KẾT LUẬN
Các chỉ số khúc xạ (KXC, KXT, trục) trên
máy KXTĐ chỉ là giá trị tham khảo chứ không
phải là đơn kính cuối cùng cho bệnh nhân. Từ
độ lệch trung bình chỉ số khúc xạ giữa máy
KXTĐ và KXCQ sẽ giúp cho thầy thuốc ước
đoán sơ bộ khúc xạ thật sự của bệnh nhân.
Những giá trị khúc xạ của máy KXTĐ là điểm
khởi đầu giúp cho thầy thuốc tìm kiếm tật
khúc xạ nhanh chóng, giảm bớt thời gian
khám bệnh. Đặc biệt là nó giúp tìm trục kính
trụ khá nhanh chóng.
Có sự khác biệt có ý nghĩa về các chỉ số khúc
xạ theo ký pháp truyền thống lẫn ký pháp khúc
xạ của Fourier.
Hầu hết bệnh nhân khi đo bằng KXTĐ đều
có xu hướng có cận thị trung bình 0,38 D và có
loạn thị trung bình -0,28 D. Mặc dù, mắt đó là
chính thị. Nếu bệnh nhân có loạn thị thực sự thì
máy cho biết trục loạn thị khá chính xác (±50
chiếm 46,4%, với mức ý nghĩa 95%).
Kết quả công suất khúc xạ đo bằng máy
KXTĐ có kết quả tương tự như đo trên Javal kế.
Sự khác biệt không có ý nghĩa về mặt lâm sàng.
5 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 25/01/2022 | Lượt xem: 268 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu So sánh các chỉ số khúc xạ bằng khúc xạ tự động với khúc xạ chủ quan và Javal kế, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Mắt – Tai Mũi Họng 1
SO SÁNH CÁC CHỈ SỐ KHÚC XẠ BẰNG KHÚC XẠ TỰ ĐỘNG
VỚI KHÚC XẠ CHỦ QUAN VÀ JAVAL KẾ
Nguyễn Ngọc Lai*, Trần Anh Tuấn**
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: So sánh các chỉ số khúc xạ bằng khúc xạ tự động với khúc xạ chủ quan (không liệt điều tiết) và
Javal kế.
Đối tượng - Phương pháp nghiên cứu: Đo tật khúc xạ và công suất giác mạc ở 110 bệnh nhân (220 mắt).
Bệnh nhân có tuổi trung bình 12±0,4. một người kỹ thuật viên đo khúc xạ chủ quan và một người khác đo khúc
xạ tự động. Chỉ số công suất giác mạc ở hai kinh tuyến được lấy từ hai máy khúc xạ tự động và từ Javal kế.
Kết quả: Khúc xạ tự động khác biệt có ý nghĩa (p<0,05) với khúc xạ chủ quan (độ chênh là -0,61±0,104D
khúc xạ cầu tương đương). Khoảng đo từ -11,25 đến +4,125D. Chỉ số công suất giác mạc đo trên Canon RK-F1
giống với Javal kế ở kinh tuyến dọc (p>0,05, độ chênh là -0,04±0,04D) nhưng khác biệt có ý nghĩa về công suất
giác mạc ở kinh tuyến ngang (p<0,05, độ lệch là 0,18±0,04D).
Kết luận: Khúc xạ kế tự động cho kết quả khá gần với kết quả của phương pháp khúc xạ chủ quan. Mặc dù,
có khác biệt ý nghĩa khúc xạ cầu tương đương (-0,61D). Sự khác biệt này là do ảnh hưởng của lực điều tiết. Khả
năng đo công suất giác mạc của máy Canon RK-F1 giống như khi đo trên Javal kế.
Từ khoá: khúc xạ, khúc xạ tự động, Javal kế.
ABSTRACT
A COMPARISON OF AUTOREFRACTOMETER AND OBJECTIVE REFRACTION, JAVAL
KERATOMETER
Nguyen Ngoc Lai, Tran Anh Tuan
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 15 - Supplement of No 1 - 2011: 1 - 5
Purpose: A clinical evaluation of the Canon Auto Ref/Keratometer RK-F1 (Japan) was performed to
evaluate validity compared with non-cycloplegic subjective refraction and Javal–Schiotz keratometry.
Methods: Refractive error measurements were obtained from 220 eyes of 110 subjects (aged 12±0.4 years),
subjectively by a optometrist, and objectively with the Canon RK-F1 at a second session. Keratometry
measurements from the Canon RK-F1 were compared to Javal–Schiotz readings.
Results: Refractive error determined by the Canon RK-F1 was found to be different (p<0.05) to subjective
refraction (difference, -0.61±0.104D). The instrument was accurate and reliable over a wide range of refractive
errors (-11.25 to +4.125D). Keratometry as measured by the Canon RK-F1 was found to be similar (p>0.50) to
the Javal-Schiotz technique in the vertical meridian (difference, -0.04±0.04D) but it was different (p<0.05) in the
horizontal meridian (difference, 0.18±0.04D).
Conclusion: Autorefractor show good agreement with subjective refraction. Despite a statistically
significant difference in mean spherical equivalent (-0.61D). Refractive measurements were affected by
accommodation in autorefractor. Keratometry as measured by the Canon RK-F1 was found to be similar to the
Javal-Schiotz technique.
Keywords: Refraction, autorefractometer, Javal keratometer.
* BV Mắt Bình Định, ** Bộ môn Mắt ĐHYD TP.HCM
Tác giả liên lạc: ThS. BS Nguyễn Ngọc Lai ĐT: 0985013421 Email: bslaimat@gmail.com
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011
Chuyên Đề Mắt – Tai Mũi Họng 2
MỞ ĐẦU
Trong những năm gần đây, một số cơ sở
trong nước đã trang bị máy đo khúc xạ tự động
(KXTĐ) có kết hợp đo công suất giác mạc (Auto
Refractor Keratometer), nhờ đó việc thử kính trở
nên thuận lợi và tiết kiệm được thời gian. Ưu
điểm của những lọai máy này là sử dụng đơn
giản, đo nhanh, khách quan và có thể lập lại kết
quả đo nhanh chóng(1,2,4). Đã có những công
trình nghiên cứu về ứng dụng của máy khúc xạ
tự động đơn thuần, tuy nhiên việc đánh giá khả
năng của máy còn chưa thống nhất và còn có
nhiều nhận định trái ngược nhau, đặc biệt là
chưa có những nghiên cứu đánh giá một cách
đầy đủ về khả năng của máy khúc xạ- giác mạc
kế tự động.
Ở những cơ sở điều trị nhãn khoa lớn, quy
trình đo khúc xạ thường được thực hiện theo
thứ tự: đo KXTĐ, soi bóng đồng tử, chỉnh kính
theo phương pháp khúc xạ chủ quan (KXCQ) và
cuối cùng là ghi đơn kính(8). Do đó, nếu chúng ta
đánh giá được độ lệch trung bình các chỉ số
khúc xạ giữa KXTĐ với KXCQ, người thầy
thuốc có thể dự đoán khá chính xác đơn kính
bệnh nhân sẽ mang khi có kết quả KXTĐ. Do đó,
sẽ tiết kiệm được rất nhiều thời gian cho việc thử
kính. Đo công suất giác mạc bằng Javal đòi hỏi
bệnh nhân phải cố định đầu cũng như mắt phải
định thị thật tốt. Người đo cần có kỹ năng nhất
định. Việc đo đạc rất khó thực hiện ở trẻ em. Do
đó, nếu máy KXTĐ có khả năng đo công suất
giác mạc như Javal kế thì việc đo đạc sẽ thuận
lợi hơn khi đo công suất giác mạc.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Tổng cộng có tất cả 110 bệnh nhân (220
mắt) trong nghiên cứu này. Bệnh nhân đến từ
phòng khám khúc xạ của Bệnh viện Mắt thành
phố Hồ Chí Minh từ tháng 6 năm 2009 đến
tháng 6 năm 2010.
Bệnh nhân được chẩn đoán có tật khúc xạ
hay bình thường và đồng ý tham gia nghiên
cứu. Loại trừ những trường hợp bệnh nhân có
bệnh lý về mắt ảnh hưởng đến việc định thị như
rung giật nhãn cầu, lác; Bệnh lý ảnh hưởng đến
môi trường trong suốt như: đục dịch kính, xuất
huyết dịch kính, đục thể thủy tinh hoàn toàn;
Bệnh lý bẩm sinh về mắt như lệch thể thủy tinh;
Và bệnh nhân có biểu hiện về tâm thần.
Chúng tôi chọn bệnh nhân có tuổi từ 7 đến
18. Thị lực trước và sau khi chỉnh kính, đánh giá
bằng bảng thị lực Snellen 5m.
Đánh giá khúc xạ trụ (KXT) qua kết quả soi
bóng đồng tử (SBĐT) và tinh chỉnh bằng kính
trụ chéo Jackson. Khúc xạ cầu (KXC) từ đơn
kính được chọn lựa theo nguyên tắc kính cầu
dương cao nhất và cầu âm thấp nhất cho thị lực
tốt nhất. Các số liệu này lấy từ kết quả đo KXTĐ
và kết quả từ đơn kính bệnh nhân.
Thu thập công suất giác mạc từ hai kinh
tuyến chính, và trục của hai kinh tuyến này qua
máy KXTĐ và máy Javal kế.
Chúng tôi sử dụng máy KXTĐ Canon RK-F1
có chức năng vừa đo khúc xạ vừa đo được công
suất giác mạc. Máy Javal kế của hãng Shin-
Nippon OM1.
Nghiên cứu này là nghiên cứu cắt ngang
phân tích. Chọn loạt ca vào mẫu nghiên cứu.
Trong quá trình phân tích. Chúng tôi chuyển
đổi các số liệu từ đơn kính (ký pháp truyền
thống- S, C, α; trong đó, S là công suất kính cầu,
C công suất kính trụ và α là trục kính cầu) sang
ký pháp của Fourier (vector công suất), tương
đương kính cầu trung bình (Mean Spherical
Equivalent), J0, J45.
Để đổi từ dạng truyền thống sang dạng
lượng giác Fourier ta thực thiện theo công thức:
M = S + C/2; J0 = - cos2(C/2)α; J45 = -
sin2(C/2)α.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Mắt – Tai Mũi Họng 3
Tất cả các kết quả ở bệnh nhân có tật cầu –
trụ dương từ KXCQ và KXTĐ đều được quy
đổi thành cầu – trụ âm.
Dựa theo qui ước các khái niệm trong khảo
sát khúc xạ của Tổ chức Y tế thế giới về tật
khúc xạ trẻ em: gọi là cận thị nếu KXC tương
đương ≤-0,5D; gọi là viễn thị nếu KXC tương
đương ≥2,0D và chính thị nếu KXC tương
đương >-0,5D và <2,0D.
KẾT QUẢ
Đặc điểm của KXC, KXT giữa máy Canon
RK-F1 với KXCQ:
Bảng 1. So sánh khả năng phát hiện tật khúc xạ ở
KXTĐ so với KXCQ.
Có cả 2
phương
pháp
Chỉ có ở
KXCQ
Chỉ có ở
KXTĐ
Bình thường ở
cả hai phương
pháp
201 4 5 10 Tật
KXC 91,36% 1,82% 2,27% 4,55%
109 1 87 23
Tật KXT
49,55% 0,45% 39,55% 10,45%
Bảng 2. Đặc điểm các thành phần khúc xạ trong
MNC từ KXCQ và Canon RK-F1.
KXCQ KXTĐ
Tổng số mắt: 220 KXC KXT KXC KXT
Trung bình -2,00 -0,756 -2,399 -1,033
Độ lệch chuẩn 2,011 1,173 2,207 1,123
Sai số ước lượng 0,266 0,155 0,292 0,148
Sử dụng phép kiểm Chi bình phương để
kiểm định sự phù hợp giữa hai phương pháp
KXTĐ và KXCQ trong việc phát hiện các loại
tật khúc xạ, kết quả Q=74.2 > χ20.05(3) = 7,81.
Như vậy không có sự phù hợp giữa hai
phương pháp này.
Nhóm bị tật khúc xạ phương pháp KXCQ
không phát hiện nhưng có trên kết quả của
KXTĐ, chúng tôi gọi đó sai số đo. Trong MNC
này có 5 mắt chiếm 2,276% có sai số KXC và 87
mắt chiếm 39,55% có sai số KXT.
Kết quả so sánh các cặp KXC, KXT ở hai
phương pháp cho kết quả khác nhau có ý
nghĩa (p<0,05).
Sai số đo
Bảng 3. Sai số khúc xạ của máy Canon RK-F1 trong
MNC.
Sai số đo Khúc xạ cầu Khúc xạ trụ
Số mắt 5 87
Tỷ lệ % 2,27 39,54
Trung bình 0,2 D -0,49 D
Sai số ước lượng 0,24 0,06
Bảng 4. Tỷ lệ sai số KXT của máy Canon RK-F1.
Số mắt Tỷ lệ %
-1,5 D 2 2,3
-1,25 D 2 2,3
-1 D 2 2,3
-0,75 D 14 16,1
-0,5 D 32 36,8
-0,25 D 35 40,2
Tổng cộng 87 100
Chênh lệch KXC, KXT và trục:
Bảng 5. Độ chênh trung bình KXC và KXT giữa
KXTĐ và KXCQ.
KXCQ KXTĐ Độ chênh
Trung bình KXC -2,00±0,27 -2,40±0,29 -0,35±0,08
Trung bình KXT -0,76±0,16 -1,03±0,15 -0,28±0,05
Bảng 6. Tỷ lệ các khoảng chênh KXC và KXT giữa
KXTĐ và KXCQ.
KXC KXT
Số mắt Tỷ lệ % Số mắt Tỷ lệ %
±0,25 D 115 52,27 133 60,5
±0,5 D 163 74,1 180 81,8
±1 D 205 93,2 214 97,3
Bảng 7. Độ chênh trục KXT giữa KXTĐ và KXCQ.
Độ lệch trục Số mắt Tỷ lệ % cộng dồn
±50 102 46,4
±100 39 64,1
±150 27 76,4
±200 18 84,6
>±200 34 100
Tổng cộng 220 100
Chênh lệch vector công suất giữa KXTĐ và
KXCQ
Bảng 8. Các thành phần của Vector công suất.
KXC tương
đương J0 J45
KXTĐ KXCQ KXTĐ KXCQ KXTĐ KXCQ
Số mắt 220 220 220 220 220 220
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011
Chuyên Đề Mắt – Tai Mũi Họng 4
KXC tương
đương J0 J45
KXTĐ KXCQ KXTĐ KXCQ KXTĐ KXCQ
Trung bình -2,915 -2,305 0,431 0,311 -0,279 -0,142
Khoảng ước
lượng 0,017 0,297 0,076 0,081 0,178 0,145
Bảng 9. Chênh lệch trung bình các thành phần Vetor
khúc xạ.
Chênh lệch
KXC tương
đương giữa
KXTĐ và
KXCQ
Chênh lệch
J0 giữa
KXTĐ và
KXCQ
Chênh lệch
J45 giữa
KXTĐ và
KXCQ
Số mắt 220 220 220
Trung bình -0,61 0,12 -0,14
Sai số ước
lượng 0,104 0,035 0,223
- Tính theo KXC tương đương độ nhạy và
độ đặc hiệu của máy Canon RK-F1 lần lượt là:
0,98 và 0,68.
- Sử dụng phép kiểm t để so sánh các kết
quả Vector công suất giữa KXCQ và KXTĐ cho
biết có sự khác biệt giữa kết quả KXC tương
đương (độ lệch trung bình =0,63D; S=0,94;
t=9,972; df=219; p-2 đuôi =0) và thành phần J0
(độ lệch trung bình =-0,12D; S=0,27; t=-6,644;
df=219; p-2 đuôi =0). Không só sự khác biệt
thành phần J45 (độ lệch trung bình =0,14D;
S=1,69; t=1,206; df=219; p-2 đuôi =0,229).
Đặc điểm công suất giác mạc ở hai kinh
tuyến chính (K1 và K2) giữa máy Canon
RK-F1 với Javal kế
Bảng 10. Đặc điểm CSGM ở các kinh tuyến chính.
Javal kế Canon RK-F1
K1 K2 K1 K2
Số mắt 220 220 220 220
Trung bình 43,27 44,75 43,09 44,71
Độ lệch chuẩn 1,513 1,502 1,447 1,469
- CSGM kinh tuyến ngang (K1) đo trên
Javal và trên KXTĐ khác biệt có ý nghĩa
(p<0,05) và CSGM kinh tuyến dọc (K2) đo trên
Javal và trên KXTĐ khác biệt không có ý nghĩa
thống kê (p=0,095).
Chênh lệch trục của kinh tuyến chính trên
Canon RK-F1 và Javal
Độ lệch trục loạn giác mạc trung bình giữa
KXTĐ và Javal là: 4,36±1,260.
Bảng 11. Độ lệch trục kinh tuyến chính giữa Javal và
Canon RK-F1.
Nhóm tuổi
Độ lệch trục
Javal- KXTĐ 7 đến 9 10 đến 12
13 đến
15
16 đến
18
Tổng
cộng
39 41 37 28 145
±5D
17,7% 18,6% 16,8% 12.7% 65,9%
49 59 55 36 199
±10D
22,2% 26,8% 25% 16.3% 90,3%
51 64 56 43 214
±15D
23,1% 29,1% 25,5% 19.5% 97,2%
52 66 58 44 220
±20D
23,6% 30% 26,4% 20% 100%
- Sử dụng phép kiểm t bắt cặp cho độ lệch
trục giữa Javal và KXTĐ: Sử dụng phép kiểm t:
t= 6,77; df= 219; p= 0,0001. Như vậy sự khác biệt
này có ý nghĩa thống kê.
BÀN LUẬN
So sánh kết quả KXC và KXT giữa KXCQ và
KXTĐ có sự khác biệt. Máy KXTĐ có xu hướng
cho kết quả âm hơn so với KXCQ. KXTĐ cho kết
quả KXC âm hơn là kết quả của sự điều tiết của
mắt đo, mặc dù trong cấu trúc của máy có bộ
phận định thị có khả năng làm giảm điều tiết khi
đo. Do đó, việc thư giãn cho bệnh nhân trước
khi đo để hạn chế điều tiết đóng một vai trò rất
lớn trong kết quả đo trên máy KXTĐ(5).
Một số tác giả cho rằng máy KXTĐ sử
dụng nguồn sáng hồng ngoại (bước sóng
khoảng 800 – 900nm) nên nó đi xuyên qua
nhãn cầu rất tốt nhưng nó tạo ra sai số khỏang
–0,5D do sự phản xạ của màng mạch và củng
mạc. Tóm lại, sai số đo là sự tổng hợp của kết
quả từ sai số máy KXTĐ, từ việc định thị của
bệnh nhân (ảnh hưởng của lực điều tiết) và
bản thân của thầy thuốc.
Độ lệch trục chiếm tỷ lệ cao nhất trong tất cả
các nhóm tuổi là khoảng ±50.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Mắt – Tai Mũi Họng 5
Đa số các nghiên cứu trước đây, trên rất
nhiều loại máy KXTĐ khác nhau đều cho kết
quả độ chênh KXC tương đương trung bình
giữa KXTĐ và KXCQ là kết quả âm, nghĩa là kết
quả của KXTĐ âm hơn so với KXCQ. Nguyên
nhân âm hơn là do tác động của lực điều tiết ảnh
hưởng đến kết quả đo. Tuy nhiên, độ lệch của
mỗi nghiên cứu có khác nhau. Kết quả của
chúng tôi gần với kết quả của tác giả Choong
Y.F. nghiên cứu trên máy Retinomax K plus 2(1).
Chúng tôi nhận thấy độ chênh của CSGM đo
trên hai máy là không lớn, điều này có thể được
giải thích là do có sự tương đồng giữa máy
Canon RK-F1 với máy Javal kế. Cả hai cùng sử
dụng chỉ số khúc xạ giác mạc là 1,3375. Phạm vi
đo của Javal – Schiotz và Canon RK-F1 trên giác
mạc đều cùng một cỡ là 5,5mm.
Các giá trị về công suất giác mạc đo trên
máy KXTĐ tương tự như khi đo trên máy
Javal kế. Nghĩa là cả hai máy có giá trị lâm
sàng là như nhau trong việc xác định công suất
giác mạc.
Chỉ số trục của các kinh tuyến chính trên
KXTĐ có độ tin cậy cao hơn so với trục KXT của
KXTĐ so với KXCQ. Vì trục của KXT là độ loạn
tổng hợp của nhãn cầu, gồm cả độ loạn giác mạc
và độ loạn của thể thủy tinh, do đó sẽ ít chính
xác hơn. Trong khi trục của các kinh tuyến chính
giác mạc chỉ phụ thuộc vào giác mạc nên có độ
chính xác cao hơn.
KẾT LUẬN
Các chỉ số khúc xạ (KXC, KXT, trục) trên
máy KXTĐ chỉ là giá trị tham khảo chứ không
phải là đơn kính cuối cùng cho bệnh nhân. Từ
độ lệch trung bình chỉ số khúc xạ giữa máy
KXTĐ và KXCQ sẽ giúp cho thầy thuốc ước
đoán sơ bộ khúc xạ thật sự của bệnh nhân.
Những giá trị khúc xạ của máy KXTĐ là điểm
khởi đầu giúp cho thầy thuốc tìm kiếm tật
khúc xạ nhanh chóng, giảm bớt thời gian
khám bệnh. Đặc biệt là nó giúp tìm trục kính
trụ khá nhanh chóng.
Có sự khác biệt có ý nghĩa về các chỉ số khúc
xạ theo ký pháp truyền thống lẫn ký pháp khúc
xạ của Fourier.
Hầu hết bệnh nhân khi đo bằng KXTĐ đều
có xu hướng có cận thị trung bình 0,38 D và có
loạn thị trung bình -0,28 D. Mặc dù, mắt đó là
chính thị. Nếu bệnh nhân có loạn thị thực sự thì
máy cho biết trục loạn thị khá chính xác (±50
chiếm 46,4%, với mức ý nghĩa 95%).
Kết quả công suất khúc xạ đo bằng máy
KXTĐ có kết quả tương tự như đo trên Javal kế.
Sự khác biệt không có ý nghĩa về mặt lâm sàng.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Choong Y.F., Chen A.H., Goh P.P. (2006). A comparison of
autorefraction and subjective refraction with and without
cycloplegia in primary school children”. Am. J. Ophthalmol.,
142(1): 68 – 74.
2. Davies L.N., Mallen E.A., Wolffsohn J.S., Gilmartin B. (2003).
“Clinical evaluation of the Shin-Nippon Nvision-K
5001/Grand Seiko WR-5100K autorefractor”. Optom. Vis. Sci.,
80(4): 320 – 324.
3. Lam AKC (1999). “The aging effect on corneal curvature and
the validity of Javal’s rule in Hongkong Chinese”. Current Eye
Research, 18(2): 83 – 90.
4. Mallen E.A., Wolffsohn J.S., Gilmartin B, Tsujimura S. (2001).
“Clinical evaluation of the Shin-Nippon SRW-5000
autorefractor in adults”. Ophthalmic Physiol. Opt., 21(2): 101 –
108.
5. Nguyễn Đức Anh (2001). “Đánh giá hiệu quả lâm sàng của
máy đo khúc xạ tự động”. Nội san Nhãn khoa: 64 – 72.
6. Oyo-Szerenyi K.D., Wienecke L., Businger U., Schipper I.
(1997). “Autorefraction/ Autokeratometry and subjective
refraction in untreated and photorefractive keratectomy –
treated eyes”. Arch. Ophthalmol., 115(2): 157 – 221.
7. Pesudovs K, Weisinger HS. (2004). “A comparison of
Autorefractor performance”. Optometry & Vision Science,
81(7): 554 – 558.
8. Phan Hồng Mai, Trần Hoài Long, và cộng sự (2003). “Khảo sát
các phương pháp đo khúc xạ tại bệnh viện Mắt TP.HCM”. Y
học TP.HCM, 7(3): 46 – 49.
9. Sheppard A.L., Davies L.N. (2010). “Clinical evaluation of the
Grand Seiko Auto Ref/Keratometer WAM – 5500”.
Ophthalmic Physiol. Opt., 30(2): 143 – 194.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- so_sanh_cac_chi_so_khuc_xa_bang_khuc_xa_tu_dong_voi_khuc_xa.pdf