Kết quả ghi nhận khoảng trống GG và tỷ lệ
GG/HbA1c có sự tương quan thuận với đạm
niệu ở mức độ trung bình (R = 0,562 và 0,558; P <
0,0001), so với đường huyết đói và HbA1c không
thấy có sự tương quan này (R = 0,03 và R = 236; P
> 0,05). Chúng tôi cũng ghi nhận sự khác biệt có
ý nghĩa của fructosamine giữa 2 nhóm có và
không có tiểu đạm đại thể (P < 0,05). Khi thực
hiện phép tính hệ số Spearman, chúng tôi nhận
thấy fructosamine có sự tương quan nghịch với
đạm niệu (R = -0,346; P < 0,05). Tác giả
Emmanuel Cosson cũng tìm thấy kết quả tương
tự như trên(4). Fructosamine thể hiện tình trạng
glycat hóa ở các protein ngoại bào, như vậy nếu
các protein ngoại bào bị glycat hóa nhiều thì
không làm ảnh hưởng hoặc thậm chí còn có thể
làm giảm bớt lượng protein nội bào bị glycat
hóa, từ đó dẫn đến giảm mức độ đạm niệu trên
bệnh nhân. Điều này cần được kiểm chứng qua
các nghiên cứu lớn hơn, và có thể mở ra tiềm
năng mới cho việc điều trị các biến chứng mạn
tính của bệnh ĐTĐ.
Dựa trên chỉ số creatinine huyết thanh của
bệnh nhân, chúng tôi tính độ lọc cầu thận ước
đoán (eGFR). Do đa số bệnh nhân trong nghiên
cứu của chúng tôi đều có mức eGFR cao (> 60
ml/phút/1,73m2 da), vì vậy chúng tôi quyết định
chọn công thức CKD-EPI để tính độ lọc cầu thận
ước đoán. Độ lọc cầu thận eGFR có phân phối
bình thường nên chúng tôi tính hệ số Pearson (r)
để so sánh mức độ tương quan giữa các chỉ số
đánh giá tình trạng glycat hóa với độ lọc cầu thận.
Kết quả cho thấy đường huyết đói và fructosamin
không có sự tương quan có ý nghĩa với độ lọc cầu
thận (P > 0,05). Ngược lại, các biến số HbA1c,
khoảng trống GG, và tỷ lệ GG/HbA1c có sự
tương quan nghịch với độ lọc cầu thận ở mức độ
trung bình, trong đó khoảng trống GG có hệ số
Pearson cao nhất (r = -0,491; P < 0,001). Như vậy,
rõ ràng các chỉ số glycat hóa nội bào như HbA1c
và khoảng trống GG có ưu thế hơn các chỉ số
glycat hóa khác trong việc đánh giá tốc độ suy
giảm chức năng thận ở các bệnh nhân ĐTĐ.
7 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 09/02/2022 | Lượt xem: 80 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu So sánh các chỉ số Glycat hóa trong vấn đề đánh giá biến chứng thận trên bệnh nhân đái tháo đường, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 1 * 2015 Nghiên cứu Y học
Nội Tổng quát 179
SO SÁNH CÁC CHỈ SỐ GLYCAT HÓA TRONG VẤN ĐỀ ĐÁNH GIÁ
BIẾN CHỨNG THẬN TRÊN BỆNH NHÂN ĐÁI THÁO ĐƯỜNG
Lê Quốc Tuấn*, Nguyễn Thị Lệ*, Nguyễn Thị Hiệp**
TÓM TẮT
Mục tiêu: So sánh các chỉ số glycat hóa bao gồm: đường huyết đói, fructosamine, HbA1c, khoảng trống
glycat hóa (GG) trong vấn đề đánh giá biến chứng thận trên bệnh nhân đái tháo đường.
Phương pháp:Nghiên cứu cắt ngang phân tích.
Kết quả: Qua khảo sát trên nhóm bệnh nhân đái tháo đường điều trị ngoại trú tại Bệnh viện Đại học Y
Dược Tp.HCM, chúng tôi ghi nhận giá trị trung bình của các chỉ số glycat hóa như sau: đường huyết đói là
145,9 ± 56,8 mg/dl, HbA1c là 7,5 ± 0,9%, fructosamine là 275,8 ± 66,3 μmol/L, khoảng trống glycat hóa (GG) là
0,004 ± 0,714%, không có sự khác biệt có ý nghia giữa hai nhóm bệnh nhân nam và nữ. Khoảng trống glycat hóa
có mối tương quan độc lập ở mức trung bình với đạm niệu (R = 0,561, P < 0,0001) và độ lọc cầu thận theo CKD-
EPI (r = -0,491, P < 0,001).
Kết luận: Khoảng trống glycat hóa có vai trò ưu thế hơn các chỉ số glycat hóa khác như đường huyết,
HbA1c, fructosamine trong việc đánh giá các biến chứng thận ĐTĐ.
Từ khóa:Đái tháo đường (ĐTĐ), fructosamine, HbA1c, khoảng trống glycat hóa (GG).
ABSTRACT
COMPARING THE GLYCATION MEASUREMENTS IN ASSESSMENT OF DIABETIC
NEPHROPATHY
Le Quoc Tuan, Nguyen Thi Le, Nguyen Thi Hiep
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 19 - Supplement of No 1 - 2015: 179 - 185
Objective: To compare the glycation measurements, including: fasting glucose plasma, serum fructosamine,
HbA1c, glycation gap (GG) for assessment of diabetic nephropathy.
Method:Analysis cross-sectional study
Results: The study recorded the average value of the different glycation measurements: fasting plasma
glucose 145.9 ± 56.8 mg / dl, HbA1c 7.5 ± 0.9%, fructosamine 275.8 ± 66.3 μmol/L, glycation gap (GG) 0.004 ±
0.714%. There are not the significant differences between male and female patients. Glycation gap independently
correlated with the level of proteinuria (r = 0.561, P < 0.0001) and glomerular filtration rate according to the
CKD-EPI formula (r = -0.491, P < 0.001).
Conclusion: Glycation gap is more useful than different glycation measurements such as fasting plasma
glucose, HbA1c, fructosamine in the evaluation of diabetic nephropathy.
Key words: diabetes mellitus, fructosamine, HbA1c, glycation gap (GG).
ĐẶT VẤN ĐỀ
Tỷ lệ đái tháo đường (ĐTĐ) đang ngày càng
tăng nhanh trong dân số, ước đoán có thể lên
đến 380 triệu người trên toàn thế giới vào năm
2025(1). Tại Việt Nam, theo điều tra quốc gia về
tình hình bệnh ĐTĐ và yếu tố nguy cơ vào năm
2003 được tiến hành trên cả nước, kết quả ghi
nhận tỷ lệ mắc bệnh ĐTĐ là 2,7%, trong đó
vùng đô thị và khu công nghiệp có tỷ lệ mắc
bệnh đến 4,4%(14). Theo đó, tỷ lệ các biến chứng
* Bộ môn Sinh lý học ĐHYD TP.HCM
** Bộ môn Kỹ Thuật Y Sinh, ĐH Quốc Tế, ĐH Quốc Gia Tp. HCM
Tác giả liên lạc: BS Lê Quốc Tuấn ĐT: 01696929792 Email: tuan_lqc@yahoo.com
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 1 * 2015
Chuyên Đề Nội Khoa 180
mạn tính gây nên bởi ĐTĐ cũng tăng lên đáng
kể, trong đó bệnh thận ĐTĐ là biến chứng
thường gặp và gây nhiều hậu quả nghiêm trọng
cho bệnh nhân. Bệnh thận ĐTĐ ở bệnh nhân
ĐTĐ típ 1 diễn ra theo 5 giai đoạn với biểu hiện
tiểu đạm tăng dần, và độ lọc cầu thận giảm dần
theo thời gian(13,3). Trên bệnh nhân ĐTĐ típ 2,
quá trình bệnh có thể diễn ra nhanh hơn, đưa
đến suy thận xuất hiện sớm hơn, khó dự đoán
hơn bệnh nhân ĐTĐ típ 1(13,3). Khi suy thận mạn
tiến triển đến giai đoạn cuối, bệnh nhân phải lựa
chọn các phương pháp điều trị thay thế thận,
đưa đến gánh nặng cả về kinh tế lẫn tinh thần
trong vấn đề chăm sóc sức khỏe. Vì vậy, việc lựa
chọn các phương pháp thăm dò chức năng giúp
phát hiện sớm biến chứng thận sẽ hổ trợ tích cực
cho quá trình điều trị, ngăn ngừa diễn tiến đến
suy thận giai đoạn cuối.
Chìa khóa trong sự tiến triển của các biến
chứng thận ĐTĐ chính là tình trạng tăng đường
huyết mạn tính, tác động thông qua nhiều con
đường trung gian khác nhau tại các tế bào(3). Khi
đường huyết tăng cao, quá trình biến đổi của các
protein bởi glucose trong các tế bào biểu mô có
chân và tế bào nội mô ở cầu thận diễn ra mạnh
mẽ, sinh ra một lượng lớn các sản phẩm glycat
hóa cuối cùng (AGEs)(5). Khi các AGEs gắn lên
thụ thể của nó, quá trình kích hoạt tổng hợp các
protein gây viêm, các cytokines, các yếu tố tăng
trưởng bắt đầu xảy ra, làm biến đổi các lớp của
màng lọc cầu thận, gây dãn rộng các lỗ lọc, đưa
đến tình trạng tiểu đạm ngày càng tăng dần(5).
Mỗi chỉ số glycat hóa đều có những ưu điểm
và yếu điểm riêng trong việc đánh giá biến
chứng thận ĐTĐ. Đường huyết đói cho biết sự
thay đổi ngắn hạn, giúp đánh giá các biến chứng
cấp tính của ĐTĐ như nhiễm toan ceton hay
tăng áp lực thẩm thấu rất hiệu quả, nhưng lại
kém chính xác khi sử dụng để đánh giá các biến
chứng mạn tính như bệnh thận ĐTĐ(13,3). HbA1c
là phân tử hemoglobin trong hồng cầu kết hợp
một cách bền vững với glucose.HbA1c phụ
thuộc vào mức đường huyết, đường huyết trong
máu càng cao thì lượng HbA1c trong hồng cầu
càng tăng. HbA1c tồn tại song song với đời sống
của hồng cầu, do đó ưu điểm của HbA1c là giúp
đánh giá mức đường huyết trung bình trong
khoảng thời gian từ 2-3 tháng liên tục(6). Tương
tự như HbA1c, fructosamine được tạo thành từ
các phân tử protein trong huyết tương bị gắn kết
bởi glucose, trong đó thành phần chủ yếu là
albumin. Fructosamine giúp đánh giá đường
huyết trung bình trong thời gian ngắn hơn
HbA1c, khoảng 2-3 tuần(4). Như vậy,
fructosamine thể hiện cho sự tạo thành các sản
phẩm glycat hóa cuối cùng (AGEs) từ các
protein trong huyết tương, trong khi đó HbA1c
thể hiện sự tạo thành các sản phẩm glycat hóa
cuối cùng từ các protein trong tế bào(16). Giữa hai
thành phần glycat hóa nội bào và ngoại bào này
luôn có sự chênh lệch(7). Các bằng chứng thực
nghiệm cho thấy biến chứng mạch máu nhỏ phụ
thuộc nhiều hơn vào sự tạo thành các sản phẩm
glycat hóa nội bào. Vì vậy, các nghiên cứu gần
đây như khảo sát của các tác giả Emmanuel
cosson(4) và Ananth U. Nayak(13, 14) đều tập trung
vào đánh giá khoảng trống glycat hóa (GG).
Khoảng trống GG được định nghĩa là hiệu số
giữa HbA1c thực tế và HbA1c lý thuyết. HbA1c
lý thuyết được tính dựa trên phương trình hồi
quy tương quan giữa nồng độ fructosamine và
HbA1c trong nhóm nghiên cứu(4,13,14):
HbA1c dự đoán = a x Fructosamine + b
GG = HbA1c thực tế - HbA1c dự đoán
Khoảng trống GG càng lớn chứng tỏ lượng
protein nội bào bị glycat hóa càng nhiều so với
lượng protein ngoại bào, khi đó các biến chứng
mạch máu nhỏ càng diễn ra sớm hơn(7,11). Chính
vì vậy, trên lý thuyết, tính toán được sự chênh
lệch giữa hai thành phần glycat hóa nội bào và
ngoại bào, hay khoảng trống glycat hóa, sẽ hứa
hẹn mang đến nhiều lợi ích trong vấn đề tiên
lượng các bệnh nhân ĐTĐ.
Qua đó, chúng ta thấy nếu chỉ đơn thuần
dựa vào một chỉ số glycat hóa để đánh giá biến
chứng thận ĐTĐ có thể dẫn đến bỏ sót chẩn
đoán ở giai đoạn sớm và nhìn nhận vấn đề một
cách không toàn diện. Do vậy, chúng tôi tiến
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 1 * 2015 Nghiên cứu Y học
Nội Tổng quát 181
hành nghiên cứu với mục tiêu khảo sát và so
sánh vai trò của các chỉ số glycat hóa bao gồm:
đường huyết đói, fructosamine, HbA1c, khoảng
trống glycat hóa (GG) trong việc đánh giá bệnh
thận ĐTĐ.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu
Tất cả bệnh nhân được chẩn đoán đái tháo
đường tại phòng khám Thận – BV Đại học Y
Dược TP.HCM từ tháng 05/2014 đến 09/2014.
Tiêu chuẩn chọn vào
Bệnh nhân được chẩn đoán ĐTĐ theo tiêu
chí của Hiệp hội ĐTĐ Hoa Kỳ (ADA) 2013:
HbA1C ≥ 6,5 %
Đường huyết đói ≥ 126 mg/dL (7,8mmol/L).
Đường huyết 2 giờ sau nghiệm pháp dung
nạp glucose ≥ 200 mg/dL (11,1mmol/L).
Đường huyết bất kỳ ≥ 200 mg/dL
(11,1mmol/L) kết hợp với triệu chứng điển hình
của tăng đường huyết (tiểu nhiều, khát nhiều,
gầy nhiều).
Trong trường hợp bệnh cảnh không cấp tính
hoặc không có mất bù chuyển hóa, cần lặp lại
các tiêu chí (1),(2), (3) vào một ngày khác để xác
định chẩn đoán.
Tiêu chuẩn loại trừ
(1) Đang có bệnh hemoglobin đã được chẩn
đoán, thiếu máu (Hb < 11,8 g/dL).
(2) Đang có tình trạng giảm protid máu (< 6,6
g/dL) hoặc giảm albumin máu (< 3,4 g/dL)
(3) BN không đồng ý tham gia nghiên cứu.
Thiết kế nghiên cứu
Cắt ngang phân tích.
Kỹ thuật chọn mẫu
Liên tục không xác suất.
Phương pháp thu thập số liệu
Bệnh nhân được lấy máu tĩnh mạch để đo
đường huyết đói (sau nhịn ăn 8 giờ),
fructosamine, HbA1c, và creatinine huyết thanh.
Đường huyết được định lượng theo phương
pháp hexokinase bằng máy Cobas 6000 của hãng
Roche Diagnostic. Fructosamine được định
lượng theo phương pháp đo quang bằng máy
Cobas 8000 của hãng Roche Diagnostic. HbA1c
được định lượng theo phương pháp sắc ký lỏng
cao áp HPLC bằng máy D10 của hãng BioRad.
Sử dụng phép toán thống kê trên dân số nghiên
cứu để tính phương trình hồi quy tuyến tinh
giữa fructosmine và HbA1c, từ đó xác định
khoảng trống glycat hóa cho từng bệnh nhân
bằng hiệu số giữa trị số HbA1c thực đo được và
HbA1c ước tính theo fructosamine.
Nồng độ creatinine huyết thanh được đo
bằng phương pháp động học hai điểm bằng máy
Cobas 6000 của hãng Roche Diagnostic. Độ lọc
cầu thận ước đoán (eGFR), đơn vị là
ml/phút/1,73m2 da, được tính theo 2 công thức
MDRD (Modification of Diet in Renal Disease
Study) và CKD-EPI Chronic Kidney Disease
Epidemiology Collaboration Study) từ creatinine
huyết thanh theo hướng dẫn của NKDEP
(National Kidney Disease Education Program)(1).
- Công thức MDRD
eGFR (mL/ph/1,73m2 da) = 186 × (creatinine
huyết thanh)-1.154 × (tuổi)-0.203
(Nhân với 0,742 nếu là nữ, nhân với 1,21 nếu
là người da đen.)
- Công thức CKD-EPI
eGFR = 141 x min(Cr/κ, 1)α x max (Cr/κ, 1)-
1.209 x 0,993Tuổi
(Trong đó, κ là 0,7 cho nữ và 0,9 cho nam, α
là -0,329 cho nữ và -0,411cho nam, min là giá trị
nhỏ hơn giữa Cr/κ và 1, and max là giá trị lớn
hơn giữa Cr/κ or 1. Nhân với 1,018 nếu là nữ,
nhân với 1,159 nếu là người da đen.)
Bệnh nhân được lấy mẫu nước tiểu bất kỳ
định lượng albumin và creatinine bằng máy
Acon Mission U500, nhằm xác định mức vi
đạm niệu bằng tỉ số ACR (albuimin-to-
creatinine ratio), đơn vị là mg/g, phân thành 3
nhóm: không tiểu đạm (ACR < 300 mg/g), tiểu
đạm vi thể (ACR 30-300 mg/g), và tiểu đạm đại
thể (ACR > 300 mg/g) theo hướng dẫn của
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 1 * 2015
Chuyên Đề Nội Khoa 182
Standards of Medical Care in Diabetes,
ADA(13).
Xử lý số liệu
Phần mềm STATA 10.0
KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN
Nghiên cứu của chúng tôi thực hiện tại
phòng khám Thận – BV Đại học Y Dược
TP.HCM từ tháng 05/2014 đến tháng 09/2014,
số liệu ghi nhận trên 50 bệnh nhân được chẩn
đoán và điều trị ĐTĐ.
Tuổi và giới
Về phân bố giới tính của nhóm nghiên cứu,
chúng tôi nhận thấy tỉ lệ nam/nữ là 1:1. Thực
hiện phép kiểm so sánh, chúng tôi không ghi
nhận sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về tỉ lệ
mắc ĐTĐ ở 2 giới (P > 0,05). Tuổi trung bình
trong nghiên cứu của chúng tôi là 60,2 ±
11,1tuổi, đa số bệnh nhân trong độ tuổi > 40
(98,0%).
Thời gian phát hiện ĐTĐ
Trong nhóm nghiên cứu có 4 bệnh nhận
lần đầu được chẩn đoán xác định ĐTĐ theo
tiêu chí của ADA 2010, 46 bệnh nhân còn lại đã
biết ĐTĐ từ trước. Chúng tôi tính được thời
gian mắc ĐTĐ trung bình của nhóm nghiên
cứu là 7,0 ± 6,2 năm, trong đó bệnh nhân có
thời gian mắc bệnh lâu nhất là 22 năm (Bảng
1). Kết quả này có sự khác biệt với tác giả Dyck
(8,1 ± 5,7)(6), C.Huang (9,85 ± 7,19)(8,15) và
Nguyễn Thy Khuê (4,05 ± 5,33)(15). Sự khác biệt
này có thể là do nghiên cứu của chúng tôi lấy
mẫu trên nhóm đối tượng bệnh nhân ĐTĐ tại
phòng khám thận, thường là những người đã
xuất hiện biến chứng, bệnh lý ĐTĐ đã diễn
tiến nhiều năm trước; trong khi đó nghiên cứu
của tác giả Nguyễn Thy Khuê chỉ lấy mẫu trên
nhóm đối tượng khám ngoại trú tại phòng
khám nội tiết nên thời gian diễn tiến của bệnh
ĐTĐ chưa kéo dài.
Bảng 1: Thời gian phát hiện ĐTĐ ở nhóm nghiên
cứu
Phát hiện ĐTĐ Số BN (n) Tỷ lệ (%)
< 5 năm 22 44,0%
5 – 10 năm 9 18,0%
≥ 10 năm 19 38,0%
Tổng cộng 50 100%
Mức độ tiểu đạm
Tỷ số Albumin/Creatinine niệu (ACR)
trung bình của nhóm nghiên cứu là 711,9 ±
1241,0 mg/g, dao động từ 2,81 đến 4757,02
mg/g. Nghiên cứu của chúng tôi gồm 18 bệnh
nhân có tiểu đạm vi thể (chiếm 36,0%) và tiểu
đạm đại thể là 15 bệnh nhân (chiếm 30,0%). Số
bệnh nhân có đạm niệu dương tính tập trung
chủ yếu ở nhóm có thời gian bệnh trên 5 năm
với 22/33 người (chiếm 66,7%), khác biệt có ý
nghĩa so với nhóm có thời gian bệnh dưới 5
năm với 6/17 người (35,3% ), P < 0,05.
Bảng 2 – Mức độ tiểu đạm ở nhóm nghiên cứu
Đạm niệu
Thời gian bị ĐTĐ Thời gian bị ĐTĐ trung
bình
P
10 năm
Bình thường 11 4 2 4,1 ± 4,1
Vi thể 7 3 8 8,1 ± 7,4 < 0,05
Đại thể 4 2 9 9,0 ± 5,6
Tổng cộng 22 9 19 7,5 ± 5,8
Ngoài ra, chúng tôi còn ghi nhận sự tương
quan thuận có ý nghĩa ở mức trung bình với R
= 0,336 (P < 0,05) giữa thời gian mắc bệnh ĐTĐ
và mức tiểu đạm. Kết quả này khá phù hợp
với nghiên cứu của tác giả Diệp Thị Thanh
Bình(5) về tần suất tiểu đạm vi thể trên bệnh
nhân ĐTĐ (33,7%); và sự liên quan giữa thời
gian mắc bệnh với mức tiểu đạm (R = 0,53 đối
với ĐTĐ típ 1 và R = 0,04 đối với ĐTĐ típ 2).
Khác biệt về hệ số R ở đây có thể giải thích là
do trong dân số nghiên cứu của mình, chúng
tôi không có sự phân biệt ĐTĐ típ 1 và típ 2
như tác giả Diệp Thị Thanh Bình(5).
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 1 * 2015 Nghiên cứu Y học
Nội Tổng quát 183
Nồng độ Creatinine huyết thanh
Nồng độ Creatinine huyết thanh trung bình
của nhóm nghiên cứu: 1,73 ± 1,92 mg/dL, dao
động từ 0,48 đến 13,20 mg/dL. Theo nghiên cứu
của tác giả Jorien Willems và cộng sự, công thức
CKD-EPI có ít sai lệch hơn công thức MDRD
trong việc ước đoán độ lọc cầu thận trên các
bệnh nhân có mức eGFR cao (> 60
ml/phút/1,73m2 da)(1). Đa số các bệnh nhân trong
nghiên cứu của chúng tôi đều đang ở giai đoạn
tăng lọc của bệnh thận ĐTĐ. Do đó, chúng tôi sử
dụng công thức CKD-EPI để ước đoán độ lọc
cầu thận cho các phép toán thống kê. Kết quả
nghiên cứu của chúng tôi ghi nhận độ lọc cầu
thận ước đoán trung bình (eGFR) theo CKD-EPI
ở nhóm nghiên cứu là 57,7 ± 29,3 mL/phút/1,73
m2 da, trong đó phần lớn bệnh nhân đã bắt đầu
có biểu hiện suy giảm chức năng thận, với số
bệnh nhân có eGFR dưới 60 mL/phút/1,73m2 da
chiếm 52,0%.
Bảng 3 – Độ lọc cầu thần ước đoán theo công thức
CKD-EPI
GFR (mL/phút) Số BN (n) Tỷ lệ (%)
< 15 3 6,0%
15 – 30 5 10,0%
30 – 60 18 36,0%
60 – 90 15 30,0%
> 90 9 18,0%
Tổng cộng 50 100%
Khi thực hiện phép kiểm Spearman, chúng
tôi nhận thấy có mối liên quan nghịch có ý nghĩa
ở mức trung bình giữa thời gian mắc bệnh ĐTĐ
và GFR, với R = -0,395(P < 0,01). Khi so sánh GFR
ở hai nhóm có và không có tiểu đạm, chúng tôi
ghi nhận sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (P <
0,001) với GFR ở nhóm không có tiểu đạm là 76,8
± 22,4 cao hơn hẳn so với nhóm có tiểu đạm là
47,9 ± 27,8 ml/phút/1,73 m2 da. Những kết quả
trên hoàn toàn phù hợp với y văn về diễn tiến tự
nhiên của tổn thương thận trên bệnh nhân ĐTĐ.
Sự hiện diện của giai đoạn tiểu đạm vi thể, kéo
dài khoảng 5 năm, là một điểm đánh dấu đã kết
thúc giai đoạn tăng lọc ban đầu thường, tiếp đó
là giai đoạn tiểu đạm đại thể; và luôn song hành
với đó là sự giảm dần chức năng thận đến bệnh
thận mạn giai đoạn cuối(1,3,5,4).
Đường huyết tĩnh mạch
Đường huyết tĩnh mạch lúc đói (8 giờ sau
ăn) trung bình của nhóm nghiên cứu là 145,9 ±
56,8mg/dL; trong đó có 38,0% bệnh nhân có
đường huyết ở mức kiểm soát tốt (dưới 120
mg/dL), 20,0% ở mức chấp nhận được (120-140
mg/dL), 42,0% có đường huyết ở mức kiểm soát
kém (trên 140 mg/dL). Mức HbA1c trung bình là
7,5 ± 0,9%, đa số bệnh nhân có giá trị HbA1c trên
7,5% (52,0%). Khoảng trống glycat hóa trung
bình trong nhóm nghiên cứu là 0,004 ± 0,714%,
với phương trình hồi quy tuyến tính giữa HbA1c
và fructosamin ở nhóm nghiên cứu là: HbA1c
(%) = 0,0083 x fructosamine (μmol/L) + 5,17 (r =
0,612; P < 0,0001).
Bảng 4 – Giá trị trung bình của các chỉ số glycat hóa
ở nhóm nghiên cứu
Đặc điểm Trung bình
Đường huyết đói (mg/dL) 145,9 ± 56,8
HbA1c thực (%) 7,5 ± 0,9
Fructosamin (µmol/L) 275,8 ± 66,3
HbA1c theo Fructosamin (%) 7,5 ± 0,6
GG (%) 0,004 ± 0,714
GG/HbA1c -0,009 ± 0,099
Chúng tôi ghi nhận khoảng trống GG và tỷ
lệ GG/HbA1c khác biệt có ý nghĩa giữa 2 nhóm
có và không có tiểu đạm đại thể (P < 0,0001),
trong khi đường huyết đói và HbA1c lại không
có sự khác biệt giữa 2 nhóm này (P > 0,05).
Nghiên cứu của tác giả Emmanuel Cosson(4)
cũng cho thấy kết quả tương tự về sự khác biệt
của khoảng trống GG giữa 2 nhóm bệnh nhân có
và không có tiểu đạm đại thể. Trong nghiên cứu
của chúng tôi, nhóm bệnh nhân ĐTĐ không có
tiểu đạm đại thể có khoảng trống GG trung bình
là giá trị âm (-0,262 ± 0,577), còn nhóm bệnh
nhân ĐTĐ có tiểu đạm đại thể lại có khoảng
trống GG trung bình là giá trị dương (0,627 ±
0,617).Điều này chứng tỏ các protein nội bào bị
glycat hóa rất rõ trên các bệnh nhân ĐTĐ có mức
đạm niệu cao, và ủng hộ cho lý thuyết màng lọc
cầu thận bị phá hủy bởi các sản phẩm glycat hóa
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 1 * 2015
Chuyên Đề Nội Khoa 184
cuối cùng (AGEs). Khi khoảng trống GG càng
dương cao thì sự tạo thành AGEs càng nhiều, lỗ
lọc bị dãn rộng và mức đạm niệu trên bệnh nhân
càng lớn(5,4).
Bảng 5 – Giá trị của các chỉ số glycat hóa trong theo dõi mức độ đạm niệu ở nhóm nghiên cứu
Biến số Tiểu đạm đại thể P
Khôngn = 35 Cón = 15
Đường huyết đói (mg/dl) 141,6 ± 48,0 155.9 ± 74.3 > 0,05
HbA1c thực (%) 7,3 ± 0,9 7,8 ± 0,8 > 0,05
Fructosamine (µmol/L) 291,6 ± 65,0 239,1 ± 55,2 < 0,05
HbA1c theo Fructosamine (%) 7,6 ± 0,5 7,2 ± 0,5 < 0,05
GG (%) -0,262 ± 0,577 0,627 ± 0,617 < 0,0001
GG/HbA1c -0,044 ± 0,085 0,074 ± 0,081 < 0,0001
Để có sự so sánh rõ ràng hơn về giá trị của
khoảng trống GG so với đường huyết đói,
fructosamine, và HbA1c, chúng tôi thực hiện
phép kiểm tính hệ số tương quan giữa các chỉ số
đánh giá tình trạng glycat hóa với mức đạm
niệu. Do biến số mức độ đạm niệu (dựa theo tỷ
số ACR) có phân phối không bình thường nên
chúng tôi tính hệ số Spearman (R) để thể hiện mối
tương quan.
Bảng 6 – Hệ số tương quan giữa các chỉ số glycat hóa
và mức độ đạm niệu (tỷ số ACR) ở nhóm nghiên cứu
Biến số R P
Đường huyết đói (mg/dl) 0,03 > 0,05
HbA1c thực (%) 0,236 > 0,05
Fructosamine (µmol/L) - 0,346 < 0,05
HbA1c theo Fructosamine (%) -0,366 < 0,05
GG (%) 0,562 < 0,0001
GG/HbA1c 0,558 < 0,0001
Kết quả ghi nhận khoảng trống GG và tỷ lệ
GG/HbA1c có sự tương quan thuận với đạm
niệu ở mức độ trung bình (R = 0,562 và 0,558; P <
0,0001), so với đường huyết đói và HbA1c không
thấy có sự tương quan này (R = 0,03 và R = 236; P
> 0,05). Chúng tôi cũng ghi nhận sự khác biệt có
ý nghĩa của fructosamine giữa 2 nhóm có và
không có tiểu đạm đại thể (P < 0,05). Khi thực
hiện phép tính hệ số Spearman, chúng tôi nhận
thấy fructosamine có sự tương quan nghịch với
đạm niệu (R = -0,346; P < 0,05). Tác giả
Emmanuel Cosson cũng tìm thấy kết quả tương
tự như trên(4). Fructosamine thể hiện tình trạng
glycat hóa ở các protein ngoại bào, như vậy nếu
các protein ngoại bào bị glycat hóa nhiều thì
không làm ảnh hưởng hoặc thậm chí còn có thể
làm giảm bớt lượng protein nội bào bị glycat
hóa, từ đó dẫn đến giảm mức độ đạm niệu trên
bệnh nhân. Điều này cần được kiểm chứng qua
các nghiên cứu lớn hơn, và có thể mở ra tiềm
năng mới cho việc điều trị các biến chứng mạn
tính của bệnh ĐTĐ.
Dựa trên chỉ số creatinine huyết thanh của
bệnh nhân, chúng tôi tính độ lọc cầu thận ước
đoán (eGFR). Do đa số bệnh nhân trong nghiên
cứu của chúng tôi đều có mức eGFR cao (> 60
ml/phút/1,73m2 da), vì vậy chúng tôi quyết định
chọn công thức CKD-EPI để tính độ lọc cầu thận
ước đoán. Độ lọc cầu thận eGFR có phân phối
bình thường nên chúng tôi tính hệ số Pearson (r)
để so sánh mức độ tương quan giữa các chỉ số
đánh giá tình trạng glycat hóa với độ lọc cầu thận.
Kết quả cho thấy đường huyết đói và fructosamin
không có sự tương quan có ý nghĩa với độ lọc cầu
thận (P > 0,05). Ngược lại, các biến số HbA1c,
khoảng trống GG, và tỷ lệ GG/HbA1c có sự
tương quan nghịch với độ lọc cầu thận ở mức độ
trung bình, trong đó khoảng trống GG có hệ số
Pearson cao nhất (r = -0,491; P < 0,001). Như vậy,
rõ ràng các chỉ số glycat hóa nội bào như HbA1c
và khoảng trống GG có ưu thế hơn các chỉ số
glycat hóa khác trong việc đánh giá tốc độ suy
giảm chức năng thận ở các bệnh nhân ĐTĐ.
Bảng 7 – Hệ số tương quan giữa các chỉ số glycat hóa
và độ lọc cầu thận ở nhóm nghiên cứu
Biến số r P
Đường huyết đói (mg/dl) -0,223 > 0,05
HbA1c thực (%) -0,371 < 0,01
Fructosamine (µmol/L) 0,028 > 0,05
HbA1c theo Fructosamine (%) 0,029 > 0,05
GG (%) -0,491 < 0,001
GG/HbA1c -0,474 < 0,001
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 1 * 2015 Nghiên cứu Y học
Nội Tổng quát 185
Qua kết quả trên, chúng tôi nhận thấy
khoảng trống GG có sự liên quan chặt chẽ với
biến chứng thận trên bệnh nhân ĐTĐ, thể hiện
qua cả mức độ tiểu đạm và độ lọc cầu thận ước
đoán. Nếu chỉ đánh giá đơn thuần HbA1c hoặc
fructosamine, chúng ta sẽ khó có thể nhận định
được protein ngoại bào hay nội bào bị glycat hóa
nhiều hơn. Đặc điểm này của khoảng trống GG
cũng đã được chứng minh qua nghiên cứu của
các tác giả Emmanuel Cosson(4) và Ananth U.
Nayak(13,14). Khoảng trống GG có thể trở thành
một phương tiện đơn giản và hữu ích trên lâm
sàng trong việc tiên lượng lâu dài cho các bệnh
nhân ĐTĐ nếu chúng ta có được những dữ liệu
lớn hơn từ cộng đồng. Như vậy, vấn đề chẩn
đoán và điều trị sớm bệnh thận ĐTĐ, ngăn ngừa
diễn tiến đến suy thận giai đoạn cuối sẽ không
còn là một bài toán khó.
KẾT LUẬN
Qua khảo sát khoảng trống glycat hóa trên
50 bệnh nhân đái tháo đường điều trị ngoại trú
tại Bệnh viện Đại học Y Dược Tp.HCM, chúng
tôi rút ra những kết luận sau:
1. Giá trị trung bình của các chỉ số glycat hóa:
đường huyết đói là 145,9 ± 56,8 mg/dl, HbA1c là
7,5 ± 0,9%, fructosamine là 275,8 ± 66,3 μmol/L,
khoảng trống glycat hóa (GG) là 0,004 ± 0,714%,
không có sự khác biệt có ý nghia giữa hai nhóm
bệnh nhân nam và nữ.
2. Ghi nhận mối tương quan độc lập ở mức
trung bình giữa khoảng trống glycat hóa với
mức độ tiểu đạm (R = 0,561, P < 0,0001) và độ lọc
cầu thận theo CKD-EPI (r = -0,491, P < 0,001).
3. Khoảng trống glycat hóa có vai trò ưu thế
hơn các chỉ số glycat hóa khác như đường huyết,
HbA1c, fructosamine trong việc đánh giá các
biến chứng thận ĐTĐ.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. American Diabetes Association (2010), “Standards of Medical
Care in Diabetes”, Diabetes Care Journals, 11-61.
2. Cohen RM, Holmes YR, Chenier TC, Joiner CH (2003),
“Discordance between HbA1c and fructosamine: Evidence for
a glycosylation gap and its relation to diabetic nephropathy”,
Diabetes Care, 26(1), 163-167.
3. Conen D, Mora S, Buring JE, Glynn RJ (2007), “Blood pressure
and risk of developing type 2 diabetes mellitus: the Women's
Health Study”, Eur Heart Journal, 28 (23), 2937-2943.
4. Cosson E, Banu I, Cussac-Pillegand C, Chen Q, Chiheb S,
Yaha Jaber, Nguyen MT, Charnaux N, Valensi P (2013),
“Glycation gap is associated with macroproteinuria but not
with other complications in patients with type 2 diabetes”,
Diabetes Care, 36, 2070-2076.
5. Diệp Thanh Bình (2001), “Tầm soát Microalbumin niệu bằng
Micral test trên bệnh nhân đái tháo đường”, Tạp chí Y học
TPHCM, Tập 5(4),44-47.
6. Dyck PJ, Davies J, et al (1997), “Longitudinal assessment of
diabetic polyneuropathy using a composite score in the
Rochester Diabetic Neuropathy Study cohort”, Neurology,
229-239.
7. Hội Nội Tiết và Đái tháo đường Việt Nam (2009), “Khuyến cáo
về bệnh Đái tháo đường”, Nhà xuất bản Y Học Hà Nội.
8. Huang CC, et al (2005), “Effect of glycemic control on
electrophysiologic changes of diabetic neuropathy in type 2
diabetic patients”, Kaohsiung Journal of Medical Sciences, 15-
21.
9. Lê Quang Cường (1997), “Tốc độ dẫn truyền thần kinh ở
người Việt Nam trưởng thành bị đái tháo đường”, Tạp chí Y
học thực hành, 4, 9-11.
10. Mai Thế Trạch, Nguyễn Thy Khuê (2007), Nội tiết học đại
cương. Nhà xuất bản Y học Thành phố Hồ Chí Minh.
11. Mozaffarian D, Levantesi G, Silletta MG, Tavazzi L, Tognoni
G, et al. (2007), “Incidence of new-onset diabetes and
impaired fasting glucose in patients with recent myocardial
infarction and the effect of clinical and lifestyle risk factors”,
Lancet, 370 (9588), 667-675.
12. National Kidney Foundation (2002), “KDOQI clinical practice
guidelines for chronic kidney disease evaluation, classification
and stratification”, Guideline 11-Association of level of GFR with
Neuropathy, Part.6, 180-185.
13. Nayak AU, Bassett P, Singh BM (2013), “Association of
glycation gap with mortality and vascular complications in
diabetes”, Diabetes Care, 39, 1-7.
14. Nayak AU, Holland MR, Macdonald DR, Nevill A, Singh BM
(2011), “Evidence for consistency of the glycation gap in
diabetes”, Diabetes Care, 34, 1712-1716.
15. Nguyễn Thy Khuê (1998), “Thông báo về kết quả nghiên cứu
tiền cứu đái tháo đường típ 2 tại Anh”, Tạp chí Y học
TPHCM, 2(3), 3-5.
16. Sacks DB, Nathan DM, Lachin JM (2011), Gaps in the
glycation gap hypothesis, Clinical Chemistry, 57(2), 150-152.
Ngày nhận bài báo: 20/10/2014
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 27/10/2014
Ngày bài báo được đăng: 10/01/2015
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- so_sanh_cac_chi_so_glycat_hoa_trong_van_de_danh_gia_bien_chu.pdf