Ứng dụng kết quả nghiên cứu vào lâm sàng
Nghiên cứu tìm thấy AMH có giá trị dự đoán tốt
nhất, kế đến là AFC và cuối cùng là FSH trong dự đoán
đáp ứng buồng trứng. Do đó, các trung tâm TTTON
chỉ cần thực hiện AMH để dự đoán đáp ứng kém,
nếu không có điều kiện xét nghiệm AMH, có thể chỉ
thực hiện AFC, nhằm giảm chi phí xét nghiệm cho
bệnh nhân. Trong thực tế lâm sàng, đôi khi giá trị của
các xét nghiệm khảo sát dự trữ buồng trứng không
tương đồng với nhau như một số trường hợp AMH
thấp nhưng FSH bình thường, Áp dụng kết quả của
nghiên cứu này, các bác sĩ sẽ dựa vào kết quả của xét
nghiệm nào có giá trị dự đoán tốt nhất để sử dụng.
Tỉ lệ thai lâm sàng của nhóm đáp ứng kém (≤ 3
noãn) trong nghiên cứu này là thấp, khoảng 8%, so
với không đáp ứng kém là 36,5%. Như vậy, việc dự
đoán đáp ứng kém trước khi điều trị là hết sức có ý
nghĩa trong tư vấn chiến lược điều trị, sử dụng phác
đồ và liều thuốc KTBT phù hợp cũng như chuẩn bị
tâm lý cho bệnh nhân, cho họ biết về cơ hội thành
công của mình. Ngoài ra, nghiên cứu này cũng dự
đoán tình trạng đáp ứng kém trầm trọng, phải hủy
chu kỳ do không nang phát triển. Các bệnh nhân có
AMH ≤ 0,77 ng/ml, AFC ≤ 4 hay FSH > 10,7 IU/L nên
được tư vấn biện pháp xin noãn để cải thiện kết quả.
Các giá trị ngưỡng của các xét nghiệm AMH, FSH và
AFC trong nghiên cứu này được thực hiện trên một cỡ
mẫu lớn người Việt Nam, có các đặc điểm nhân chủng
học của người Việt Nam và bộ kit xét nghiệm được sử
dụng là loại mới nhất (AMH Gen II assay), do đó, có
thể áp dụng để dự đoán đáp ứng kém cho bệnh nhân
người Việt Nam. Một vấn đề của các giá trị ngưỡng
của các xét nghiệm là giá trị dự đoán dương khá thấp,
trong khi giá trị dự đoán âm khá cao. Như vậy, khi sử
dụng các xét nghiệm và giá trị ngưỡng để tư vấn cho
bệnh nhân trước điều trị, cần xem xét thêm các dữ
kiện lâm sàng khác của bệnh nhân.
6 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 11 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu So sánh giá trị dự đoán của AMH, FSH và ÀC đối với đáp ứng kém và hủy chu kỳ do không nang phát triển ở bệnh nhân thụ tinh ống nghiệm, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Vương Thị ngọc Lan, Võ Minh TuấnNGHIÊN CỨU
Tập 12, số 01
Tháng 4-2014
Tạp chí Phụ Sản
28
Tác giả liên hệ (Corresponding author): Vương Thị Ngọc Lan, email: drlan@yahoo.com.vn
Ngày nhận bài (received): 27/12/2013. Ngày phản biện đánh giá bài báo (revised): 09/02/2014. Ngày bài báo được chấp nhận đăng (accepted): 10/02/2014
Đặt vấn đề
Đáp ứng kém với kích thích buồng trứng (KTBT)
xảy ra trong khoảng 10-20% chu kỳ điều trị thụ tinh
trong ống nghiệm (TTTON) [3]. Đáp ứng kém là từ
dùng để chỉ nhóm bệnh nhân có ít nang noãn phát
triển, có ít noãn chọc hút được, và do đó, cơ hội có
thai từ chu kỳ điều trị rất thấp. Tiêu chuẩn chẩn đoán
đáp ứng kém rất thay đổi tùy theo nghiên cứu. Gần
đây, Hiệp hội Sinh sản người và Phôi học Châu Âu
đã thống nhất tiêu chuẩn chẩn đoán đáp ứng kém
nhằm tạo sự đồng thuận giữa các nghiên cứu, từ đó,
có thể sử dụng và so sánh kết quả của các nghiên
Vương Thị ngọc Lan, Võ Minh Tuấn
Bộ môn Phụ Sản, Đại học Y Dược TPHCM
Tóm tắt
Giới thiệu: Đáp ứng kém với kích thích buồng trứng
(KTBT) có liên quan với số noãn thu được ít và tỉ lệ có thai
thấp. Dự đoán đáp ứng kém trước điều trị có ý nghĩa quan
trọng trong tư vấn và điều trị cho bệnh nhân, giảm gánh
nặng tâm lý, thể chất và chi phí cho họ khi điều trị thụ tinh
trong ống nghiệm.
Mục tiêu: So sánh giá trị của AMH, FSH, AFC và xác
định giá trị ngưỡng của các xét nghiệm này trong dự
đoán đáp ứng kém với KTBT.
Phương pháp: Nghiên cứu đoàn hệ tiền cứu trên
820 bệnh nhân. Mỗi bệnh nhân được thực hiện cả 3 xét
nghiệm AMH, FSH và AFC vào ngày thứ 2 của chu kỳ kinh.
Đáp ứng kém được chẩn đoán ở 2 mức độ: ≤ 3 noãn chọc
hút được và hủy chu kỳ do không nang noãn phát triển.
Kết quả: Tỉ lệ đáp ứng kém (≤ 3 noãn) là 13,8% và hủy
chu kỳ là 3,4%. AMH có giá trị dự đoán tốt nhất, kế đến
là AFC và sau cùng là FSH. AMH ≤ 1,25 ng/ml (độ nhạy
86,7%, độ đặc hiệu 84,8%) dự đoán đáp ứng kém; AMH ≤
0,77 ng/ml (độ nhạy 96,4%, độ đặc hiệu 84,4%) dự đoán
hủy chu kỳ.
Kết luận: AMH có giá trị tốt nhất trong dự đoán đáp
ứng kém và hủy chu kỳ. Việc áp dụng kết quả nghiên cứu
và giá trị ngưỡng của xét nghiệm vào thực hành lâm sàng
cần xem xét thêm điều kiện của trung tâm và các dữ kiện
lâm sàng khác của bệnh nhân.
Từ khóa: Giá trị dự đoán, AMH, FSH, AFC, đáp ứng
kém với kích thích buồng trứng
Abstract
A COMPARISON OF THE ACCURACY OF AMH, FSH, AND
AFC FOR PREDICTING POOR OVARIAN RESPONSE AND CYCLE
CANCELLATION IN IN-VITRO FERTILIZATION
Introduction: Poor ovarian response to controlled
ovarian stimulation is associated with low numbers of
oocytes retrieved and low pregnancy rate. Prediction of
ovarian response is vital for the pre-treatment counseling
and management of these patients, reducing their
psychological, physical and financial burden.
Objectives: To compare the accuracy of AMH, FSH,
and AFC and to indentify their cut-offs for predicting
ovarian response.
Methods: A prospective cohort study was conducted
on 820 patients. Each patient had AMH, FSH and AFC
measured on cycle day 2. Poor ovarian response was
diagnosed when patients had ≤ 3 oocytes retrieved or
had the cycle cancelled due to no follicular development.
Results: The rate of poor response was 13.8% and
cycle cancellation was 3.4%. The AMH test was the most
accurate in predicting poor ovarian response, followed
by AFC, and the least accurate predictive test was the
FSH. AMH ≤ 1.25 ng/ml predicted poor ovarian response
of ≤ 3 oocytes with a sensitivity of 86.7% and specificity
of 84.8%; AMH ≤ 0.77 ng/ml predicted cycle cancellation
with a sensitivity of 96.4% and specificity of 84.5%.
Conclusion: AMH has the highest accuracy in
predicting poor ovarian response. Clinicians who adopt
the study results and cut-off values into clinical practice
should further consider the capability of the center
and other patients’ information in order to counsel the
patients about the possibility of being poor responders,
their success rate, their choice of treatment methods, and
the appropriate protocol and dosage of FSH for ovarian
stimulation.
Keywords: predictive value, AMH, FSH, AFC, poor
ovarian response
SO SÁNH GIÁ TRỊ DỰ ĐOÁN CỦA AMH, FSH và AFC ĐỐI
vỚI ĐÁP ỨNG KÉM và HỦY CHU KỲ DO KHÔNG NANG
PHÁT TRIỂN Ở BỆNH NHÂN THỤ TINH ỐNG NGHIỆM
Tập 12, số 01
Tháng 4-2014
Tạp chí Phụ Sản
29
Tạp chí phụ sản - 12(1), 28-33, 2014
cứu để tìm ra chiến lược điều trị thích hợp cho các
bệnh nhân này [3].
Đáp ứng buồng trứng kém đưa đến kết quả có thai
thấp, là một nguyên nhân chính gây bỏ dở điều trị, tác
động sâu sắc đến tâm lý và tốn kém chi phí điều trị cho
bệnh nhân. Dự đoán đáp ứng kém với kích thích buồng
trứng có vai trò quan trọng trong việc tư vấn cho bệnh
nhân trước điều trị thụ tinh ống nghiệm về cơ hội có
thai của họ, về khả năng xin trứng nhằm cải thiện số
lượng trứng, số phôi và cơ hội có thai, từ đó, giảm gánh
nặng về vật chất và tinh thần cho bệnh nhân cũng như
giảm tỉ lệ bỏ dở điều trị của thụ tinh ống nghiệm. Có
khá nhiều nghiên cứu về dự đoán đáp ứng kém với kích
thích buồng trứng, tuy nhiên, việc ứng dụng các kết quả
nghiên cứu vào thực hành lâm sàng còn khó khăn do sự
khác biệt về tiêu chuẩn chẩn đoán, các bộ kit xét nghiệm
được sử dụng khác nhau, cỡ mẫu của nghiên cứu khá
nhỏ và các giá trị ngưỡng được xác định để chẩn đoán
đáp ứng kém cũng rất khác nhau.
Tại Việt Nam, thụ tinh ống nghiệm ngày càng
phát triển. Nhu cầu dự đoán đáp ứng buồng trứng, từ
đó, cá thể hóa từng bệnh nhân khi kích thích buồng
trứng là cần thiết nhằm giảm gánh nặng điều trị, tăng
hiệu quả và giảm biến chứng cho bệnh nhân. Các
khảo sát thường được các trung tâm thụ tinh trong
ống nghiệm ở Việt Nam sử dụng để dự đoán đáp
ứng buồng trứng gồm: FSH, AFC và gần đây là AMH.
Số lượng nghiên cứu dự đoán đáp ứng kém với kích
thích buồng trứng ở Việt Nam còn rất hạn chế. Một
số nghiên cứu về vấn đề này ghi nhận AMH, FSH và
AFC trước điều trị [7,11] là các yếu tố liên quan và dự
đoán đáp ứng kém. Chưa có nghiên cứu nào so sánh
giá trị dự đoán của 3 xét nghiệm FSH, AMH và AFC đối
với đáp ứng kém với kích thích buồng trứng. Chúng
tôi thực hiện nghiên cứu này nhằm so sánh giá trị
dự đoán đáp ứng kém với kích thích buồng trứng và
xác định các giá trị ngưỡng chẩn đoán đáp ứng kém
của các xét nghiệm FSH, AMH và AFC. Mục tiêu của
nghiên cứu là:
1. So sánh giá trị dự đoán của các xét nghiệm AMH,
FSH và AFC đối với đáp ứng kém với kích thích buồng
trứng thụ tinh ống nghiệm.
2. Xác định giá trị ngưỡng của các xét nghiệm AMH,
FSH và AFC trong dự đoán đáp ứng buồng trứng kém.
Phương pháp nghiên cứu
1. Thiết kế nghiên cứu: Nghiên cứu đoàn hệ tiền cứu.
2. Đối tượng nghiên cứu:
Tiêu chuẩn nhận:
• Tuổi ≤ 45, BMI ≤ 25 kg/m2
• Kích thích buồng trứng thụ tinh ống nghiệm lần
đầu bằng phác đồ GnRH đối vận
• Đồng ý tham gia vào nghiên cứu
Tiêu chuẩn loại
• Có sử dụng thuốc kích thích buồng trứng trong
vòng 2 tháng trước lần điều trị này
• Rối loạn nội tiết như tăng Prolactin máu, bệnh
lý tuyến giáp, suy tuyến yên, hội chứng buồng trứng
đa nang
• Các bệnh nhân không hoàn thành kích thích
buồng trứng ví lý do cá nhân mà không vì lý do đáp
ứng kém với KTBT
3. Địa điểm và thời gian tiến hành nghiên cứu
Nghiên cứu được thực hiện tại đơn vị Hỗ trợ Sinh sản
Bệnh viện An Sinh từ tháng 12/2012 đến tháng 12/2013.
4. Phương pháp tiến hành
• Định lượng AMH, FSH và AFC: được thực hiện
vào ngày 2 của chu kỳ kinh. Bệnh nhân được rút 3 ml
máu cho vào ống nghiệm không có chất chống đông,
sau đó, tách huyết thanh trong vòng 1 giờ sau khi lấy
máu để định lượng FSH và AMH. Mẫu huyết thanh sau
đó được trữ lạnh ở -200C. Xét nghiệm được thực hiện
trong vòng 24 giờ sau khi lấy máu. Định lượng FSH
được thực hiện bằng phương pháp miễn dịch điện hóa
phát quang (Electrochemilunescence, Roche, Đức).
Định lượng AMH trong máu được thực hiện sử dụng
AMH Gen II Elisa assay (Beckman Coulter, Mỹ). Đếm
AFC được thực hiện bằng siêu âm đầu dò âm đạo với
tần số 7,5 MHz (Capasee II, Toshiba, Nhật).
• Kích thích buồng trứng: Kích thích buồng trứng
được thực hiện với phác đồ GnRH đối vận. Bệnh nhân
được tiêm FSH tái tổ hợp (Gonal F, Merck-Serono, Mỹ)
dưới da bụng từ ngày thứ 2 của chu kỳ kinh. GnRH đối
vận (Cetrotide, Merck-Serono, Mỹ) được bắt đầu tiêm
dưới da bụng từ ngày 5 của FSH với liều 0,25mg/ngày
cho đến ngày khởi động trưởng thành noãn. Liều
đầu FSH: được xác định dựa trên tuổi của bệnh nhân.
Nếu bệnh nhân < 36 tuổi, liều đầu 225 IU/ngày; bệnh
nhân ≥ 36 tuổi thì sử dụng liều đầu 300 IU/ngày [8]
• Chọc hút noãn, thụ tinh và chuyển phôi: Chọc
hút noãn được tiến hành 36 giờ sau tiêm thuốc gây
trưởng thành noãn. Thụ tinh được thực hiện bằng
phương pháp tiêm tinh trùng vào bào tương noãn
(ICSI). Chuyển phôi được thực hiện 2 ngày sau chọc
hút noãn. Thử thai được thực hiện 14 ngày sau chuyển
phôi. Thai lâm sàng được xác nhận khi có túi thai có
phôi và hoạt động tim thai trong buồng tử cung.
5. Cỡ mẫu
Với mục tiêu chính là so sánh giá trị của AMH, FSH
và AFC trong dự đoán đáp ứng kém với buồng trứng,
Vương Thị ngọc Lan, Võ Minh TuấnNGHIÊN CỨU
Tập 12, số 01
Tháng 4-2014
Tạp chí Phụ Sản
30
cỡ mẫu được tính theo công thức so sánh độ chính
xác của 2 xét nghiệm bằng cách so sánh diện tích dưới
đường cong (AUC) của hai đường cong ROC. Trước
tiên, cỡ mẫu được tính theo công thức tính cỡ mẫu
để so sánh 2 diện tích dưới đường cong ROC dành
cho thiết kế không bắt cặp, sau đó được hiệu chỉnh
cho thiết kế bắt cặp vì các xét nghiệm được thực hiện
trên cùng một bệnh nhân. Cỡ mẫu cuối cùng được
hiệu chỉnh cho tỉ lệ mất mẫu dự đoán là 10%.
Tỉ lệ đáp ứng buồng trứng kém là 14,8% [11]. Các
diện tích dưới đường cong của các xét nghiệm dự
đoán đáp ứng kém với KTBT là: của AMH là 0,97 [11],
của FSH là 0,83 [5] và của AFC là 0,83 [5]. Thay vào
các công thức trên, cỡ mẫu tính được là 162 bệnh
nhân. Cỡ mẫu sau khi hiệu chỉnh mất mẫu 10% là
180 bệnh nhân. Ngoài ra, để khử yếu tố gây nhiễu
kết quả đáp ứng buồng trứng là liều đầu FSH, cỡ
mẫu tối thiểu cuối cùng cần thu thập là 360 (gồm
180 bệnh nhân cho nhóm bệnh nhân < 36 tuổi được
dùng liều đầu FSH là 225 IU/ngày và 180 bệnh nhân
cho nhóm bệnh nhân ≥ 36 tuổi được dùng liều đầu
FSH là 300 IU/ngày).
6. Các biến số cần nghiên cứu
• Biến số nền: tuổi, BMI, thời gian vô sinh, loại vô
sinh, chỉ định TTTON
• Biến số độc lập: AMH, FSH, AFC, tổng liều FSH,
thời gian KTBT
• Biến số phụ thuộc: tỉ lệ bệnh nhân đáp ứng
buồng trứng kém (ở 2 mức độ gồm ≤ 3 noãn chọc
hút được và không có nang phát triển ở N5 của KTBT
phải hủy chu kỳ điều trị), tỉ lệ thai lâm sàng, tỉ lệ quá
kích buồng trứng
7. Phương pháp thu thập và xử lý số liệu
Số liệu được thu thập thông qua bảng thu thập số
liệu và xử lý bằng phần mềm thống kê SPSS 19.0 và
MedCalc 12.0. Số liệu được trình bày bằng các bảng, biểu
phù hợp. Giá trị p <0,05 được xem là có ý nghĩa thống kê.
Kết quả
Từ tháng 12/2012 đến 12/2013, có 820 bệnh nhân
tham gia vào nghiên cứu. Có 2 bệnh nhân hủy chu kỳ
do lý do cá nhân (0,2%). Có 790 bệnh nhân được chọc
hút noãn và 719 bệnh nhân có chuyển phôi. Có 28 bệnh
nhân hủy chu kỳ do không có nang noãn phát triển,
chiếm tỉ lệ 3,4%. Số bệnh nhân đáp ứng kém (≤ 3 noãn
chọc hút được) là 113, chiếm tỉ lệ 13,8%.
1. Đặc điểm bệnh nhân
Tuổi trung bình của bệnh nhân trong nghiên cứu
này là 35,03 ± 5 với BMI (kg/m2) 20,96 ± 1,94. Thời gian
vô sinh trung bình là 48 tháng. Chỉ định TTTON gồm
tai vòi (22%), do chồng (43,2%), chưa rõ nguyên nhân
(15,8%), lớn tuổi (10,4%) và khác (8,7%). Trung vị và
khoảng tứ phân vị của các xét nghiệm dự đoán đáp
ứng buồng trứng trước KTBT như sau: AMH 2,37ng/ml
(1,11-4,34), FSH 6,89 IU/L (5,82-8,62) và AFC 9 (5-14).
2. Kết quả kích thích buồng trứng
Kết quả kích thích buồng trứng và tạo phôi được
phân tích trên các bệnh nhân hoàn thành kích thích
buồng trứng và có chọc hút noãn, gồm 790 bệnh
nhân. Thời gian kích thích buồng trứng trung bình là
8,96 ± 1,4 ngày với tổng liều FSH sử dụng trung bình
là 2346 ± 516 IU. Nồng độ estradiol ở ngày khởi động
trưởng thành noãn có trung vị là 2668 pg/ml (Khoảng
tứ phân vị: 1328 – 6621). Số noãn chọc hút được là
10,5 ± 6,8, số noãn trưởng thành là 8,8 ± 5,7 và số
phôi tạo được là 6,3 ± 4,5.
3. Kết quả chuyển phôi
Có 719 trường hợp được chuyển phôi. Số phôi
chuyển trung bình là 3,02 ± 0,9 (1 – 5). Số phôi dư
được trữ lạnh trung bình là 1,6 ± 2,7 (0 – 16).
Tỉ lệ thai lâm sàng chung tính trên số chu kỳ nhận
vào nghiên cứu là 31,3% (256/818), tính trên số trường
hợp có chuyển phôi là 35,6% (256/719). Tỉ lệ đa thai (≥
2 thai), thai lưu, thai ngoài tử cung lần lượt là 7,5%, 2%
và 1%. Tỉ lệ làm tổ của phôi (được tính bằng tổng số
túi thai trên siêu âm/tổng số phôi chuyển) là 15,6%
(339/2171). Có 4 trường hợp quá kích buồng trứng
được ghi nhận, chiếm tỉ lệ 0,5%, trong đó 2 trường
hợp mức độ trung bình và 2 trường hợp nhẹ.
Có 113 trường hợp đáp ứng kém ≤ 3 noãn chọc
hút được, tỉ lệ 13,8%. Tỉ lệ có thai ở nhóm đáp ứng
kém là 8% (9/113), trong khi đó, ở nhóm không đáp
ứng kém là 36,5% (247/677).
4. So sánh giá trị của AMH, FSH và AFC trong dự
đoán đáp ứng buồng trứng kém
Đáp ứng kém trong nghiên cứu này được chúng
tôi đánh giá ở 2 mức độ gồm (1) các bệnh nhân đáp
ứng kém trầm trọng, không có nang phát triển khi
tiêm thuốc kích thích buồng trứng, nhóm này được
gọi là nhóm hủy chu kỳ do không nang phát triển và
(2) các bệnh nhân có nang phát triển ít, được thực
hiện chọc hút noãn nhưng có ≤ 3 noãn thu được.
Xét
nghiệm
Dự đoán đáp ứng kém (≤ 3 noãn) Dự đoán hủy chu kỳ do không nang phát triển
auc 95% KTc p auc 95% KTc p
aMh 0,92 0,90-0,95 <0,01 0,92 0,86-0,98 <0,01
Fsh 0,75 0,69-0,80 <0,01 0,79 0,67-0,91 <0,01
aFc 0,88 0,85-0,92 <0,01 0,91 0,87-0,94 <0,01
Bảng1. Diện tích dưới đường cong ROc của các xét nghiệm aMh, Fsh và aFc dự đoán
đáp ứng buồng trứng kém (≤ 3 noãn) và hủy chu kỳ do không nang phát triển
Tập 12, số 01
Tháng 4-2014
Tạp chí Phụ Sản
31
Tạp chí phụ sản - 12(1), 28-33, 2014
Xét nghiệm
Dự đoán đáp ứng kém (≤ 3 noãn) Dự đoán hủy chu kỳ do không nang phát triển
giá trị ngưỡng Độ nhạy Độ đặc hiệu ppV npV giá trị ngưỡng Độ nhạy Độ đặc hiệu ppV npV
aMh (ng/ml) ≤1,25 86,7% 84,8% 48,8 97,5 ≤0,77 96,4% 84,4% 18,0 99,9
Fsh (iu/L) >8,94 57,5% 85,4% 39,6 92,3 >10,7 75% 89,6% 20,4 99,0
aFc ≤5 78,7% 85,9% 48,4 96,0 ≤4 85,7% 83,1% 15,3 99,4
Bảng2. giá trị ngưỡng các xét nghiệm aMh, Fsh và Fsh dự đoán đáp ứng buồng trứng kém (≤ 3 noãn) và hủy chu kỳ do không nang phát triển
ppV: giá trị dự đoán dương; npV: giá trị dự đoán âm
Khi so sánh sự khác biệt giữa các diện tích dưới
đường cong (AUC) của AMH, FSH và AFC trong dự
đoán đáp ứng buồng trứng kém (≤ 3 noãn), kết quả
cho thấy AMH có độ chính xác cao nhất, kế đến là AFC
và cuối cùng là FSH (p<0,001) (biểu đồ 1A) (phương
pháp Hanley & McNeil). Với dự đoán khả năng hủy chu
kỳ do không nang phát triển, AUC của AMH lớn hơn
có ý nghĩa thống kê so với FSH, nhưng không khác
so với AFC, đồng thời AUC của AFC cũng không khác
biệt so với FSH (biểu đồ 1B). Như vậy có thể nói AMH
có độ chính xác cao nhất trong dự đoán đáp ứng kém
và hủy chu kỳ, tiếp theo là AFC và cuối cùng là FSH.
Bàn luận
Tiêu chuẩn chẩn đoán đáp ứng kém
Tiêu chuẩn chẩn đoán đáp ứng kém là rất khác nhau
giữa các trung tâm, có nơi dựa trên số noãn thu được, có
nơi chọn số nang phát triển hay tỉ lệ hủy chu kỳ điều trị,
Do đó, việc sử dụng kết quả của các nghiên cứu vào thực
hành lâm sàng gặp nhiều khó khăn. Gần đây, Hiệp hội
Sinh sản ngưởi và Phôi học Châu Âu đã họp tại Bologna
năm 2011 và đưa ra đồng thuận về tiêu chuẩn chẩn
đoán đáp ứng kém (tiêu chuẩn Bologna) dựa trên các xét
nghiệm khảo sát dự trữ buồng trứng và các yếu tố tiên
lượng đáp ứng buồng trứng [3]. Trong nghiên cứu này,
chúng tôi chọn tiêu chuẩn đáp ứng kém theo Bologna
để thống nhất với các trung tâm khác về tiêu chuẩn chẩn
đoán và có thể so sánh kết quả của nghiên cứu này với
Biểu đồ 1. so sánh diện tích dưới đường cong ROc (auc) của aMh, Fsh và aFc trong dự đoán đáp ứng buồng trứng kém (≤ 3 noãn) (a) và trong dự đoán hủy chu kỳ do không nang phát triển (B)
Tác giả liên hệ (Corresponding author): Vương Thị Ngọc Lan, email: drlan@yahoo.com.vn. Ngày nhận
bài (received): 27/12/2013. Ngày phản biện đánh giá bài báo (revised): 09/02/2014. Ngày bài báo được
chấp nhận đăng (accepted): 10/02/2014
Biều đồ 1. So sánh diện tích dưới đường cong ROC (AUC) của AMH, FSH và AFC trong dự
đoán đáp ứng buồng trứng kém (≤ 3 noãn) (A) và trong dự đoán hủy chu kỳ do không nang phát
triển (B)
Dự đoán đáp ứng kém
0 20 40 60 80 100
0
20
40
60
80
100
100-Specificity
Se
ns
iti
vi
ty AMH
AFC
FSH
Dự đoán hủy chu kỳ
0 20 40 60 80 100
0
20
40
60
80
100
100-Specificity
Se
ns
iti
vi
ty AMH
AFC
FSH
BÀN LUẬN
Tiêu chuẩn chẩn đoán đáp ứng kém
Tiêu chuẩn chẩn đoán đáp ứng kém là rất khác nhau giữa các trung tâm, có nơi dựa trên số noãn
thu được, có nơi chọn số nang phát triển hay tỉ lệ hủy chu kỳ điều trị,.Do đó, việc sử dụng kết
quả của các nghiên cứu vào thực hành lâm sàng gặp nhiều khó khăn. Gần đây, Hiệp hội Sinh sản
ngưởi và Phôi học Châu Âu đã họp tại Bologna năm 2011 và đưa ra đồng thuận về tiêu chuẩn
chẩn đoán đáp ứng kém (tiêu chuẩn Bologna) dựa trên các xét nghiệm khảo sát dự trữ buồng
trứng và các yếu tố tiên lượng đáp ứng buồng trứng [3]. Trong nghiên cứu này, chúng tôi chọn
tiêu chuẩn đáp ứng kém theo Bologna để thống nhất với các trung tâm khác về tiêu chuẩn chẩn
đoán và có thể so sánh kết quả của nghiên cứu này với các nghiên cứu khác. Ngoài ra, chúng tôi
cũng phân tích thêm trên nhóm bệnh nhân đáp ứng kém trầm trọng, phải hủy chu kỳ vì không có
nang phát triển với mong muốn có thể tiên lượng những bệnh nhân nào thuộc nhóm này từ trước
khi KTBT để tư vấn họ về việc hủy chu kỳ có thể xảy ra, xem xét khả năng xin noãn hơn là
KTBT, giảm chi phí sử dụng thuốc KTBT cho bệnh nhân.
Giá trị AMH, FSH và AFC trong dự đoán đáp ứng kém và hủy chu kỳ do không nang phát
triển
Nghiên cứu này ghi nhận cả 3 xét nghiệm AMH, FSH và AFC đều có giá trị dự đoán đáp ứng
kém và hủy chu kỳ. Trong cả 3 xét nghiệm này, AMH có giá trị tốt nhất, kế đến là AFC và cuối
cùng là FSH. Trong một phân tích gộp được thực hiện bởi Broer và cs. (2009) [1], tác giả so sánh
giá trị của AMH và AFC trong dự đoán đáp ứng buồng trứng kém, ghi nhận AMH và AFC có độ
chính xác tương đương nhau. Tuy nhiên, các nghiên cứu được chọn vào phân tích gộp sử dụng
tiêu chuẩn chấn đoán kém lại không thống nhất. Một nghiên cứu khác tại Việt Nam cũng ghi
nhận AMH có liên quan chặt chẽ nhất với số noãn thu được so với AFC và FSH, tuy nhiên,
nghiên cứu có cỡ mẫu nhỏ (53 bệnh nhân) và tiêu chuẩn chẩn đoán khác với chúng tôi (< 5 noãn)
[5].
A B
các nghiên cứu khác. Ngoài ra, chúng tôi cũng phân tích
thêm trên nhóm bệnh nhân đáp ứng kém trầm trọng,
phải hủy chu kỳ vì không có nang phát triển với mong
muốn có thể tiên lượng những bệnh nhân nào thuộc
nhóm này từ trước khi KTBT để tư vấn họ về việc hủy chu
kỳ có thể xảy ra, xem xét khả năng xin noãn hơn là KTBT,
giảm chi phí sử dụng thuốc KTBT cho bệnh nhân.
Giá trị AMH, FSH và AFC trong dự đoán đáp
ứng kém và hủy chu kỳ do không nang phát triển
Nghiên cứu này ghi nhận cả 3 xét nghiệm AMH, FSH
và AFC đều có giá trị dự đoán đáp ứng kém và hủy chu
kỳ. Trong cả 3 xét nghiệm này, AMH có giá trị tốt nhất, kế
đến là AFC và cuối cùng là FSH. Trong một phân tích gộp
được thực hiện bởi Broer và cs. (2009) [1], tác giả so sá h
giá trị của AMH và AFC trong dự đoán đáp ứng buồng
trứng kém, ghi nhận AMH và AFC có độ chính xác tương
đương nhau. Tuy nhiên, các nghiên cứu được chọn vào
phân tích gộp sử dụng tiêu chuẩn chấn đoán kém lại
không thống nhất. Một nghiên cứu khác tại Việt Nam
cũng ghi nhận AMH có liên quan chặt chẽ nhất với số
noãn thu được so với AFC và FSH, tuy nhiên, nghiên cứu
có cỡ mẫu nhỏ (53 bệnh nhân) và tiêu chuẩn chẩn đoán
khác với chúng tôi (< 5 noãn) [5].
Giá trị ngưỡng của các xét nghiệm AMH, FSH và
AFC trong nghiên cứu này khác với các giá trị ngưỡng
tìm được từ các nghiên cứu khác trên thế giới. Thật ra,
vẫn chưa có giá trị ngưỡng chung của các xét nghiệm
này trên thế giới trong dự đoán đáp ứng kém, nguyên
Vương Thị ngọc Lan, Võ Minh TuấnNGHIÊN CỨU
Tập 12, số 01
Tháng 4-2014
Tạp chí Phụ Sản
32
nhân chủ yếu do các nghiên cứu sử dụng các bộ kit xét
nghiệm AMH và FSH, kỹ thuật thực hiện AFC và tiêu
chuẩn chẩn đoán đáp ứng kém cũng khác nhau. Ngoài
ra, giá trị AMH còn có thể thay đổi theo chủng tộc và
đặc điểm bệnh nhân [9]. Nghiên cứu này thực hiện trên
cỡ mẫu lớn 820 bệnh nhân, ghi nhận AMH ≤ 1,25 ng/ml
(Gen II assay) dự đoán đáp ứng kém ≤ 3 noãn (độ nhạy
86,7%, độ đặc hiệu 84,8%). Theo La Marca 2013, tổng
hợp từ các nghiên cứu đã đăng tải, giá trị ngưỡng của
AMH trong khoảng từ < 0,7-1,3 ng/ml có thể chấp nhận
được trong dự đoán đáp ứng kém [6].
Giá trị ngưỡng của AFC cũng thay đổi rất nhiều
giữa các nghiên cứu, thay đổi từ < 5 đến < 7 [6]. Sự
khác biệt này liên quan chủ yếu đến kỹ thuật thực
hiện AFC. Nghiên cứu của chúng tôi ghi nhận giá trị
ngưỡng AFC dự đoán đáp ứng kém là ≤ 5 (độ nhạy
78,7%, đặc hiệu 85,9%), cũng khá giống với kết quả
các nghiên cứu trên.
Theo Esposito 2002, FSH > 11,4 IU/L có giá trị dự
đoán ≤ 4 noãn chọc hút được [2]. Nghiên cứu của chúng
tôi có giá trị ngưỡng của FSH thấp hơn, có thể do tiêu
chuẩn chẩn đoán khác với Esposito. Ngoài ra, FSH được
đánh giá là có độ chính xác không cao trong dự đoán
đáp ứng buồng trứng [2]. Nghiên cứu của chúng tôi
cũng ghi nhận FSH có giá trị dự đoán thấp nhất.
Điểm mạnh và yếu của nghiên cứu
Điểm mạnh của nghiên cứu là chúng tôi thực hiện
trên cỡ mẫu lớn, 820 bệnh nhân. Mặc dù cỡ mẫu tối
thiểu cẩn thiết chỉ là 360, nhưng nghiên cứu này trong
khuôn khổ của nghiên cứu dự đoán đáp ứng buồng
trứng chung, gồm cả đáp ứng kém và nhiều, do đó, số
bệnh nhân thu nhận vào nghiên cứu lớn hơn. Thiết kế
nghiên cứu đoàn hệ tiền cứu đem lại tính khách quan
cho kết quả và các phân tích, hơn nữa tỉ lệ mất mẫu của
nghiên cứu này rất thấp (ngưng điều trị do nguyên nhân
không liên quan đến đáp ứng buồng trứng) là 0,2%.
Qui trình thực hiện xét nghiệm trong nghiên cứu
của chúng tôi được thực hiện nghiêm ngặt do đó, kết
quả đáng tin cậy. Một số báo cáo gần đây ghi nhận, giá
trị xét nghiệm AMH không ổn định khi các điều kiện sau
đây không được đảm bảo: (i) mẫu máu phải được tách
huyết thanh trong vòng 8 tiếng ở nhiệt độ phòng, (ii)
nếu xét nghiệm không được thực hiện ngay thì mẫu
huyết thanh phải được trữ lạnh ở nhiệt độ phù hợp từ
-200C đến -800C, (iii) xét nghiệm nên được thực hiện
trong vòng 1 tuần sau khi thu nhận mẫu [4].
Hạn chế của nghiên cứu này liên quan đến việc chọn
“tiêu chuẩn vàng” để so sánh giá trị dự đoán của các xét
nghiệm. Tiêu chuẩn vàng trong nghiên cứu này là số
noãn chọc hút được mà số noãn lại bị tác động bởi các
yếu tố gây nhiễu chính là liều thuốc FSH sử dụng để KTBT
và kỹ thuật chọc hút noãn. Chúng tôi chọn số noãn vì
các lý do (i) theo nhiều nghiên cứu, số noãn được xem là
một kết cục gián tiếp (kết cục thay thế) của thai lâm sàng
[10] bởi vì thai lâm sàng còn chịu nhiều tác động khác
nữa như chất lượng tinh trùng, chất lượng phôi,nên
khó tìm được yếu tố dự đoán trực tiếp tỉ lệ thai lâm sàng
từ trước khi bắt đầu điều trị, (ii) tiêu chuẩn đáp ứng kém
được sử dụng hiện nay dựa trên số noãn chọc hút được,
(iii) đa số các nghiên cứu về lĩnh vực này đều sử dụng số
noãn chọc hút được, do đó, nghiên cứu của chúng tôi sẽ
dễ dàng so sánh kết quả với các nghiên cứu khác.
Để loại yếu tố gây nhiễu là liều FSH sử dụng KTBT,
chúng tôi tăng cỡ mẫu lên gấp đôi, thực hiện lấy mẫu
ở cả 2 nhóm nhận liều FSH khác nhau (225 IU và 300
IU). Về tác động của kỹ thuật chọc hút noãn trên số
noãn thu được, thật ra, yếu tố gây nhiễu này không
tác động lên kết quả so sánh giữa các xét nghiệm vì
các xét nghiệm được thực hiện trên cùng một bệnh
nhân. Tuy nhiên, kỹ thuật chọc hút noãn có thể tác
động lên số noãn thu được, làm thay đổi tỉ lệ đáp ứng
kém. Để hạn chế tác động của yếu tố gây nhiễu này,
tất cả bệnh nhân trong nghiên cứu này đều được
thực hiện chọc hút noãn bởi một người (người thực
hiện đề tài), có kinh nghiệm chọc hút noãn trên 15
năm với số ca thực hiện trên 15.000 trường hợp.
Ứng dụng kết quả nghiên cứu vào lâm sàng
Nghiên cứu tìm thấy AMH có giá trị dự đoán tốt
nhất, kế đến là AFC và cuối cùng là FSH trong dự đoán
đáp ứng buồng trứng. Do đó, các trung tâm TTTON
chỉ cần thực hiện AMH để dự đoán đáp ứng kém,
nếu không có điều kiện xét nghiệm AMH, có thể chỉ
thực hiện AFC, nhằm giảm chi phí xét nghiệm cho
bệnh nhân. Trong thực tế lâm sàng, đôi khi giá trị của
các xét nghiệm khảo sát dự trữ buồng trứng không
tương đồng với nhau như một số trường hợp AMH
thấp nhưng FSH bình thường,Áp dụng kết quả của
nghiên cứu này, các bác sĩ sẽ dựa vào kết quả của xét
nghiệm nào có giá trị dự đoán tốt nhất để sử dụng.
Tỉ lệ thai lâm sàng của nhóm đáp ứng kém (≤ 3
noãn) trong nghiên cứu này là thấp, khoảng 8%, so
với không đáp ứng kém là 36,5%. Như vậy, việc dự
đoán đáp ứng kém trước khi điều trị là hết sức có ý
nghĩa trong tư vấn chiến lược điều trị, sử dụng phác
đồ và liều thuốc KTBT phù hợp cũng như chuẩn bị
tâm lý cho bệnh nhân, cho họ biết về cơ hội thành
công của mình. Ngoài ra, nghiên cứu này cũng dự
đoán tình trạng đáp ứng kém trầm trọng, phải hủy
chu kỳ do không nang phát triển. Các bệnh nhân có
AMH ≤ 0,77 ng/ml, AFC ≤ 4 hay FSH > 10,7 IU/L nên
Tập 12, số 01
Tháng 4-2014
Tạp chí Phụ Sản
33
Tạp chí phụ sản - 12(1), 28-33, 2014
được tư vấn biện pháp xin noãn để cải thiện kết quả.
Các giá trị ngưỡng của các xét nghiệm AMH, FSH và
AFC trong nghiên cứu này được thực hiện trên một cỡ
mẫu lớn người Việt Nam, có các đặc điểm nhân chủng
học của người Việt Nam và bộ kit xét nghiệm được sử
dụng là loại mới nhất (AMH Gen II assay), do đó, có
thể áp dụng để dự đoán đáp ứng kém cho bệnh nhân
người Việt Nam. Một vấn đề của các giá trị ngưỡng
của các xét nghiệm là giá trị dự đoán dương khá thấp,
trong khi giá trị dự đoán âm khá cao. Như vậy, khi sử
dụng các xét nghiệm và giá trị ngưỡng để tư vấn cho
bệnh nhân trước điều trị, cần xem xét thêm các dữ
kiện lâm sàng khác của bệnh nhân.
Kết luận
- AMH có giá trị dự đoán đáp ứng kém với KTBT
tốt nhất, kế đến là AFC và cuối cùng là FSH. - - AMH
≤ 1,25 ng/ml dự đoán đáp ứng kém (≤ 3 noãn) với độ
nhạy 86,7% và độ đặc hiệu 84,8%. - AMH ≤ 0,77 ng/ml
dự đoán hủy chu kỳ với độ nhạy 96,4% và độ đặc hiệu
84,4%. Khi áp dụng kết quả nghiên cứu với các giá trị
ngưỡng được xác định vào thực hành lâm sàng, cần
lưu ý xem xét thêm điều kiện của trung tâm và các dữ
kiện lâm sàng khác của bệnh nhân để tư vấn cho họ
về khả năng đáp ứng kém, cơ hội thành công, chọn
lựa biện pháp điều trị, sử dụng phác đồ và liều thuốc
FSH phù hợp để KTBT.
Tài liệu tham khảo
1. Broer SL, Dolleman M, Opmeer BC, Fauser BC, Mol
BW, Broekmans FJM (2011). AMH and AFC as predictors of
excessive response in controlled ovarian hyperstimulation: a
meta-analysis. Hum Reprod Update 17 (1):46-54.
2. Esposito MA, Coutifaris C, Barnhart KT (2002). A moderately
elevated day 3 FSH concentration has limited predictive value,
especially in younger women. Hum Reprod 17(1):118-123.
3. Ferraretti, La Marca A, Fauser BCJM, Tarlatzis B, Nargund
G, Gianaroli L (2011). EHSRE consensus on the definition of
“poor response” to ovarian stimulation for in vitro fertilization:
the Bologna criteria. Hum Reprod 26(7):1616-1624.
4. Han X, McShane M, Sahertian R, White C, Ledger
W (2013). Pre-mixing samples Pre-mixing samples with
assay buffer is an essential pre-requisite for reproducible
Antimullerian Hormone (AMH) measurement using the
Beckman Coulter Gen II assay (Gen II). Hum. Reprod. 28 (suppl
1): i76-i78, doi:10.1093/humrep/det181.
5. Kwee J, Schats R, McDonnell J, Themmen A, de Jong F,
Lambalk C (2008). Evaluation of anti-Mu¨llerian hormone as a
test for the prediction of ovarian reserve. Fertil Steril 90(3):737-43.
6. La Marca A and Sunkara SK (2013). Individualization of
controlled ovarian stimulation in IVF using ovarian reserve
markers: from theory to practice. Hum Reprod Update, 20:124-40.
7. Lê Viết Nguyên Sa, Cao Ngọc Thành (2013). Đánh giá mối
liên quan giữa nồng độ FSH, E2, AMH huyết thanh và chỉ số
AFC với đáp ứng kích thích buồng trứng ở bệnh nhân thụ tinh
trong ống nghiệm. Tạp chí Phụ Sản 11(4):20-25.
8. Nelson SM, Yates RW, Fleming R. Serum anti-Mu¨llerian
hormone and FSH: prediction of live birth and extremes of
response in stimulated cycles–implications for individualization
of therapy. Hum Reprod 2007;22:2414–2421.
9. Seifer DB, Golub ET, Lambert-Messerlian G, Benning
L, Anastos K, Watts DH, Cohen MH, Karim R, Young MA,
Minkoff H et al (2008). Variations in serum mu¨llerian inhibiting
substance between white, black, and Hispanic women. Fertil
Steril 92(5):1674-8.
10. Sunkara SK, Rittenberg V, Raine-Fenning N,
Bhattacharya S, Zamora J, Coomarasamy A (2011).
Association between the number of eggs and live birth in
IVF treatment: an analysis of 400135 treatment cycles. Hum
Reprod 26(7):1768-1774.
11. Vương Thị Ngọc Lan, Giang Huỳnh Như, Hồ Mạnh Tường
(2012). Tương quan giữa nồng độ anti-mullerian hormone và
đáp ứng buồng trứng trong thụ tinh ống nghiệm. Tạp chí Y học
TPHCM, tập 16, phụ bản số 1, chuyên đề Sức khỏe Sinh sản và
Bà mẹ - Trẻ em, 201 – 210.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
so_sanh_gia_tri_du_doan_cua_amh_fsh_va_ac_doi_voi_dap_ung_ke.pdf