AMH được ghi nhận có ưu điểm hơn so với
AFC và FSH là không cần phải thực hiện ở đầu
chu kỳ kinh, giá trị của AMH khá ổn định trong
suốt chu kỳ kinh, giữa các chu kỳ kinh và sau các
đợt sử dụng GnRH đồng vận hay thuốc viên
ngừa thai.
Đôi khi kết quả các xét nghiệm không thống
nhất, có thể chọn giá trị của xét nghiệm có giá trị
dự đoán chính xác hơn để đưa ra quyết định
điều trị.
Các bệnh nhân trong nghiên cứu này được
KTBT bằng phác đồ GnRH đối vận, và với các
bệnh nhân đáp ứng nhiều > 20 nang, GnRH
đồng vận được thay thế bằng hCG để khởi động
trưởng thành noãn. Do đó, tỉ lệ và độ nặng của
QKBT là thấp. Phác đồ này nên được áp dụng
cho các bệnh nhân được dự đoán là đáp ứng
nhiều bằng các xét nghiệm AMH, FSH và AFC
làm cho KTBT trở nên an toàn hơn.
Giá trị xét nghiệm AMH được ghi nhận thay
đổi theo chủng tộc và đặc điểm bệnh nhân.
Nghiên cứu này được thực hiện trên một cỡ mẫu
lớn người Việt Nam, có các đặc điểm nhân
chủng học của người Việt Nam và bộ kit xét
nghiệm được sử dụng là loại mới nhất (AMH
Gen II assay), do đó, có thể sử dụng các giá trị
ngưỡng tìm thấy để dự đoán đáp ứng nhiều cho
bệnh nhân người Việt Nam. Tuy nhiên, các giá
trị ngưỡng của các xét nghiệm có giá trị dự đoán
dương khá thấp, trong khi giá trị dự đoán âm
khá cao. Như vậy, khi sử dụng các xét nghiệm
và giá trị ngưỡng để tư vấn cho bệnh nhân trước
điều trị, cần xem xét thêm các dữ kiện lâm sàng
khác của bệnh nhân.
6 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 25/01/2022 | Lượt xem: 334 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu So sánh giá trị dự đoán và độ tin cậy của các xét nghiệm AMH, FSH và AFC đối với đáp ứng nhiều ở bệnh nhân thụ tinh trong ống nghiệm, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Số 2 * 2014
16
SO SÁNH GIÁ TRỊ DỰ ĐOÁN VÀ ĐỘ TIN CẬY CỦA CÁC XÉT NGHIỆM
AMH, FSH VÀ AFC ĐỐI VỚI ĐÁP ỨNG NHIỀU Ở BỆNH NHÂN THỤ TINH
TRONG ỐNG NGHIỆM
Vương Thị Ngọc Lan*, Võ Minh Tuấn*
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Đáp ứng nhiều với kích thích buồng trứng (KTBT) là yếu tố nguy cơ chính của quá kích
buồng trứng (QKBT), là một biến chứng trầm trọng của KTBT. Dự đoán đáp ứng nhiều giúp chọn lựa phác đồ
KTBT phù hợp, đem lại sự an toàn và hiệu quả cho bệnh nhân.
Mục tiêu: So sánh giá trị dự đoán và độ tin cậy của AMH, FSH và AFC trong dự đoán đáp ứng nhiều.
Phương pháp: Nghiên cứu đoàn hệ tiền cứu trên 820 bệnh nhân. Mỗi bệnh nhân được làm cả 3 xét nghiệm
AMH, FSH và AFC vào ngày 2 của chu kỳ. Đáp ứng nhiều được chẩn đoán là >15 noãn.
Kết quả: Tỉ lệ đáp ứng nhiều là 21,8%. AMH có giá trị dự đoán tốt nhất, tiếp theo là AFC và cuối là FSH.
AMH > 3,57 ng/ml dự đoán đáp ứng nhiều >15 noãn với độ nhạy 83,7% và độ đặc hiệu 79,8%. Cả 3 xét nghiệm
đều có độ tin cậy tốt.
Kết luận: AMH có giá trị tốt nhất và độ tin cậy cao trong dự đoán đáp ứng nhiều với KTBT.
Từ khóa: Giá trị dự đoán, AMH, FSH, AFC, đáp ứng nhiều với kích thích buồng trứng
ABSTRACT
COMPARISON OF THE PREDICTIVE VALUE AND THE RELIABILITY OF AMH, FSH,
AND AFC FOR IDENTIFYING HYPER-RESPONSE IN IN-VITRO FERTILIZATION
Vuong Thi Ngoc Lan, Vo Minh Tuan * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 - No 2 - 2014: 16 - 21
Introduction: Hyper-response is a primary risk factor of ovarian hyperstimulation syndrome (OHSS), a
serious side-effect of controlled ovarian stimulation (COS). Prediction of hyper-response is vital for choosing an
appropriate COS protocol, increasing safety and efficacy of COS.
Objectives: To compare the predictive value and the reliability of AMH, FSH, and AFC for identifying
hyper-response.
Methods: A prospective cohort study was conducted on 820 patients. Each patient had AMH, FSH and
AFC measured on cycle day 2. Hyper-response was diagnosed when patients had >15 oocytes retrieved.
Results: The rate of hyper-response was 21.8%. The AMH test was the most accurate in predicting hyper-
response, followed by AFC, and the least accurate predictive test was the FSH. AMH >3.57 ng/ml predicted
hyper-response with a sensitivity of 83.7% and specificity of 79.8%. All three tests had good reliability.
Conclusion: AMH has a good reliability and the best predictive value for predicting hyper-response.
Keywords: predictive value, AMH, FSH, AFC, hyper-response
ĐẶT VẤN ĐỀ
Đáp ứng nhiều với kích thích buồng trứng
(KTBT) là từ dùng để chỉ các trường hợp có số
noãn thu được nhiều sau khi buồng trứng được
kích thích với phác đồ chuẩn. Tùy theo nghiên
cứu mà tiêu chuẩn chẩn đoán đáp ứng nhiều
được sử dụng là >15 noãn(4) hay >20 noãn(6). Đáp
ứng nhiều gây ra tình trạng căng đau bụng và
* Bộ môn Phụ Sản, Đại học Y Dược TPHCM,
Tác giả liên lạc: ThS. Vương Thị Ngọc Lan, Email: drlan@yahoo.com.vn, ĐT: 0903008889
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Số 2 * 2014 Nghiên cứu Y học
17
nguy cơ hủy chu kỳ do liên quan với quá kích
buồng trứng – một biến chứng trầm trọng của
KTBT, có thể đe dọa tính mạng của bệnh nhân.
Đáp ứng nhiều thường tạo ra nhiều noãn, nhưng
không đồng nghĩa với có nhiều phôi chất lượng
tốt và ngoài ra, cơ hội có thai còn có thể giảm(8).
Do đó, việc tránh đáp ứng nhiều với KTBT sẽ
đem lại sự an toàn, thành công và giảm chi phí
cho kỹ thuật hỗ trợ sinh sản. Dự phòng đáp ứng
nhiều cần được chú trọng và bắt đầu bằng việc
sử dụng các công cụ có độ tin cậy và chính xác
cao để dự đoán những bệnh nhân nào thuộc
nhóm nguy cơ. Dự đoán đáp ứng buồng trứng
chủ yếu được dựa trên các xét nghiệm khảo sát
dự trữ buồng trứng, gồm AMH, FSH và AFC.
Không có nhiều nghiên cứu về giá trị của các xét
nghiệm AMH, FSH và AFC trong dự đoán đáp
ứng buồng trứng nhiều, hơn nữa, các nghiên
cứu đa số là hồi cứu, cỡ mẫu không đủ lớn, tiêu
chuẩn chẩn đoán và loại xét nghiệm sử dụng rất
khác nhau(4). Ở Việt nam, dự đoán đáp ứng
nhiều có ý nghĩa quan trọng nhằm tăng hiệu
quả, giảm biến chứng và chi phí điều trị có liên
quan với biến chứng cho bệnh nhân. Chỉ có hai
nghiên cứu về vấn đề này ghi nhận AMH, FSH
và AFC có liên quan với đáp ứng buồng trứng
nhiều(5,9). Tuy nhiên, chưa có nghiên cứu nào so
sánh giá trị dự đoán và độ tin cậy của các xét
nghiệm này nhằm tìm ra xét nghiệm tốt nhất
giúp dự đoán đáp ứng nhiều. Chúng tôi thực
hiện nghiên cứu này với mục tiêu:
- So sánh giá trị dự đoán của các xét nghiệm
AMH, FSH và AFC đối với đáp ứng nhiều với
kích thích buồng trứng thụ tinh ống nghiệm.
- Xác định độ tin cậy của các xét nghiệm
AMH, FSH và AFC.
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Thiết kế nghiên cứu
Nghiên cứu đoàn hệ tiền cứu.
Đối tượng nghiên cứu
Tiêu chuẩn nhận
-Tuổi ≤ 45, BMI ≤ 25 kg/m2.
KTBT làm TTTON lần đầu bằng phác đồ
GnRH đối vận, có chọc hút noãn.
Đồng ý tham gia vào nghiên cứu.
Tiêu chuẩn loại
Có sử dụng thuốc KTBT trong vòng 2 tháng
trước lần điều trị này
Hội chứng buồng trứng đa nang, hiện đang
có u buồng trứng, u lạc nội mạc tử cung ở buồng
trứng, rối loạn nội tiết như tăng prolactin máu,
bệnh lý tuyến giáp, suy tuyến yên.
Địa điểm và thời gian tiến hành nghiên cứu
Nghiên cứu được thực hiện tại đơn vị hỗ trợ
sinh sản bệnh viện An Sinh từ 12/2012 đến
12/2013.
Phương pháp tiến hành
Định lượng AMH, FSH và AFC
Được thực hiện vào ngày 2 của chu kỳ kinh.
Bệnh nhân được rút 3 ml máu cho vào ống
nghiệm không có chất chống đông, sau đó, tách
huyết thanh trong vòng 1 giờ sau khi lấy máu để
định lượng FSH và AMH. Mẫu huyết thanh sau
đó được trữ lạnh ở -200C. Xét nghiệm được thực
hiện trong vòng 24 giờ sau khi lấy máu. Định
lượng FSH được thực hiện bằng phương pháp
miễn dịch điện hóa phát quang
(Electrochemilunescence, Roche, Đức). Định
lượng AMH trong máu được thực hiện sử dụng
AMH Gen II Elisa assay (Beckman Coulter, Mỹ).
Mẫu huyết thanh được chuyển đến 2 phòng xét
nghiệm độc lập là MEDIC và An Sinh. Đếm AFC
được thực hiện bằng siêu âm đầu dò âm đạo với
tần số 7,5 MHz (Capasee II, Toshiba, Nhật) bởi
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Số 2 * 2014
18
người thực hiện đề tài và một bác sĩ có kinh
nghiệm theo qui trình đã được chuẩn hóa.
Kích thích buồng trứng
Kích thích buồng trứng được thực hiện với
phác đồ GnRH đối vận. Bệnh nhân được tiêm
FSH tái tổ hợp (Gonal F, Merck-Serono, Mỹ)
dưới da bụng từ ngày thứ 2 của chu kỳ kinh.
GnRH đối vận (Cetrotide, Merck-Serono, Mỹ)
được bắt đầu tiêm dưới da bụng từ ngày 5 của
FSH với liều 0,25mg/ngày cho đến ngày khởi
động trưởng thành noãn.
Liều đầu FSH: được xác định dựa trên tuổi
của bệnh nhân. Nếu bệnh nhân < 36 tuổi, liều
đầu 225 IU/ngày; bệnh nhân ≥ 36 tuổi thì sử
dụng liều đầu 300 IU/ngày(6).
Khởi động trưởng thành noãn bằng 1 trong 2
kiểu: hCG hay GnRH đồng vận. Tiêm dưới da
hCG 250 mcg (Ovitrelle, Merck-Serono, Mỹ) khi
có ≥ 2 nang noãn đạt kích thước ≥ 17 mm trên 2
buồng trứng. Tiêm dưới da GnRH đồng vận
0,2mg (Triptoreline, Beaufour Ipsen, Pháp) khi
bệnh nhân có ≥ 20 nang phát triển (≥ 12mm ở
ngày khởi động trưởng thành noãn). GnRH
đồng vận có tác dụng tạo đỉnh LH nội sinh gây
trưởng thành noãn. Cách làm này đã được
chứng minh tránh quá kích buồng trứng cho
bệnh nhân và không ảnh hưởng đến số lượng
noãn và sự trưởng thành của noãn thu được(1).
Chọc hút noãn, thụ tinh và chuyển phôi
Chọc hút noãn được tiến hành 36 giờ sau
tiêm thuốc gây trưởng thành noãn. Thụ tinh
được thực hiện bằng phương pháp tiêm tinh
trùng vào bào tương noãn (ICSI). Chuyển phôi
được thực hiện 2 ngày sau chọc hút noãn. Thai
lâm sàng được xác nhận khi có túi thai có phôi
và hoạt động tim thai trong buồng tử cung.
Cỡ mẫu
Cỡ mẫu được tính theo công thức tính cỡ
mẫu để so sánh 2 diện tích dưới đường cong
ROC dành cho thiết kế không bắt cặp, sau đó
được hiệu chỉnh cho thiết kế bắt cặp (công thức
Hanley và McNeil) vì các xét nghiệm được thực
hiện trên cùng một bệnh nhân. Tỉ lệ đáp ứng
buồng trứng nhiều là 24,4%(9). Các diện tích dưới
đường cong của các xét nghiêm dự đoán đáp
ứng nhiều với KTBT là: của AMH là 0,85(3) và
của AFC là 0,93(3). Cỡ mẫu tính được sau khi
hiệu chỉnh mất mẫu 10% là 410 bệnh nhân.
Ngoài ra, để khử yếu tố gây nhiễu kết quả đáp
ứng buồng trứng là liều đầu FSH, cỡ mẫu tối
thiểu cuối cùng cần thu thập là 820.
Các biến số cần nghiên cứu
Biến số nền: tuổi, BMI, thời gian vô sinh, loại
vô sinh, chỉ định TTTON
Biến số độc lập: AMH, FSH, AFC, tổng liều
FSH, thời gian KTBT
Biến số phụ thuộc: tỉ lệ bệnh nhân đáp ứng
nhiều (> 15 noãn), thai lâm sàng, QKBT.
Thu thập và xử lý số liệu
Số liệu được thu thập bằng bảng câu hỏi. Xử
lý bằng phần mềm thống kê SPSS 19.0 và
MedCalc 12.0. Giá trị p <0,0,5 được xem là có ý
nghĩa thống kê.
Đạo đức nghiên cứu
Đây là một nghiên cứu không can thiệp, do
đó, không gây ảnh hưởng đến bệnh nhân. Các
thông tin của bệnh nhân được ghi nhận và bảo
mật. Nghiên cứu đã được Hội đồng Đạo đức Đại
học Y Dược TPHCM thông qua (Quyết định số
53 ĐHYD-HĐ).
KẾT QUẢ
Từ tháng 12/2012 đến 12/2013, có 820 bệnh
nhân được nhận vào nghiên cứu. Trong đó, 30
trường hợp (3,7%) bị loại khỏi nghiên cứu với lý
do không hoàn thành kích thích buồng trứng. Có
790 bệnh nhân được chọc hút noãn và 719
trường hợp có chuyển phôi.
Đặc điểm bệnh nhân trước KTBT
Tuổi trung bình của bệnh nhân trong nghiên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Số 2 * 2014 Nghiên cứu Y học
19
cứu này là 34,9 ± 5 với BMI (kg/m2) 20,93 ± 1,95.
Thời gian vô sinh trung bình là 48 tháng. Chỉ
định TTTON gồm bệnh lý ống dẫn trứng chiếm
22,4%; do chồng 43,7%; chưa rõ nguyên nhân
16,3%; lớn tuổi 9,5% và nguyên nhân khác 8,1%.
Trung vị và khoảng tứ phân vị của các xét
nghiệm khảo sát dự trữ buồng trứng như sau:
AMH 2,44 (1,23 – 4,42) ng/ml, FSH 6,82 (5,80 –
8,47) IU/L và AFC 9 (6 – 14). Thời gian KTBT
trung bình là 8,96 ± 1,4 ngày với tổng liều FSH
sử dụng là 2346 ± 516 IU.
Kết quả kích thích buồng trứng và chuyển
phôi
Số noãn chọc hút được là 10,5 ± 6,8, số noãn
trưởng thành là 8,8 ± 5,7 và số phôi tạo được là
6,3 ± 4,5. Có 719 trường hợp có chuyển phôi. Số
phôi chuyển trung bình là 3,02 ± 0,9 (1 – 5). Tỉ lệ
thai lâm sàng chung tính trên số chu kỳ nhận
vào nghiên cứu là 32,4% (256 / 790), tính trên số
trường hợp có chuyển phôi là 35,6% (256 / 719).
Tỉ lệ đa thai (≥ 2 thai), thai lưu, thai ngoài tử
cung lần lượt là 7,6%, 2% và 1%. Tỉ lệ làm tổ của
phôi là 15,6% (339/2171). Có 4 trường hợp quá
kích buồng trứng, chiếm tỉ lệ 0,5%, trong đó 2
trường hợp mức độ trung bình và 2 nhẹ. Có 172
trường hợp đáp ứng nhiều, tỉ lệ 21,8%. Tỉ lệ có
thai ở nhóm đáp ứng nhiều là 35% (60/172).
So sánh giá trị dự đoán của các xét nghiệm
AMH, FSH và AFC đối với đáp ứng nhiều.
Phân tích đường cong ROC cho thấy cả 3 xét
nghiệm đều có giá trị dự đoán đáp ứng nhiều
với diện tích dưới đường cong (AUC) lần lượt là:
AUC (AMH) = 0,89 (95% KTC 0,87-0,91, p<0,01);
AUC (FSH) = 0,72 (95% KTC 0,69-0,75, p<0,01);
AUC (AFC) = 0,86 (95% KTC 0,83-0,88, p<0,01).
Giá trị ngưỡng dự đoán đáp ứng nhiều của
AMH là >3,57 ng/ml (độ nhạy 83,7%, độ đặc hiệu
79,8%, giá trị dự đoán dương 53,5% và giá trị dự
đoán âm 94,6%), của FSH ≤ 7,36 IU/L (độ nhạy
88,4%, độ đặc hiệu 46,9%, giá trị dự đoán dương
31,7% và giá trị dự đoán âm 93,5%), của AFC >12
(độ nhạy 76,2%, độ đặc hiệu 81,7%, giá trị dự
đoán dương 53,7% và giá trị dự đoán âm 92,5%).
Khi so sánh sự khác biệt giữa các diện tích dưới
đường cong (AUC) của AMH, FSH và AFC
trong dự đoán đáp ứng buồng trứng nhiều
(phương pháp Hanley và McNeil), kết quả cho
thấy AMH có độ chính xác cao nhất, kế đến là
AFC và cuối cùng là FSH (p< 0,05) (Biểu đồ 1).
Biểu đồ 1. So sánh các diện tích dưới đường cong
của AMH, FSH và AFC trong dự đoán đáp ứng
nhiều với KTBT.
Độ tin cậy của các xét nghiệm AMH, FSH và
AFC
Độ tin cậy của các xét nghiệm AMH, FSH và
AFC được xác định bằng cách phân tích hệ số
tương quan nội lớp ICC (Intra-class Correlation).
Hệ số tương quan nội lớp đơn của AMH là 0,88
(95% KTC 0,87-0,89), của FSH là 0,93 (95% KTC
0,92-0,94) và của AFC là 0,83 (95% KTC 0,79-0,86)
(tất cả p < 0,000). Như vậy độ tin cậy của cả 3 xét
nghiệm đều tốt.
BÀN LUẬN
Tiêu chuẩn chẩn đoán đáp nhiều
Tiêu chuẩn chẩn đoán đáp ứng nhiều rất
khác nhau trong các nghiên cứu. Trong nghiên
0 20 40 60 80 100
0
20
40
60
80
100
100- Độ đặc hiệu
Đ
ộ
n
h
ạy
AMH
AFC
FSH
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Số 2 * 2014
20
cứu này chúng tôi chọn > 15 noãn, thấp hơn
Nelson 2007 là > 20 noãn(6) vì chúng tôi muốn
phát hiện sớm nhóm nguy cơ QKBT để có chiến
lược điều trị phù hợp, tránh QKBT. Tỉ lệ QKBT
trong nghiên cứu của chúng tôi thấp, không có
trường hợp nặng do chúng tôi thay thế hCG
bằng GnRH đồng vận để khởi động trưởng
thành noãn. Đây là phác đồ được nghiên cứu áp
dụng trên thế giới và đã được chứng minh
không ảnh hưởng đến số lượng noãn và tỉ lệ
trưởng thành của noãn thu được(1).
Giá trị dự đoán và độ tin cậy của AMH, FSH
và AFC đối với đáp ứng nhiều
Nghiên cứu này ghi nhận cả 3 xét nghiệm
AMH, FSH và AFC đều có giá trị dự đoán đáp
ứng nhiều, khác với nghiên cứu của Esposito
cho rằng FSH không có giá trị trong dự đoán
đáp ứng buồng trứng nhiều. Trong cả 3 xét
nghiệm này, AMH có giá trị tốt nhất, kế đến là
AFC và cuối cùng là FSH. Giá trị ngưỡng để
dự đoán đáp ứng nhiều của AMH
(>3,57ng/ml) trong nghiên cứu này khá phù
hợp với nghiên cứu của Polyzos 2013, cũng sử
dụng bộ kit AMH Gen II là >3,52 ng/ml(7). Giá
trị ngưỡng của AFC cũng nằm trong giới hạn
của các nghiên cứu khác từ 9 -14(4).
Phân tích hệ số tương quan nội lớp của các
xét nghiệm ghi nhận cả 3 xét nghiệm đều có độ
tin cậy tốt, trong đó, FSH ổn định nhất, kế đến là
AMH và sau cùng là AFC. Xét nghiệm AMH đòi
hỏi qui trình kỹ thuật chuẩn và các điều kiện thu
nhận, xử lý mẫu huyết thanh nghiêm ngặt nhằm
hạn chế các sai số của kết quả. Một số báo cáo
gần đây ghi nhận, giá trị xét nghiệm AMH
không ổn định khi các điều kiện sau đây không
được đảm bảo: (i) mẫu máu phải được tách
huyết thanh và thực hiện xét nghiệm trong vòng
8 tiếng sau khi thu nhận mẫu ở nhiệt độ phòng,
(ii) nếu xét nghiệm không được thực hiện ngay
thì mẫu huyết thanh phải được trữ lạnh ở nhiệt
độ phù hợp từ -200C đến -800C và không quá 1
tuần(2). Về AFC, đây là chỉ số đo đạc được thực
hiện bởi con người nên có tính chủ quan và phụ
thuộc vào kỹ thuật rất nhiều, do đó, độ tin cậy
không cao như xét nghiệm máu AMH và FSH.
Qui trình thực hiện xét nghiệm AMH, FSH và
đếm AFC trong nghiên cứu của chúng tôi được
thực hiện nghiêm ngặt, theo phác đồ đã được
chuẩn hóa, do đó, kết quả đáng tin cậy.
Ứng dụng kết quả nghiên cứu vào lâm sàng
Nghiên cứu tìm thấy AMH có giá trị dự
đoán đáp ứng nhiều tốt nhất, kế đến là AFC và
cuối cùng là FSH. Cả 3 xét nghiệm đều có độ tin
cậy tốt. Kết quả có thể được áp dụng vào lâm
sàng như sau:
Giảm số xét nghiệm cần thực hiện, góp phần
giảm chi phí điều trị cho bệnh nhân. Việc chọn
lựa một xét nghiệm để dự đoán đáp ứng nhiều
cần xem xét điều kiện thực tế của trung tâm thụ
tinh trong ống nghiệm và các yếu tố liên quan
khác như sự thuận tiện của bệnh nhân, chi phí
xét nghiệm (bảng 1).
Bảng 1. So sánh các đặc điểm của các xét nghiệm dự
đoán đáp ứng buồng trứng nhiều
AMH FSH AFC
Độ chính xác trong dự đoán đáp ứng nhiều +++ + ++
Độ tin cậy ++ +++ ++
Thuận tiện cho bệnh nhân +++ + +
Chi phí thấp + + + + +
+ thấp, + + trung bình, + + + cao
AMH được ghi nhận có ưu điểm hơn so với
AFC và FSH là không cần phải thực hiện ở đầu
chu kỳ kinh, giá trị của AMH khá ổn định trong
suốt chu kỳ kinh, giữa các chu kỳ kinh và sau các
đợt sử dụng GnRH đồng vận hay thuốc viên
ngừa thai.
Đôi khi kết quả các xét nghiệm không thống
nhất, có thể chọn giá trị của xét nghiệm có giá trị
dự đoán chính xác hơn để đưa ra quyết định
điều trị.
Các bệnh nhân trong nghiên cứu này được
KTBT bằng phác đồ GnRH đối vận, và với các
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Số 2 * 2014 Nghiên cứu Y học
21
bệnh nhân đáp ứng nhiều > 20 nang, GnRH
đồng vận được thay thế bằng hCG để khởi động
trưởng thành noãn. Do đó, tỉ lệ và độ nặng của
QKBT là thấp. Phác đồ này nên được áp dụng
cho các bệnh nhân được dự đoán là đáp ứng
nhiều bằng các xét nghiệm AMH, FSH và AFC
làm cho KTBT trở nên an toàn hơn.
Giá trị xét nghiệm AMH được ghi nhận thay
đổi theo chủng tộc và đặc điểm bệnh nhân.
Nghiên cứu này được thực hiện trên một cỡ mẫu
lớn người Việt Nam, có các đặc điểm nhân
chủng học của người Việt Nam và bộ kit xét
nghiệm được sử dụng là loại mới nhất (AMH
Gen II assay), do đó, có thể sử dụng các giá trị
ngưỡng tìm thấy để dự đoán đáp ứng nhiều cho
bệnh nhân người Việt Nam. Tuy nhiên, các giá
trị ngưỡng của các xét nghiệm có giá trị dự đoán
dương khá thấp, trong khi giá trị dự đoán âm
khá cao. Như vậy, khi sử dụng các xét nghiệm
và giá trị ngưỡng để tư vấn cho bệnh nhân trước
điều trị, cần xem xét thêm các dữ kiện lâm sàng
khác của bệnh nhân.
KẾT LUẬN
AMH có giá trị dự đoán đáp ứng nhiều tốt
nhất, kế đến là AFC và cuối cùng là FSH. Các giá
trị ngưỡng để dự đoán đáp ứng buồng trứng
nhiều của các xét nghiệm lần lượt là: AMH > 3,57
ng/ml (độ nhạy 83,7%, độ đặc hiệu 79,8%, giá trị
dự đoán dương 53,5%, giá trị dự đoán âm
94,6%); FSH ≤ 7,36 IU/L (độ nhạy 88,4%, độ đặc
hiệu 46,9%, giá trị dự đoán dương 31,7%, giá trị
dự đoán âm 93,5%) và AFC >12 (độ nhạy 76,2%,
độ đặc hiệu 81,7%, giá trị dự đoán dương 53,7%,
giá trị dự đoán âm 92,5%). Cả 3 xét nghiệm đều
có độ tin cậy tốt. Chọn lựa một xét nghiệm để dự
đoán đáp ứng buồng trứng của bệnh nhân cần
xem xét điều kiện của trung tâm và các dữ kiện
lâm sàng khác của bệnh nhân.
Lời cảm ơn: Xin cám ơn Ban Giám đốc Trung tâm MEDIC đã hỗ
trợ một phần kinh phí cho xét nghiệm AMH và FSH.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Griesinger G, Diedrich K, Devroey P and Kolibianakis EM
(2006). GnRH agonist for triggering final oocyte maturation in
the GnRH antagonist ovarian hyperstimulation protocol: a
systematic review and meta-analysis. Hum Reprod Update
12:159-168.
2. Han X, McShane M, Sahertian R, White C, Ledger W (2013).
Pre-mixing samples Pre-mixing samples with assay buffer is
an essential pre-requisite for reproducible Antimullerian
Hormone (AMH) measurement using the Beckman Coulter
Gen II assay (Gen II). Hum. Reprod. 28 (suppl 1): i76-i78,
doi:10.1093/humrep/det181.
3. Kwee J, Schats R, McDonnell J, Themmen A, de Jong F,
Lambalk C (2008). Evaluation of anti-Mu¨llerian hormone as a
test for the prediction of ovarian reserve. Fertil Steril 90:737-43
4. La Marca A and Sunkara SK (2014). Individualization of
controlled ovarian stimulation in IVF using ovarian reserve
markers: from theory to practice. Hum Reprod Update, 20:124-
40.
5. Lê Viết Nguyên Sa, Cao Ngọc Thành (2013). Đánh giá mối
liên quan giữa nồng độ FSH, E2, AMH huyết thanh và chỉ số
AFC với đáp ứng kích thích buồng trứng ở bệnh nhân thụ
tinh trong ống nghiệm. Tạp chí Phụ Sản 11(4):20-25
6. Nelson SM, Yates RW, Fleming R (2007). Serum anti-
Mu¨llerian hormone and FSH: prediction of live birth and
extremes of response in stimulated cycles–implications for
individualization of therapy. Hum Reprod 22:2414–2421
7. Polyzos NP, Tournaye H, Guzman L, Camus M, Nelson SM
(2013). Predictors of ovarian response in women treated with
corifollitropin alfa for in vitro fertilization/intracytoplasmic
sperm injection. Fertil Steril 100: 430-7.
8. van der Gaast MH, Eijkemans MJ, van der Net JB, de Boer EJ,
Burger CW, van Leeuwen FE, et al (2006). Optimum number
of oocytes for a successful first IVF treatment cycle. Reprod
Biomed Online 13(4):476-80
9. Vương Thị Ngọc Lan, Giang Huỳnh Như, Hồ Mạnh Tường
(2012). Tương quan giữa nồng độ anti-mullerian hormone và
đáp ứng buồng trứng trong thụ tinh ống nghiệm. Tạp chí Y
học TP.HCM, tập 16, phụ bản số 1, chuyên đề Sức khỏe Sinh
sản và Bà mẹ - Trẻ em, 201 – 210.
Ngày nhận bài báo: 02/01/2014
Ngày phản biện đánh giá bài báo: 02/03/2014
Ngày bài báo được đăng: 20/03/2014
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- so_sanh_gia_tri_du_doan_va_do_tin_cay_cua_cac_xet_nghiem_amh.pdf