu vú” để tiến hành thử nghiệm Stress Test một cách đơn giản hơn phương pháp chuẩn OCT trước đây; với kỹ thuật này, nghiệm pháp có tên là Breast Stimulation Test (BST) (1) . Các nghiên cứu trên thế giới bước đầu đã đánh giá và nêu ra những lợi điểm của BST so với OCT như: BST rút ngắn được thời gian làm thử nghiệm, giảm chi phí, mức độ hài lòng và chấp nhận của bệnh nhân đối với thử nghiệm này cao hơn (5,8,4,7,2) . Nhằm có được những kết luận về các thử nghiệm trên người Việt Nam, cụ thể là quần thể sản phụ đến khám và theo dõi thai tại Bệnh viện Hùng Vương với điều kiện trang thiết bị cũng như nhân lực hiện có, chúng tôi đã tiến hành nghiên cứu “So sánh Breast Stimulation Test và Oxytocin Challenge Test trong đánh giá sức khỏe thai”. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Nghiên cứu được thiết kế theo mô hình thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên có đối chứng. Dân số nghiên cứu là các sản phụ đơn thai, ngôi đầu thuộc đối tượng thai kỳ nguy cơ cao về tuần hoàn nhau-thai có khả năng sống và có chỉ định chấm dứt thai kỳ (Thiểu ối, tuổi thai 41 tuần, NST không đáp ứng) được chỉ định làm ST để đánh giá tình trạng sức khỏe thai cũng như ước định lựa chọn đường sanh từ tháng 08/2004 đến khi tháng 03/2005 tại khoa Sản bệnh, Bệnh viện Hùng Vương. Các đối tượng bị loại ra khỏi nghiên cứu nếu có các bệnh lý kèm theo như: Vết mổ cũ, nhau tiền đạo, thai to, đa ối, khung chậu giới hạn, khung chậu hẹp, doạ sanh non, ối vỡ non. Các sản phụ được tiến hành OCT hay BST tùy theo lượt nghiên cứu theo bảng phân bố ngẫu nhiên bằng phần mềm máy tính (không mù). Đối với phương pháp OCT: Oxytocin ngoại sinh được sử dụng với liều khởi đầu 4mUI/phút, khoảng cách tăng liều mỗi 20 phút và liều tăng 2mUI/phút cho đến khi đạt cơn co tử cung chuẩn. Trong khi đó, đối với phương pháp BST: dùng khăn ướt áp lên vú trong 5 phút, sau đó các sản phụ se đầu vú tuần tự từng bên bằng mặt lòng ngón tay qua lớp áo sản phụ, thời gian se 5 phút, thời gian nghỉ 5 phút. Chúng tôi sử dụng máy ghi tim thai – cơn co ngoài, ghi nhận sự xuất hiện cơn co tử cung và sự thay đổi nhịp tim thai cũng như thời gian cần thiết tính từ lúc khởi đầu thử nghiệm đến khi bắt đầu đạt cơn co chuẩn. Cơn co chuẩn là từ 3 cơn co trong 10 phút trở lên với thời gian một cơn co từ 40 đến 60 giây. Thời gian duy trì cơn co chuẩn để đánh giá thử nghiệm là 30 phút. Hội chứng quá kích cơn co tử cung khi số cơn co lớn hơn hoặc bằng 6 cơn trong 10 phút. Các trường hợp sau 90 phút làm thử nghiệm (đối với cả 2 phương pháp) vẫn không tạo được 3 cơn co trong 10 phút thì kết quả thử nghiệm được coi là thất bại và xem như trường hợp đó không có khả năng tạo cơn co chuẩn để khảo sát. Các biến Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 11 * Phụ bản Số 1* 2007 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Sức Khỏe Bà Mẹ – Trẻ Em 216 số thứ phát khác cũng được ghi nhận bao gồm phương thức sanh, tỉ lệ mổ sanh, kết cục bé sau sanh qua chỉ số Apgar 5 phút, tỉ lệ tử vong. Sử dụng phần mềm SPSS 10.05, EXCEL Version 5.0 để nhập, quản lý và phân tích số liệu. Các biến số nghiên cứu được phân tích bằng các test thống kê thích hợp (Biến số rời rạc được kiểm bằng phép kiểm Chi bình phương, biến số liên tục được kiểm bằng phép kiểm T-test). Giá trị p được xem như có ý nghĩa về mặt thống kê khi p < 0,05. KẾT QUẢ Trong thời gian tiến hành nghiên cứu từ tháng 08/2004 đến tháng 03/2005, chúng tôi đã nhận vào 200 sản phụ, 100 sản phụ được tiến hành làm OCT và 100 sản phụ được tiến hành làm BST tại khoa Sản bệnh, Bệnh viện Hùng Vương. Hai nhóm OCT và BST này hoàn toàn tương đồng nhau về các đặc tính cơ bản như tuổi sản phụ, trình độ văn hóa, nghề nghiệp, tiền thai, các chỉ định thực hiện ST cũng như các hậu vận về cách sanh, cân nặng bé sau sanh (Bảng 1). Lứa tuổi sinh đẻ của các sản phụ tương đối tập trung vào độ tuổi 20 – 30 chiếm từ 59 – 66%. Đa số các sản phụ sanh con so chiếm từ 62 – 65%. Các đối tượng tham gia nghiên cứu phân bố tương đồng giữa 2 nhóm OCT và BST. Trong đó, nhóm đối tượng thai 41 tuần chiếm tỉ lệ cao 55 – 60%, kế đến là nhóm thiểu ối, cuối cùng là nhóm NST không đáp ứng. Tỉ lệ mổ sanh chiếm từ 47,31 – 49,43%, đây là con số khá cao vì đối tượng nghiên cứu là những thai kỳ nguy cơ cao. Bảng 2 tóm tắt các đặc điểm chính của 2 nhóm trong nghiên cứu. Về khả năng tạo cơn co tử cung của 2 nhóm OCT và BST, chúng tôi nhận thấy không có sự khác biệt, 93% đối với nhóm OCT và 89% đối với nhóm BST (p = 0,687); có nghĩa là khả năng tạo cơn co chuẩn của 2 phương pháp hoàn toàn tương đương nhau nếu khảo sát thử nghiệm trong vòng 90 phút. Các trường hợp không tạo được cơn co trong mỗi nhóm OCT và BST, để đảm bảo tính y đức của nghiên cứu, các trường hợp này sau đó vẫn được đánh giá sức khỏe bằng các biện pháp lâm sàng. Cụ thể là trong nhóm OCT có 7 trường hợp không tạo được cơn co trong 90 phút khảo sát: 4 trường hợp đã chớm tạo được cơn co tử cung, chúng tôi tiếp tục theo dõi tăng liều Oxytocin và kết quả là cũng đã tạo được cơn co chuẩn sau thời gian thử nghiệm 135 phút, 3 trường hợp chúng tôi tiến hành BST thì sau 20 phút đã tạo được cơn co chuẩn. Trong khi đó, ở nhóm BST: có 11 trường hợp không tạo cơn co chuẩn trong 90 phút khảo sát. Cũng trên tinh thần nghiên cứu như trên, chúng tôi xem như thất bại trong nghiên cứu và ghi nhận trong phần thu thập dữ liệu; tuy nhiên, 6 trường hợp do đã chớm có cơn co tử cung nên chúng tôi tiếp tục cho sản phụ se đầu vú bằng cách tích cực hơn (tăng thời gian se, giảm thời gian nghỉ) thì đều đã tạo được cơn co chuẩn. 5 trường hợp còn lại, chúng tôi chuyển sang làm OCT và cũng tạo được cơn co chuẩn để đánh giá kết quả. Đăc biệt, thời gian cần thiết tạo cơn co của OCT dài hơn của BST có ý nghĩa thật sự về mặt thống kê: OCT: t = 28,09 16,23 (phút) và BST: t = 9,08 6,87 (phút) (p<0,001). Sự khác biệt thời gian giữa 2 phương pháp OCT và BST càng thể hiện rõ nét khi được phân tích dưới dạng tích lũy thời gian. Đối với phương pháp OCT khoảng 69% các trường hợp đạt được cơn co chuẩn trong vòng 30 phút; trong khi đó, đối với phương pháp BST chỉ trong vòng 10 phút 69% các trường hợp đ đạt được cơn co chuẩn (Bảng 3). Sự xuất hiện cơn co cường tính của 2 phương pháp OCT và BST chưa có sự khác biệt có ý nghĩa, OCT: 3% và BST: 5% (p = 0,470) và tỉ lệ xuất hiện này có thể chấp nhận được. Thật vậy, trong nghiên cứu, các trường hợp có cơn co cường tính chưa gây một biểu hiện nào trên tim thai đáng kể, và các biểu hiện cường tính này nhanh chóng được cải thiện khi giảm liều Oxytocin ngoại sinh đối với phương pháp OCT hoặc sau khi Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 11 * Phụ bản Số 1* 2007 Sản Phụ Khoa 217 điều chỉnh phương pháp se đầu vú đối với phương pháp BST. Sự than phiền của sản phụ trong nhóm tiến hành phương pháp OCT chủ yếu là sản phụ bị giới hạn vận động do đường tiêm truyền khoảng 21%. Trong nhóm BST, khoảng 32% sản phụ có cảm giác tê, mỏi tay và đau rát đầu vú khi se. Tuy nhiên, sự than phiền này không quá gây khó chịu cho sản phụ, hầu hết đều chấp nhận được sau khi được nhân viên giải thích tường tận về mục đích của thử nghiệm. Bảng 1. Sự phân bố các đặc điểm cơ bản trong nghiên cứu OCT (n=100) BST (n=100) Tuổi sản phụ Tuổi trung bình 29,02 5,07 28,04 5,22 Tuổi tối thiểu 19 16 Tuổi tối đa 42 39 Lứa tuổi 20-30 59% 66% Trình độ văn hóa cấp II-III 71% 76% Nghề nghiệp: nội trợ 45% 31% Tiền thai con so 62% 65% Chỉ định ST Thai 41 tuần 55% 60% Thiểu ối 26% 23% NST không đáp ứng 19% 17% Cách sanh Thường 42,15% 38,63% Dụng cụ 10,54% 11,94% Mổ 47,31% 49,43% Cân nặng bé (gam) 3170,5 398,1 3263,5 422,3 Bảng 2. Các đặc điểm chính của nhóm nghiên cứu OCT (n=100) BST (n=100) p 95%CI Khả năng tạo cơn co chuẩn 93% 89% 0,687 0,89- 1,55 Thời gian cần thiết tạo cơn co chuẩn (phút) 28,09 16,23 9,08 6,87 <0,0001 1,14- 7,72 Mổ sanh 47,31% 49,43% 0,146 0,77- 2,48 Apgar 5 phút < 7 điểm cần HSSS và nhập NICU 12,9% 17,97% 0,852 0,74- 2,30 Tỉ lệ tử vong 0% 0% Cơn co cường tính 3% 5% 0,470 0,62- 2,11 OCT (n=100) BST (n=100) p 95%CI Thái độ của sản phụ Giới hạn vận động 21% Mỏi và tê tay 32% Bảng 3. So sánh khả năng tạo cơn co chuẩn Thời gian (phút) Khả năng tạo cơn co chuẩn (%) OCT BST 5 2 36 10 13 69 15 25 84 20 40 86 30 69 87 50 89 89 70 93 BÀN LUẬN Việc đánh giá sức khỏe thai cũng như ước định đường sanh cho một thai kỳ nguy cơ cao là một công việc vô cùng quan trọng cho người bác sĩ sản khoa trong công tác thực hành lâm sàng. Tại các cơ sở quá tải bệnh nhân, một phương tiện chẩn đoán luôn cần phải thỏa những tiêu chí về tính chính xác, độ an toàn, nhanh chóng và tiện lợi. Các nghiên cứu trên thế giới dần đã cho thấy khả năng tạo cơn co tử cung bằng cách sử dụng Oxytocin ngoại sinh cũng như kích thích tạo Oxytocin nội sinh qua phương thức “Se đầu vú”. Tuy vậy, các kết quả về hiệu quả tạo cơn co tử cung cũng như hậu quả không mong đợi là sự xuất hiện hội chứng quá kích cơn co tử cung có vẻ khác nhau giữa các nghiên cứu. Theo Oki EY qua một công trình nghiên cứu 1.072 sản phụ ở Long Beach, California, cho thấy tỉ lệ thành công tạo được cơn co tử cung đạt chuẩn của BST là 72,2% (5) , nhưng theo Schrocksnadel qua một công trình nghiên cứu ở Đức với 186 sản phụ có tuổi thai đủ tháng thì tỉ lệ tạo ra đáp ứng BST này là 57% (8) và sự khác biệt về khả năng tạo cơn co tử cung qua một nghiên cứu tiền cứu so sánh giữa BST và OCT của Lipitz S ở trung tâm Y khoa Chaim Sheba, Israel lại không có ý nghĩa thống kê, tỉ lệ này khá cao, 84% trong nhóm BST Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 11 * Phụ bản Số 1* 2007 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Sức Khỏe Bà Mẹ – Trẻ Em 218 và 96% trong nhóm OCT (4) . Một nghiên cứu khác của Rosenzweig BA ở Bệnh viện Michael Reese qua 103 sản phụ cũng cho thấy khả năng thất bại tạo cơn co đạt chuẩn của BST là 22% (7) . Lý do về sự khác nhau này là do cách sử dụng Oxytocin ngoại sinh cũng như cách se đầu vú trong các nghiên cứu khác nhau. Thật vậy, hiện nay có 2 quan niệm về sử dụng Oxytocin liều khởi đầu cùng với kỹ thuật tăng liều khác nhau (10) . Oxytocin khởi đầu liều cao: 4 - 6mIU/phút và Oxytocin khởi đầu liều thấp: 0,5 - 1mIU/phút. Tại Parland: theo Satin & cs 1992, với liều cao Oxytocin: Giảm thời gian từ lúc sử dụng Oxytocin đến lúc sanh. Giảm tỉ lệ sanh bằng forceps và mổ sanh. Giảm tỉ lệ nhiễm trùng ối. Giảm tỉ lệ nhiễm trùng sơ sinh. Bên cạnh đó, có nhiều phác đồ khác nhau về khoảng cách tăng liều Oxytocin và vẫn chưa có sự thống nhất liệu xem khoảng cách tăng liều nào là tối ưu, có thể là mỗi 10 phút, 15 phút, 20 phút, thậm chí mỗi 40 phút để đạt cơn co chuẩn. Theo Satin &cs 1994: khi so sánh khoảng cách tăng liều 20 phút so với 40 phút với Oxytocin liều cao, nhận thấy với khoảng cách liều 20 phút: Tỉ lệ mổ sanh ở nhóm 20 phút là 8%, nhóm 40 phút là 12% Tỉ lệ cơn co cường tính ở nhóm 20 phút và nhóm 40 phút đều là 31%. Tại Việt Nam, hầu hết các Bệnh viện lớn chuyên khoa sản sử dụng Oxytocin trong việc tạo cơn co tử cung bằng cách pha 01 ống Oxytocin 5 đơn vị trong 500mL dịch truyền và truyền tĩnh mạch với vận tốc khởi đầu 8 giọt/phút, tức tính ra tương đương với liều Oxytocin 4mIU/phút. Vô hình chung, chúng ta đã sử dụng Oxytocin với liều cao từ rất nhiều năm nay với sự chấp nhận lâm sàng tỏ ra khá đáng kể. Chính vì vậy, trong đề tài nghiên cứu này, chúng tôi mạnh dạn sử dụng Oxytocin với liều 4mIU/phút, nghĩa là sử dụng Oxytocin với liều cao với mục đích kiểm chứng lại tính an toàn của Oxytocin liều cao đối với người Việt Nam mà đã được sử dụng từ rất nhiều năm nay. Bên cạnh đó, kỹ thuật se đầu vú cũng chưa thống nhất nhau giữa các khu vực, kích thích đầu vú có thể thực hiện bằng tay (manual stimulation) hay kích thích bằng xung điện (electrostimulation), có thể trực tiếp hay qua lớp áo của sản phụ (1,5,2,4) . Trong nghiên cứu của chúng tôi, khả năng tạo cơn co chuẩn của cả 2 phương pháp OCT và BST khá cao: 93% và 89%. Tỷ lệ này trong giới hạn cao, phù hợp với các nghiên cứu khác. Có lẽ vì trong nghiên cứu, đối với phương pháp OCT chúng tôi sử dụng Oxytocin với liều cao (4mIU/phút), và đối với phương pháp BST chúng tôi kết hợp hiệu quả nhiệt học và cơ học trong việc kích thích Oxytocin nội sinh, cụ thể là chúng tôi cho sản phụ áp khăn ướt, ấm lên đầu vú trong 5 phút, sau đó se đầu vú luân phiên cách quãng với thời gian se 5 phút, thời gian nghỉ 5 phút; chính vì vậy hiệu quả tạo cơn co tử cung cao hơn và nhanh hơn (Bảng 4). Bảng 4. Khả năng tạo cơn co chuẩn Nghiên cứu Khả năng tạo cơn co chuẩn (%) OCT BST Oki EY, Long Beach, California(5) 72,2% Schrocksnadel H (6) 57% Lipitz, Israel (7) 96% 84% Nghiên cứu của chúng tôi 93% 89% Đặc biệt, khi so sánh thời gian cần thiết tạo cơn co chuẩn của OCT và BST, chúng tôi nhận thấy BST thật sự nhanh hơn có ý nghĩa cả về mặt thống kê và cả về ý nghĩa lâm sàng (Bảng 5). Bảng 5. Thòi gian cần thiết tạo cơn co chuẩn Nghiên cứu Thòi gian cần thiết tạo cơn co chuẩn (phút) OCT BST Oki EY, Long Beach, California (5) 23,8 15,2 Lipitz, Israel (7) 81,3 48,4 20,9 11,5 Nghiên cứu của chúng tôi 28,09 16,23 9,08 6,87 Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 11 * Phụ bản Số 1* 2007 Sản Phụ Khoa 219 OCT: t = 28,09 16,23 (phút) BST: t = 9,08 6,87 (phút) => d = 20 (phút) Thật vậy, sự chênh lệch về thời gian giữa 2 nhóm OCT và BST d = 20 phút, với một khoảng thời gian được tiết kiệm như vậy khi thực hiện phương pháp BST, chúng ta có thể thực hiện được thêm 1-2 ca BST nữa. Hay nói khác đi, khi thực hiện 1 ca OCT thì chúng ta có thể thực hiện được 2-3 ca BST, mà khả năng tạo cơn co tử cung chuẩn của 2 phương pháp này hoàn toàn tương đương nhau như đã được kiểm chứng trong nghiên cứu ở phần trình bày trên. Chính vì vậy, dựa vào kết quả của nghiên cứu này, chúng tôi mạnh dạn khuyến cáo rằng BST có thể thay thế OCT với sự rút ngắn thời gian thử nghiệm, hạn chế được sự xâm lấn của phương pháp OCT (lập đường truyền dịch). Một vấn đề luôn gây do dự cho các nhà lâm sàng trong việc chọn phương pháp se đầu vú để tạo cơn co tử cung là sự xuất hiện hội chứng quá kích cơn co tử cung. Thật vậy, Schellpfeffer và cs 1985 rất ưa chuộng phương pháp se đầu vú trong việc tạo cơn co vì tính thuận lợi của nó nhưng vẫn còn e ngại về sự xuất hiện các cơn co cường tính. Tuy nhiên, theo Frager và Miyazaki 1987 nhận xét chưa thấy sự đe doạ thai đáng kể nào khi thực hiện se đầu vú. Theo Schrocksnadel, cơn co cường tính xuất hiện khoảng 10% nhưng chỉ 1% gây biểu hiện những bất thường bệnh lý nhịp tim thai đối với phương pháp BST (8) . Theo Rosenzweig, tỉ lệ này là 2,9% đối với BST và 1% đối với OCT (7) Vì khả năng gây cơn co cường tính chưa được thống kê một cách chính xác nên chỉ thực hiện BST ở những đợn vị lâm sàng thử nghiệm, đối với những cơ sở không có sự giám sát y khoa sát sao thì BST là một chống chỉ định (7) . Lý do của sự dao dộng tỉ lệ cơn co cường tính giữa các nghiên cứu là cách thức se đầu vú khác nhau. Thật vậy, se đầu vú có thể trực tiếp hoặc gián tiếp qua lớp áo của sản phụ, thời gian se và khoảng cách nghỉ giữa các đợt se đều là các yếu tố quan trọng cho hậu quả này. Chính vì cân nhắc vấn đề trên nên trong nghiên cứu, chúng tôi đã chọn cách se đầu vú luân phiên cách quãng từng bên, thời gian se 5 phút, thời gian nghỉ 5 phút qua lớp áo sản phụ. Kết quả tỉ lệ xuất hiện cơn co cường tính là 3% đối với phương pháp OCT và 5% đối với phương pháp BST, các trường hợp có cơn co cường tính không gây một biểu hiện xấu nào trên tim thai đáng kể, và các biểu hiện cường tính này nhanh chóng được cải thiện khi giảm liều Oxytocin ngoại sinh đối với phương pháp OCT hoặc sau khi điều chỉnh phương pháp se đầu vú đối với phương pháp BST, không trường hợp nào cần phải giảm co bằng Salbutamol. Tỉ lệ xuất hiện cơn co cường tính này cũng không quá khác biệt so với kết quả của các công trình nghiên cứu trước. KẾT LUẬN Với phương pháp se đầu vú luân phiên cách quãng, BST có thể thay thế OCT trong việc tạo cơn co tử cung khi cần tiến hành làm Stress Test vì những tiện ích vượt trội của nó: BST là một phương pháp không xâm lấn, không gây giới hạn vận động như phương pháp OCT (do phương pháp OCT cần phải cần thiết lập đường tiêm truyền), tiết kiệm được thời gian thử nghiệm, yếu tố này có ý nghĩa rất thiết thực, rất phù hợp với những cơ sở y tế quá tải. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Huddleston J, Sutliff G, Robinson D: Contraction stress test by intermittent nipple stimulation. Obstet Gynecol 63:669, 1984. 2. Keegan KA. Helm DA, Porto M, et al: A prospective evaluation of nipple stimulation techniques for contraction stress testing. Am J Obstet Gynecol 157:121, 1987. 3. Levitin MS, Petrikovsky B, and Schneider EP., Practical Guidelines for Antepartum Fetal Surveillance. 1998. 4. Lipitz S, Barkai G, Rabinovici J, Mashiach S. Breast stimulation test and oxytocin challenge test in fetal surveillance: a prospective randomized study. Am J Obstet Gynecol. 1987 Nov;157(5):1178-81. 5. Oki EY, Keegan KA, Freeman RK, Dorchester WL. The breast-stimulated contraction stress test. J Reprod Med. 1987 Dec; 32(12):919-23. 6. Ray M. Freeman R, Pine S, et al: Clinical Experience with Oxytocin Challenge Test. Am J Obstet Gynecol 114:1, 1972. 7. Rosenzweig BA, Levy JS, Schipiour P, Blumenthal PD. Comparison of the nipple stimulation and exogenous oxytocin contraction stress tests. A randomized, prospective study. J Reprod Med. 1989 Dec;34(12):950-4. Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 11 * Phụ bản Số 1* 2007 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Sức Khỏe Bà Mẹ – Trẻ Em 220 8. Schrocksnadel H, Sachsenmaier M, Reider W. Experience with breast stimulation for labor induction. Geburtshilfe Frauenheilkd. 1990 Jul; 50(7):569-71. 9. Szanto F. Kovacs L. Continuous breast stimulation in prenatal fetal diagnosis. Orv Hetil. 1991 Jan 6; 132(1): 15-7. 10. Williams Obstetrics 21st . Antepartum Assessment. Edition 2001. Page 1095-1108.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfso_sanh_breast_stimulation_test_va_oxytocin_challenge_test_t.pdf
Tài liệu liên quan