So sánh vai trò của cộng hưởng từ khuếch tán
với các phương pháp chọc hút kim nhỏ và sinh
thiết tức thì trong chẩn đoán phân biệt nhân lành
tính và ác tính của tuyến giáp
Qua các kết quả mục 3.2 chúng tôi nhận thấy các
giá trị độ nhạy, độ đặc hiệu, giá trị dự báo dương tính,
giá trị dự báo âm tính, độ chính xác của cộng hưởng từ
khuếch tán tại b200 với cut-off ADC 1,98x10-3mm2/s lần
lượt là 100%; 81%; 66,7%; 100%; 86,2%, cao hơn của
chọc hút kim nhỏ với các giá trị trên lần lượt là 71,4%;
64,3%; 50%; 81,8%; 66,7% nhưng thấp hơn sinh thiết
tức thì với các giá trị trên đều là 100%.
Theo tác giả Davoudi (1997) nghiên cứu trên 100
bệnh nhân làm chọc hút kim nhỏ, sinh thiết lạnh tức thì,
tế bào học cuối cùng thấy chọc kim nhỏ: không xác định
23%, Acc 77% trong nhóm lành tính, 92% trong nhóm
ác tính, sinh thiết lạnh tức thì: không xác định 7%, Acc
96% trong nhóm lành tính, 64% trong nhóm ác tính [9].
Theo tác giả Hung-Yu Chang (1997) nghiên cứu
trên 662 bệnh nhân chọc hút kim nhỏ, trong đó có 586
sinh thiết lạnh tức thì thấy chọc hút kim nhỏ: không xác
định 22.4% (23% của số này là ác tính), sinh thiết lạnh
tức thì: PPV 97%, NPV 95.5% [10].
Theo tác giả Boutin (2003) nghiên cứu có trên 163
bệnh nhân nhận thấy trong số những tổn thương ác
tính, sinh thiết lạnh tức thì có Sn 73%, Sp 99%, chọc
hút kim nhỏ có Sn 40%, Sp 100% [11].
Theo tác giả Pinchot (2009) nghiên cứu có 97
bệnh nhân có u tuyến giáp>4cm nhận thấy chọc tế bào
trước mổ có 34 bệnh nhân không kết luận được, 52
bệnh nhân lành tính trên chọc kim nhỏ có 26 (50%)
bệnh nhân chẩn đoán giải phẫu bệnh cuối cùng sau mổ
là ác tính [12].
Như vậy kết quả giá trị của chọc hút kim nhỏ và
sinh thiết tức thì chẩn đoán xác định ung thư tuyết giáp
trong nghiên cứu của chúng tôi khá tương đồng với các
kết quả khác, đều khẳng định chọc hút kim nhỏ có giá trị
rất thấp, sinh thiết tức thì có giá trị cao trong chẩn đoán
ung thư tuyến giáp.
Qua đây chúng tôi đề xuất đối với những cơ sở
không có điều kiện sinh thiết tức thì trong mổ thì cộng
hưởng từ là phương pháp rất tốt chẩn đoán ung thư
tuyến giáp, có giá trị cao hơn chọc hút tế bào.
7 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 3 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu So sánh giá trị của cộng hưởng từ khuếch tán và chọc hút kim nhỏ trong chẩn đoán xác định ung thư tuyến giáp, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 13 - 08 / 2013 173
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
SCIENTIFIC RESEARCH
SUMMAry
SO SÁNH GIÁ TRỊ CỦA CỘNG HƯỞNG TỪ
KHUẾCH TÁN VÀ CHỌC HÚT KIM NHỎ
TRONG CHẨN ĐOÁN XÁC ĐỊNH UNG THƯ
TUYẾN GIÁP
Compare between DWI and fnac in dignostis thyroid
cancer
Lê Tuấn Linh*, Bùi Văn Lệnh*, Nguyễn Văn Hiếu**, Nguyễn Duy Huề**
Retrospective study on 21 patients (29 thyroid nodules:
21 benign nodules, 7 malignant nodules) who were acquired
the diffusion-weighted magnetic resonance imaging (DW-MRI)
with 200, 300, 400, 500, 600, 700, 800 b values and ADC maps
were calculated, fine needle aspiration cytology (FNAC) were
performed in 21 nodules. Diagnosis confirmed by postsurgical
histopathologic examinations. Results: ADC values of nodules
provide useful data about the nature of a thyroid nodule, with
b200 DW-MRI, the mean ADC values of thyroid nodules were
1.45±0,30x10-3mm2/s in the malignant group and 2.26±0.33x
10-3mm2/s in the benign group, with significantly different (P<
0.001). According to an ADC cut-off value of 1.98x10-3mm2/s, the
sensitivity, specificity, positive predictive value, negative predictive
value, and accuracy in differentiating benign from malignant
thyroid nodules are calculated as 100%; 81%; 66.7%; 100% and
86.2%, respectively. The DW-MRI has the higher values than
FNAC for diagnosis of thyroid cancer. We can applied DW-MRI
for diagnosis of thyroid nodule in the hospital which do not have
frozen section biopsies’s practice.
* Bộ môn Chẩn đoán hình ảnh,
Trường Đại học Y Hà Nội.
** Bộ môn Ung thư, Trường
Đại học Y Hà Nội.
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 13 - 08 / 2013174
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Ung thư tuyến giáp là ung thư khá phổ biến, chiếm
1% ung thư các loại, là ung thư phổ biến nhất của hệ
nội tiết chiếm khoảng 90%, tỉ lệ tử vong chiếm 63%
trong tổng số tử vong do ung thư các tuyến nội tiết [1].
Về chẩn đoán ung thư tuyến giáp, ngoài dựa vào
lâm sàng của bệnh, còn rất nhiều phương pháp chẩn
đoán xét nghiệm và hình ảnh khác như: xét nghiệm tế
bào học, mô bệnh học, định lượng hóc môn trục yên-
giáp, các chất chỉ điểm khối u, đo độ tập trung I131 tại
tuyến giáp, ghi hình nhấp nháy phóng xạ tuyến giáp,
siêu âm, chụp cắt lớp vi tính, chụp cộng hưởng từ
Các phương pháp chẩn đoán này có giá trị chẩn đoán
xác định, chẩn đoán giai đoạn của u, trong đó các
phương pháp chẩn đoán hình ảnh thường được chỉ
định với mục đích đánh giá mức độ xâm lấn tại chỗ của
khối u, đánh giá di căn hạch vùng cổ.
Điều trị ung thư tuyến giáp hiện nay cơ bản vẫn
dựa trên phẫu thuật cắt bỏ u và tuyến giáp một phần
hay toàn bộ, nạo vét hạch cổ chọn lọc hay hệ thống,
sau đó kết hợp điều trị hỗ trợ bằng I131, xạ trị và điều
trị hóc môn. Trong đó quan trọng nhất vẫn là cắt bỏ u
và tuyến giáp, nạo vét hạch cổ di căn ban đầu. Trên
thực tế trước một bệnh nhân có u tuyến giáp, sẽ được
khám lâm sàng và cận lâm sàng, nếu nghi ngờ là ung
thư bằng chọc hút kim nhỏ hay sinh thiết tức thì trong
mổ sẽ được cắt toàn bộ tuyến giáp, nếu xác định lành
tính sẽ cắt bán phần. Tuy nhiên, phương pháp chọc
hút kim nhỏ có độ chính xác không cao, sinh thiết tức
thì trong mổ chỉ một số cơ sở mới làm được, vì vậy một
số bệnh nhân phải mổ cắt toàn bộ tuyến giáp thì hai
hoặc bị cắt toàn bộ tuyến giáp không cần thiết và phải
điều trị nội tiết thay thế suốt đời [1], [2], [3]. Chính vì
vậy yêu cầu một phương pháp chẩn đoán có độ chính
xác cao trước mổ ở bệnh nhân u tuyến giáp rất quan
trọng đối với chiến lược phẫu thuật và tiên lượng bệnh
nhân sau này.
Gần đây với sự ra đời của các máy chụp cộng
hưởng từ có từ lực cao 1.5Tesla trở lên, có chuỗi xung
khuếch tán đo được cụ thể giá trị độ khuếch tán biểu
kiến (ADC- Apparent Diffusion Coefficient) được kì vọng
là phương pháp chẩn đoán hình ảnh không xâm phạm,
giúp chẩn đoán xác định ung thư tuyến giáp trước điều
trị. Hiện nay cũng mới chỉ một số ít tác giả trên thế giới
nghiên cứu và công bố kết quả khả quan về mối tương
quan chặt chẽ giữa giá trị ADC và tính chất lành tính
hay ác tính của u tuyến giáp, với số lượng bệnh nhân
chưa lớn, chưa được chính thức công nhận trong các
hiệp hội ung thư thế giới. Còn ở Việt Nam thì hoàn toàn
chưa có tác giả nào nghiên cứu về một đề tài tương tự
của tuyến giáp.
Chính vì vậy nhóm nghiên cứu tiến hành nghiên
cứu đề tài “Vai trò của giá trị khuếch tán biểu kiến trong
chẩn đoán phân biệt nhân lành tính và ác tính của tuyến
giáp” với mục tiêu:
1. Xác định mốc ranh giới của giá trị khuếch tán
biểu kiến trong chẩn đoán phân biệt nhân lành tính và
ác tính của tuyến giáp.
2. So sánh vai trò của cộng hưởng từ khuếch tán
với các phương pháp chọc hút kim nhỏ và sinh thiết tức
thì trong chẩn đoán phân biệt nhân lành tính và ác tính
của tuyến giáp.
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1. Đối tượng nghiên cứu
Các bệnh nhân có tổn thương khu trú ở tuyến giáp
trên cộng hưởng từ. Có thể có hoặc không có chẩn
đoán tế bào học, sinh thiết tức thì.
Đã được chụp cộng hưởng từ 1.5Tesla tại Bệnh
viện Đại học Y Hà Nội trước phẫu thuật đúng kĩ thuật
chụp đề ra, đã được phẫu thuật, có chẩn đoán xác định
giải phẫu bệnh.
2. Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu tiến cứu, mô tả cắt ngang.
Phương tiện nghiên cứu: máy chụp cộng hưởng
từ 1.5 Tesla của GE Signa HDXt.
Kĩ thuật chụp cộng hưởng từ tuyến giáp
+ T2W cắt ngang, T2W xóa mỡ đứng ngang.
+ T1W không xóa mỡ cắt ngang, T1W có xóa mỡ
trước và sau tiêm, cắt ngang.
+ Chuỗi xung khuếch tán Diffusion cắt ngang với
các trị số b khác nhau (200,300,400,500,600,700,800).
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 13 - 08 / 2013 175
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Các biến số nghiên cứu
- Đối với mục tiêu 1: xác định mốc ranh giới của giá
trị khuếch tán biểu kiến trong chẩn đoán phân biệt nhân
lành tính và ác tính của tuyến giáp.
Tiến hành phân tích hình ảnh chụp cộng hưởng từ
theo bệnh án mẫu, đánh giá các giá trị ADC của khối u
trên, tính bằng chỉ số tuyệt đối, đơn vị mm2/s, đo ở các
giá trị b200, 300, 400, 500, 600, 700, 800.
Sau đó tiến hành phân tích: các giá trị khuếch tán
biểu kiến thu được sẽ được phân tích dựa vào đường
cong ROC (Receiver Operating Characteristic), tiêu
chuẩn vàng là kết quả giải phẫu bệnh 48h sau mổ, để
rút ra kết luận giá trị b nào có ý nghĩa cao nhất và đưa
ra mốc ranh giới (cut-off) của giá trị ADC trong chẩn
đoán phân biệt nhân lành tính và ác tính của tuyến giáp
trên cộng hưởng từ.
- Đối với mục tiêu 2: so sánh vai trò của cộng
hưởng từ khuếch tán với phương pháp chọc hút kim
nhỏ và sinh thiết tức thì trong chẩn đoán phân biệt nhân
lành tính và ác tính của tuyến giáp.
Sau khi xác định được mốc ranh giới giá trị ADC
trong chẩn đoán phân biệt nhân lành tính và ác tính của
tuyến giáp, sẽ dựa vào đó tính các giá trị độ nhạy, độ
đặc hiệu, giá trị dự báo dương tính, giá trị dự báo âm
tính, độ chính xác của cộng hưởng từ.
Tiến hành đối chiếu các giá trị trên của cộng hưởng
từ với 2 phương pháp chọc hút kim nhỏ, sinh thiết tức
thì, để từ đó kết luận phương pháp nào có giá trị hơn.
III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
1. Xác định mốc ranh giới của giá trị khuếch tán
biểu kiến trong chẩn đoán phân biệt nhân lành tính
và ác tính của tuyến giáp
Tiến hành đo giá trị ADC thấp nhất của khối tổn
thương (loại trừ vị trí dịch và vôi hóa) trên các giá trị
b200, 300, 400, 500, 600, 700, 800.
Với 21 bệnh nhân đủ tiêu chuẩn chọn mẫu, có tổng
số 29 nhân tổn thương được đo, có 8 nhân ác tính, 21
nhân lành tính, tuy nhiên chỉ với các b nhỏ là 200, 300,
400 mới đo được tất cả các nhân, một số nhân nhỏ
không đo được trên các b lớn hơn vì nhiễu ảnh, cụ thể
trên b500 đo được 28 nhân, b600 đo được 25 nhân,
b700 đo được 23 nhân, b800 đo được 20 nhân.
Các giá trị ADC của từng giá trị b được chia làm
hai nhóm: lành tính và ác tính, với tiêu chuẩn vàng và
giải phẫu bệnh cuối cùng sau mổ, để tính giá trị ADC
trung bình của từng nhóm và so sánh 2 giá trị trung bình
này bằng T-test. Các kết quả thu được ở bảng 1.
Sau đó tiến hành lập đường cong ROC đối với từng
giá trị B, so sánh diện tích dưới đường cong của các giá
trị b khác nhau. Tiến hành phân tích đường cong ROC,
chúng tôi chọn ra được giá trị ADC cut-off có ý nghĩa
nhất đối với từng b và thu được bảng 2 (giá trị cut-off
của ADC là vị trí mà tổng số dương tính thật và âm tính
thật lớn nhất, tức là độ chính xác Acc lớn nhất).
Bảng 1. Giá trị ADC của ung thư tuyến giáp trên cộng hưởng từ với các giá trị b khác nhau
Tính chất
tổn thương
ADC trung bình (x10-3 mm2/s)
b200
N=29
b300 N=29 b400 N=29
b500
N=28
b600
N=25
b700
N=23
b800
N=20
Lành tính 2.26±0,33 2,23±0,47 1,99±0,46 2,05±0,33 2,04±0,39 1,95±0,33 1,87±0,36
Ác tính 1.45±0,30 1,44±0,48 1,33±0,.43 1,31±0,40 1,32±0,35 1,22±0,29 1.08±0,27
P <0,001 <0,001 0.02 <0,001 <0,001 <0,001 <0,001
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 13 - 08 / 2013176
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
2. So sánh vai trò của cộng hưởng từ khuếch tán
với các phương pháp chọc hút kim nhỏ và sinh
thiết tức thì trong chẩn đoán phân biệt nhân lành
tính và ác tính của tuyến giáp
Qua bảng 2, chúng tôi nhận thấy mặc dù ADC có
giá trị nhất trong chẩn đoán xác định ung thư tuyến giáp
tại các vị trí b200, b800 nhưng do b800 có nhiều nhiễu
nên không đo được những nhân nhỏ (số nhân đo được
là 20/29), nên chúng tôi dùng giá trị ADC tại b200 để đại
diện so sánh với phương pháp chọc hút kim nhỏ, sinh
thiết tức thì.
Bảng 2. Diện tích dưới đường cong ROC, điểm cut-off của từng giá trị b
và các giá trị trong chẩn đoán xác định ung thư tuyến giáp tương ứng.
b200 b300 b400 b500 b600 b700 b800
Số nhân N 29 29 29 28 25 23 20
Diện tích 0,958 0,869 0,869 0,913 0,913 0,946 0,976
Cut - off 1.98 1.88 1,65 1.68 1.62 1,74 1,59
Sn (%) 100 87,5 87,5 87,5 85,7 100 100
Sp (%) 81 81 81 85 88,9 81,3 85,7
Acc (%) 86,2 82,8 82,8 85,7 88 87 90
Hình 1. Hình ảnh đo ADC trên b200 nhân giáp.
Biểu đồ 1. Đường cong ROC của giá trị b200.
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 13 - 08 / 2013 177
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
2.1. So sánh vai trò của cộng hưởng từ khuếch
tán với chọc hút kim nhỏ trong chẩn đoán phân biệt
nhân lành tính và ác tính của tuyến giáp
Chỉ có 21/29 nhân tuyến giáp được chọc tế bào
học trước phẫu thuật. Đối chiếu với kết quả giải phẫu
bệnh cuối cùng sau mổ, chúng tôi thu được bảng 3.
Bảng 3. Giá trị của chọc hút kim nhỏ trong chẩn đoán
xác định ung thư tuyến giáp
Giải phẫu bệnh
sau mổ
Chọc hút kim nhỏ
Ác tính Lành tính
Ác tính 5 2
Lành tính 5 9
Qua bảng 3 chúng tôi tính được: Sn: 71,4%; Sp:
64,3%; PPV: 50%; NPV: 81,8%; Acc: 66,7%. So sánh
với kết quả của cộng hưởng từ tại b200 thì cộng hưởng
từ có giá trị chẩn đoán cao hơn chọc hút kim nhỏ.
2.2. So sánh vai trò của cộng hưởng từ khuếch
tán với sinh thiết tức thì trong chẩn đoán phân biệt
nhân lành tính và ác tính của tuyến giáp
Chỉ có 11/29 nhân tuyến giáp được làm sinh thiết
tức thì trong phẫu thuật. Đối chiếu với kết quả giải phẫu
bệnh cuối cùng sau mổ, chúng tôi thu được bảng 4.
Bảng 4. Giá trị của sinh thiết tức thì trong chẩn
đoán xác định ung thư tuyến giáp
Giải phẫu bệnh
sau mổ
Sinh thiết tức thì
Ác tính Lành tính
Ác tính 4 0
Lành tính 0 7
Qua bảng 5 chúng tôi tính được: Sn: 100%; Sp:
100%; PPV: 100%; NPV: 100%; Acc: 100%. So sánh
với kết quả của cộng hưởng từ tại b200 thì cộng hưởng
từ có giá trị chẩn đoán thấp hơn sinh thiết tức thì trong
phẫu thuật.
IV. BÀN LUẬN
1. Giá trị khuếch tán biểu kiến trong chẩn đoán
phân biệt nhân lành tính và ác tính của tuyến giáp
Qua bảng 1 chúng tôi nhận thấy, giá trị ADC trung
bình của nhóm nhân ác tính cao hơn so với nhóm
nhân lành tính với sự khác biệt có ý nghĩa thống kê
cao p≤0,02. Đồng thời phân tích các giá trị diện tích
dưới đường cong ROC trong bảng 2, chúng tôi nhận
thấy diện tích dưới đường cong đều rất cao. Hai nhận
xét này giúp khẳng định giá trị của phương pháp chẩn
đoán dựa vào ADC là tốt - rất tốt, tại các b200 và b800
diện tích dưới đường cong là cao nhất, tức là biến số
ADC tại các b200 và b800 có giá trị nhất trong tiên
lượng nhân lành hay ác tính của tuyến giáp. Tuy nhiên
do trên chuỗi xung khuếch tán b800 có nhiều nhiễu
nên không đo được những nhân nhỏ (số nhân đo được
là 20/29), nên chúng tôi đề xuất chỉ cần dùng chuỗi
xung khuếch tán b200 để đại diện đánh giá hiệu quả
chẩn đoán của ADC trong phân biệt nhân lành hay ác
tính của tuyến giáp.
Khi đó giá trị ADC trung bình của nhóm nhân ác
tính và lành tính lần lượt là: 1.45±0,30x10-3mm2/s và
2.26±0,33x10-3mm2/s, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê
với p<0,001, giá trị cut-off của ADC là 1,98x10-3mm2/s,
giá trị độ nhạy, độ đặc hiệu, giá trị dự báo dương tính,
giá trị dự báo âm tính, độ chính xác lần lượt là 100%;
81%; 66,7%; 100%; 86,2%.
Theo tác giả Abdel Razek (2008) nghiên cứu
trên 67 bệnh nhân kết luận ADC trung bình của ung
thư tuyến giáp là 0,73±0,19x10-3mm2/s, khác biệt với
các bướu nhân lành tính khác là 1,8±0,27x10-3 mm2/s
(p<0,0001), điểm cut-off của ADC là 0,98 x10-3 mm2/s
thì độ nhạy, độ đặc hiệu, độ chính xác của cộng hưởng
từ lần lượt là 97,5%; 91,7%; và 98,9% [4].
Tác giả Srinivasan (2008) nghiên cứu trên 33
bệnh nhân chụp cộng hưởng từ 3T với các khối
u vùng cổ trong đó có u tuyến giáp nhận thấy giá trị
ADC của u lành tính là 1,505±0,48710-3mm2/s, ác tính
là 1,071±0,29310-3mm2/s, khác biệt p<0,004, cut-off là
1,310-3mm2/s [5].
Tác giả Bozgeyik (2009) nghiên cứu trên 93 nhân
tuyến giáp, thu được giá trị ADC trung bình trong nhóm
ác tính và lành tính lần lượt là: 0,96±0,65x10-3mm2/s và
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 13 - 08 / 2013178
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
3,06±0,71x10-3mm2/s ở B100, 0,56±0,43x10-3mm2/s và
1,80±0,60x10-3mm2/s ở b200, 0,30±0,20x10-3mm2/s và
1,15±0,43x10-3mm2/s ở b300 [6].
Tác giả Nakahira (2012) nghiên cứu trên 38 bệnh
nhân có 42 nhân tuyến giáp kết luận có sự khác biệt
có ý nghĩa về giá trị ADC giữa 2 nhóm lành tính và ác
tính, với cut-off của ADC là 1,60x10-3mm2/s thì giá trị
độ nhạy, độ đặc hiệu, độ chính xác lần lượt là 94,73%;
82,60%; 88,09% [7].
Tác giả Mutlu (2012) nghiên cứu trên 44 bệnh nhân
nhân tuyến giáp được chụp cộng hưởng từ khuếch tán
b 50, 400 và 1000, so sánh tỉ lệ tín hiệu ADC: (nhân
giáp-tủy sống)/nhân giáp nhận thấy có sự tương quan
cao giữa tỉ lệ này và giải phẫu bệnh của tổn thương, cụ
thể trong nhóm lành tính tỉ lệ trung bình là 0,27, trong
nhóm ác tính là 0,86. Nếu chọn cut-off là 0,56 thì giá trị
độ nhạy, độ đặc hiệu, giá trị dự báo dương tính, giá trị
dự báo âm tính, độ chính xác lần lượt là 100%; 97%;
83%; 100%; 98% [8].
Qua so sánh với các tác giả trên chúng tôi nhận
thấy tuy giá trị ADC trung bình của nhóm u lành tính/
ác tính và điểm cut-off có khác nhau (vì giá trị này phụ
thuộc tương đối vào các dòng máy cộng hưởng từ khác
nhau, các giá trị b khác nhau), nhưng các tác giả cũng
đều có nhận xét chung khẳng định giá trị của ADC trong
chẩn đoán phân biệt ung thư tuyến giáp là rất cao.
2. So sánh vai trò của cộng hưởng từ khuếch tán
với các phương pháp chọc hút kim nhỏ và sinh
thiết tức thì trong chẩn đoán phân biệt nhân lành
tính và ác tính của tuyến giáp
Qua các kết quả mục 3.2 chúng tôi nhận thấy các
giá trị độ nhạy, độ đặc hiệu, giá trị dự báo dương tính,
giá trị dự báo âm tính, độ chính xác của cộng hưởng từ
khuếch tán tại b200 với cut-off ADC 1,98x10-3mm2/s lần
lượt là 100%; 81%; 66,7%; 100%; 86,2%, cao hơn của
chọc hút kim nhỏ với các giá trị trên lần lượt là 71,4%;
64,3%; 50%; 81,8%; 66,7% nhưng thấp hơn sinh thiết
tức thì với các giá trị trên đều là 100%.
Theo tác giả Davoudi (1997) nghiên cứu trên 100
bệnh nhân làm chọc hút kim nhỏ, sinh thiết lạnh tức thì,
tế bào học cuối cùng thấy chọc kim nhỏ: không xác định
23%, Acc 77% trong nhóm lành tính, 92% trong nhóm
ác tính, sinh thiết lạnh tức thì: không xác định 7%, Acc
96% trong nhóm lành tính, 64% trong nhóm ác tính [9].
Theo tác giả Hung-Yu Chang (1997) nghiên cứu
trên 662 bệnh nhân chọc hút kim nhỏ, trong đó có 586
sinh thiết lạnh tức thì thấy chọc hút kim nhỏ: không xác
định 22.4% (23% của số này là ác tính), sinh thiết lạnh
tức thì: PPV 97%, NPV 95.5% [10].
Theo tác giả Boutin (2003) nghiên cứu có trên 163
bệnh nhân nhận thấy trong số những tổn thương ác
tính, sinh thiết lạnh tức thì có Sn 73%, Sp 99%, chọc
hút kim nhỏ có Sn 40%, Sp 100% [11].
Theo tác giả Pinchot (2009) nghiên cứu có 97
bệnh nhân có u tuyến giáp>4cm nhận thấy chọc tế bào
trước mổ có 34 bệnh nhân không kết luận được, 52
bệnh nhân lành tính trên chọc kim nhỏ có 26 (50%)
bệnh nhân chẩn đoán giải phẫu bệnh cuối cùng sau mổ
là ác tính [12].
Như vậy kết quả giá trị của chọc hút kim nhỏ và
sinh thiết tức thì chẩn đoán xác định ung thư tuyết giáp
trong nghiên cứu của chúng tôi khá tương đồng với các
kết quả khác, đều khẳng định chọc hút kim nhỏ có giá trị
rất thấp, sinh thiết tức thì có giá trị cao trong chẩn đoán
ung thư tuyến giáp.
Qua đây chúng tôi đề xuất đối với những cơ sở
không có điều kiện sinh thiết tức thì trong mổ thì cộng
hưởng từ là phương pháp rất tốt chẩn đoán ung thư
tuyến giáp, có giá trị cao hơn chọc hút tế bào.
V. KẾT LUẬN
Qua nghiên cứu bước đầu trên 21 bệnh nhân với
29 nhân tuyến giáp, gồm 8 nhân ác tính, 21 nhân lành
tính, được chụp cộng hưởng từ khuếch tán, một số
có kết quả chọc tế bào, sinh thiết tức thì, đều được
làm giải phẫu bệnh sau mổ, chúng tôi rút ra một số
kết luận sau:
Cộng hưởng từ khuếch tán có giá trị cao trong chẩn
đoán xác định ung thư tuyến giáp, có thể lấy chuỗi xung
hệ số khuếch tán b200 làm đại diện, khi đó giá trị ADC
trung bình của nhóm nhân ác tính và lành tính lần lượt
là: 1.45±0,30x10-3mm2/s và 2.26±0,33x10-3mm2/s, sự
khác biệt có ý nghĩa thống kê với p<0,001, giá trị cut-off
của ADC là 1,98x10-3mm2/s, giá trị độ nhạy, độ đặc hiệu,
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 13 - 08 / 2013 179
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
giá trị dự báo dương tính, giá trị dự báo âm tính, độ
chính xác lần lượt là 100%; 81%; 66,7%; 100%; 86,2%.
Cộng hưởng từ khuếch tán có giá trị cao hơn chọc
hút tế bào trước mổ, kém hơn sinh thiết tức thì trong mổ
để chẩn đoán xác định ung thư tuyến giáp, vì vậy với
những cơ sở không có điều kiện làm sinh thiết tức thì
trong mổ thì cộng hưởng từ khuếch tán là phương pháp
hữu hiệu cần được chỉ định.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Văn Hiếu (2010). Điều trị phẫu thuật
bệnh ung thư. Nhà xuất bản Y học; 152-164.
2. Tạ Văn Bình (1998). Vấn đề chẩn đoán các
bướu nhân giáp trạng. Y học thực hành số 11; 13-16.
3. Nguyễn Văn Thành (2000). Đặc điểm giải phẫu
bệnh – lâm sàng của ung thư tuyến giáp nguyên phát. Y
học Thành phố HCM. Số đặc biệt chuyên đề ung bướu
học. Tập 4; số 4; 114-121.
4. Abdel Razek AAK, Sadek AG (2008). Role
of ADC values in differentiation between malignant
and benign solitary thyroid nodules. Am J Neuroradiol
29(3):563–568.
5. Srinivasan A,Dvorak R (2008). Differentiation
of benign and malignant pathology in the head and
neck using 3T ADC values: early experience. AJNR Am
J Neuroradiol;29:40–44.
6. Bozgeyik Z, Coskun S (2009). Diffusion-
weighted MR imaging of thyroid nodules. Neuroradiology
51(3):193–198.
7. Nakahira M, Saito N (2012). Quantitative
diffusion weighted magnetic resonance imaging as
apowerful adjunct to fine needle aspiration cytology
for assessment of cold thyroid nodules. Am J
Otolaryngol;33(4):408-16.
8. Mutlu H, Sivrioglu AK (2012). Role of apparent
diffusion coefficient values and diffusion-weigthed
magnetic resonance imaging in differentiation between
benign and malignant thyroid nodules. Clin Imaging;
36(1):1-7.
9. Davoudi MM , Yeh KA (1997). Utility of
fine-needle aspiration cytology and frozen-section
examination in the operative management of thyroid
nodules. Am Surg; 63(12):1084-9.
10. Hung-Yu Chang, Jen-Der Lin (1997).
Correlation of fine needle aspiration cytology and frozen
section biopsies in the diagnosis of thyroid nodules. J
Clin Pathol;50:1005-1009.
11. Boutin P , Bozorg Grayeli A (2003). Results of
fine needle aspiration biopsy, frozen section diagnosis
and definite histological results in thyroid pathology.
Report of 163 cases. Rev Laryngol Otol Rhinol;
124(1):59-63.
12. Scott N. Pinchot (2009). Accuracy of fine-
needle aspiration biopsy for predicting neoplasm
or carcinoma in thyroid nodules 4 cm or larger. Arch
Surg;144(7):649-655.
TÓM TẮT
Nghiên cứu tiến cứu trên 21 bệnh nhân (29 nhân tuyến giáp: 8 nhân ác tính, 21 nhân lành tính), được chụp
cộng hưởng từ khuếch tán với các giá trị b200, 300, 400, 500, 600, 700, 800 và đo giá trị ADC, 21 nhân có chọc hút
tế bào, được đối chiếu với giải phẫu bệnh sau mổ.
Kết quả: cộng hưởng từ khuếch tán có giá trị cao trong chẩn đoán xác định ung thư tuyến giáp, có thể lấy chuỗi
xung hệ số khuếch tán b200 làm đại diện, khi đó giá trị ADC trung bình của nhóm nhân ác tính và lành tính lần lượt
là: 1.45±0,30x10-3mm2/s và 2.26±0,33x10-3mm2/s, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p<0,001, giá trị cut-off của
ADC là 1,98x10-3mm2/s, giá trị độ nhạy, độ đặc hiệu, giá trị dự báo dương tính, giá trị dự báo âm tính, độ chính xác
lần lượt là 100%; 81%; 66,7%; 100%; 86,2%. Cộng hưởng từ khuếch tán có giá trị cao hơn chọc hút tế bào trước
mổ để chẩn đoán xác định ung thư tuyến giáp, vì vậy với những bệnh viện không có điều kiện làm sinh thiết tức thì
trong mổ thì cộng hưởng từ khuếch tán là phương pháp hữu hiệu cần được chỉ định.
NGƯỜI THẨM ĐỊNH: TS Vũ Đăng Lưu
Các file đính kèm theo tài liệu này:
so_sanh_gia_tri_cua_cong_huong_tu_khuech_tan_va_choc_hut_kim.pdf