KẾT LUẬN
Nghiên cứu thử nghiệm lâm sàng mù đơn so
sánh hiệu quả của Amoxicilline trong phẫu thuật
răng khôn hàm dưới theo hai phác đồ kháng
sinh phòng ngừa và điều trị trên 60 bệnh nhân.
Chúng tôi rút ra được một số kết luận như sau:
- Cường độ đau sau phẫu thuật nhổ răng
khôn hàm dưới của bệnh nhân ở hai nhóm sử
dụng Amoxicilline theo phác đồ phòng ngừa và
điều trị không có sự khác biệt.
- Mức độ sưng sau phẫu thuật nhổ răng
khôn hàm dưới của bệnh nhân ở hai nhóm sử
dụng Amoxicilline theo phác đồ phòng ngừa và
điều trị không có sự khác biệt.
- Tình trạng khít hàm sau phẫu thuật nhổ
răng khôn hàm dưới của bệnh nhân ở hai nhóm
sử dụng Amoxicilline theo phác đồ phòng ngừa
và điều trị không có sự khác biệt.
- Tình trạng nhiễm trùng hậu phẫu sau phẫu
thuật nhổ răng khôn hàm dưới của bệnh nhân ở
hai nhóm sử dụng Amoxicilline theo phác đồ
phòng ngừa và điều trị không có sự khác biệt.
Nghiên cứu này cho thấy việc sử dụng
Amoxicilline theo phác đồ phòng ngừa trước phẫu
thuật có hiệu quả tương tự như phác đồ điều trị sau
phẫu thuật răng khôn hàm dưới về tình trạng lâm
sàng của bệnh nhân sau phẫu thuật.
5 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 09/02/2022 | Lượt xem: 33 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu So sánh hiệu quả của Amoxicilline theo hai phác đồ phòng ngừa và điều trị trong phẫu thuật răng khôn hàm dưới, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 2 * 2015 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 249
SO SÁNH HIỆU QUẢ CỦA AMOXICILLINE THEO HAI PHÁC ĐỒ
PHÒNG NGỪA VÀ ĐIỀU TRỊ TRONG PHẪU THUẬT RĂNG KHÔN HÀM DƯỚI
Lê Thị Thu Trang*, Tạ Tố Trân**, Nguyễn Thị Bích Lý**
TÓM TẮT:
Đặt vấn đề: Phẫu thuật răng khôn là can thiệp thường gặp trong nha khoa, thường gây đau, sưng, khít hàm
và nhiễm trùng sau phẫu thuật. Kháng sinh được kê toa theo dạng phòng ngừa hoặc điều trị làm giảm các khó
chịu này.
Mục tiêu: so sánh hiệu quả của Amoxixilline khi dùng theo phương thức phòng ngừa hoặc điều trị trên các
triệu chứng lâm sàng sau phẫu thuật nhổ răng khôn hàm dưới.
Phương pháp nghiên cứu: 30 bệnh nhân uống Amoxicilline 500mg x 3lần/ngày x 5 ngày sau phẩu thuật,
30 bệnh nhân uống Amoxicilline 2g một giờ trước phẫu thuật. Các triệu chứng lâm sàng được đánh giá trước và
sau phẫu thuật 2, 3, và 7 ngày.
Kết quả: không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa hai nhóm nghiên cứu.
Kết luận: Amoxicilline khi dùng theo phương thức phòng ngừa có hiệu quả tương tự khi dùng theo phương
thức điều trị trong điều trị phẫu thuật nhổ răng khôn hàm dưới.
Từ khóa: kháng sinh, phòng ngừa, điều trị, phẫu thuật nhổ răng khôn hàm dưới
ABSTRACT
COMPATATIVE STUDY OF ANTIBIOTIC PROPHYLATIC OR THERAPEUTIC IN MANDIBULAR
THIRD MOLAR REMOVAL.
Le Thi Thu Trang, Ta To Tran, Nguyen Thi Bich Ly
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 19 - Supplement of No 2 - 2015: 249 - 253
Background: Lower third molar removal is a common surgical procedure performed in dentistry that often
results in pain, swelling, trismus and post-operation infection. Prophylatic or therapheutic antibiotic was
prescribed to release these uncomfortable.
Objective: To compare the effectiveness of Amoxicilline used by prophylactic or therapeutic protocols on
clinical features after a surgical removal of a mandibular third molar.
Methods: 30 patients in group A received Amoxicilline 500mg for three times a day for five days post-
operatively, and 30 patients in Group B received 2g Amoxicilline one hour pre-operatively. Pain, swelling,
trismus, state of the wounds and the incidence of infection were recorded before and on the 2th, 3th, and 7th after
operation.
Results: There was no statistically significant difference regarding the evaluated parameters between the two
groups.
Conclusion: Amoxicilline used in prophylactic protocol is as effective as therapeutic protocol on clinical
features after lower third molar removal.
Key words: Antibiotic, prophylactic, therapeutic, mandibular third molar removal
* BS RHM khóa 2008-2014- Khoa Răng Hàm Mặt, Đại học Y Dược Tp.HCM
** Bộ môn Phẫu thuật miệng- Khoa Răng Hàm Mặt, Đại học Y Dược Tp.HCM
Tác giả liên lạc: TS. Tạ Tố Trân ĐT: 0913632526 Email: totrandent@gmail.com
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 2 * 2015
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 250
MỞ ĐẦU
Răng khôn là răng có tỷ lệ mọc kẹt nhiều
nhất trên cung hàm, có thể gây ra nhiều biến
chứng. Phẫu thuật nhổ răng khôn là can thiệp
có tính xâm lấn đáng kể vào mô xương và mô
mềm xung quanh, có thể gây nhiều biến
chứng và khó chịu cho bệnh nhân sau phẫu
thuật, đáng kể nhất là nhiễm trùng, đau, sưng
mặt và khít hàm(6).
Việc sử dụng kháng sinh để điều trị các
biến chứng viêm, nhiễm trùng sau phẫu thuật
nhổ răng khôn hàm dưới đã được nghiên cứu
và cho thấy có hiệu quả(2,3,4,11). Kháng sinh dự
phòng trong nha khoa thường được sử dụng
trước can thiệp xâm lấn ở những bệnh nhân có
nguy cơ nhiễm trùng cao. Điều này có vai trò
trong việc làm giảm tình trạng nhiễm trùng
sau can thiệp. Lợi dụng đặc tính này của
kháng sinh, nhiều nghiên cứu trên thế giới đã
được thực hiện nhằm đánh giá khả năng ngăn
ngừa nhiễm trùng hậu phẫu của kháng sinh
dự phòng trên bệnh nhân khỏe mạnh trong
các can thiệp nha khoa để giảm liều lượng và
thời gian sử dụng thuốc. Các nghiên cứu
thường được thực hiện trên tiểu phẫu thuật
răng khôn hàm dưới(5,8,9,10) tuy nhiên kết quả
còn nhiều vấn đề cần thảo luận.
Vậy để trả lời có hay không có tác dụng của
kháng sinh dự phòng trong tiểu phẫu thuật răng
khôn hàm dưới, chúng tôi thực hiện nghiên cứu
này nhằm: So sánh hiệu quả của Amoxicilline
trong tiểu phẫu thuật răng khôn hàm dưới theo
2 phác đồ kháng sinh phòng ngừa và điều trị đối
với các biến chứng sau phẫu thuật như nhiễm
trùng, đau, sưng và khít hàm.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu
Chọn mẫu thuận tiện gồm các bệnh nhân ở
cả hai giới có nhu cầu và chỉ định nhổ răng khôn
hàm dưới mọc lệch đến khám và điều trị tại bộ
môn Phẫu thuật miệng-Khoa Răng Hàm Mặt-
Đại học Y Dược thành phố Hồ Chí Minh từ
tháng 1/2014 đến tháng 5/2014, với cỡ mẫu là 60
bệnh nhân. Các bệnh nhân tham gia nghiên cứu
thỏa mãn điều kiện bệnh nhân trong độ tuổi 18-
30 tuổi, sức khỏe toàn thân tốt, có răng khôn hàm
dưới lệch mức độ khó thuộc loại II, III và vị trí độ
sâu B, C dựa theo phân loại của Pell và
Gregory(6), được xác định trên phim toàn cảnh
và bệnh nhân đồng ý tham gia nghiên cứu sau
khi nghe giải thích rõ về mục đích và yêu cầu
của nghiên cứu. Đồng thời loại ra khỏi nghiên
cứu những bệnh nhân bị dị ứng với các loại
thuốc có trong nghiên cứu, đang sử dụng bất kì
một loại thuốc nào, phụ nữ mang thai hoặc đang
cho con bú, những người đang có tình trạng
nhiễm trùng.
Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu được thực hiện theo phương
pháp thử nghiệm lâm sàng thiết kế theo kỹ thuật
mù đơn. Vật liệu nghiên cứu là Amoxicilline
500mg viên nén.
60 bệnh nhân được chia thành 2 nhóm theo
kĩ thuật ngẫu nhiên: Nhóm A - sử dụng
Amoxicilline 500mg mỗi ngày 3 lần, mỗi lần 1
viên trong 5 ngày liên tiếp sau phẫu thuật, bắt
đầu uống sau phẫu thuật 3 giờ, Nhóm B - sử
dụng Amoxicilline 2g trước phẫu thuật 1 giờ(1).
Tất cả các bệnh nhân đều được thực hiện
phẫu thuật nhổ răng khôn hàm dưới theo quy
trình chuẩn của bộ môn Phẫu thuật miệng -
khoa Răng Hàm Mặt đại học Y Dược tp.HCM.
Tất cả các bệnh nhân được đánh giá tình trạng
nhiễm trùng trước phẫu thuật và được tái
khám vào ngày thứ 2, 3 và 7 sau phẫu thuật để
đánh giá các tình trạng nhiễm trùng, đau,
sưng và khít hàm.
KẾT QUẢ- BÀN LUẬN
Mẫu nghiên cứu gồm 39 nam và 21 nữ, tuy
nhiên tỉ lệ nam nữ giữa nhóm chứng và nhóm
thử nghiệm khác biệt không có ý nghĩa thống kê.
Độ tuổi trung bình của mẫu nghiên cứu 20 – 24,
sự phân bố tuổi ở hai nhóm trong nghiên cứu
không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 2 * 2015 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 251
Trong 60 răng nghiên cứu có 25 răng 38 và 35
răng 48, tuy nhiên sự phân bố của hai răng này
trong hai nhóm A và B không khác biệt có ý
nghĩa thống kê. Đa số răng trong nghiên cứu này
thuộc phân loại IIB (96,7% ở nhóm A và 93,3% ở
nhóm B), các phân loại khác chiếm tỷ lệ không
đáng kể. Độ khó của các răng trong hai nhóm A
và B không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê.
Các biến như lượng thuốc tê sử dụng và thời
gian phẫu thuật cũng được ghi nhận, và cũng
không có sự khác biệt giữa 2 nhóm ở các ghi
nhận này.
Đau
Tình trạng đau được đánh giá thông qua
cảm nhận chủ quan của bệnh nhân bằng thang
đo Likert 7 điểm.Tình trạng đau được đánh giá
trong ngày sau phẫu thuật và các ngày tái khám
sau đó. Tại thời điểm 2, 4, 6 giờ sau khi hết tê
môi, đa số bệnh nhân có cảm giác đau nhẹ đến
trung bình (lần lượt là 70%, 60%, 60% ở nhóm A
và 46,7%, 56,7%, 40% ở nhóm B). Số bệnh nhân
có cảm giác không đau hoặc đau rất nhẹ tăng
dần theo thời gian và số bệnh nhân có cảm giác
đau nhiều thì giảm dần (từ 20% đến 6,7% ở
nhóm A và từ 16,6% đến 6,7% ở nhóm B). Vào
ngày thứ 2 sau phẫu thuật ở nhóm A số bệnh
nhân không đau hoặc đau rất nhẹ tăng ( 26 bệnh
nhân, chiếm 86,7%) và 4 bệnh nhân (13,3%) đau
nhẹ đến trung bình. Tương tự, nhóm B số bệnh
nhân không đau hoặc đau rất nhẹ tăng (21 bệnh
nhân, chiếm 70%), 8 bệnh nhân (26,7%) đau nhẹ
đến trung bình, 1 bệnh nhân (3,3%) đau nhiều.
Vào ngày thứ ba sau phẫu thuật ở nhóm A có 27
bệnh nhân (90%) không đau hoặc đau rất nhẹ, 3
bệnh nhân (10%) đau nhẹ đến trung bình.
Nhóm B có 25 bệnh nhân (83,3%) không đau
hoặc đau rất nhẹ, 4 bệnh nhân (13,3%) đau nhẹ, 1
bệnh nhân (3,3%) đau nhiều.
Nhìn chung, trong ngày phẫu thuật và trong
hai ngày sau phẫu thuật, số bệnh nhân ở hai
nhóm A và B trong từng phân loại đau không có
sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (Kiểm định 2).
Cường độ đau sau phẫu thuật trong cả 2 nghiên
cứu ở 2 nhóm bệnh nhân sử dụng kháng sinh theo
phác đồ phòng ngừa hay điều trị là như nhau. Vậy
việc sử dụng Amoxicilline theo phác đồ phòng
ngừa hay điều trị không làm thay đổi cường độ
đau của bệnh nhân sau phẫu thuật nhổ răng
khôn lệch.
Sưng
Trong nghiên cứu này chúng tôi sử dụng
phương pháp khách quan để đo mức độ sưng
mặt: đo kích thước theo chiều ngang (đo khoảng
cách từ khóe miệng đến chân dái tai) và đo kích
thích theo chiều dọc (đo khoảng cách từ góc mắt
ngoài đến góc hàm dưới). Việc đo được thực
hiện theo độ lồi của má bằng cách dùng thước
dây (mm).
Mức độ sưng mặt được ghi nhận là hiệu số
của các khoảng cách đo được vào ngày thứ 2, 3, 7
so với ngày thứ 1 ngay trước phẫu thuật.
Bảng 1: Sự thay đổi mức độ sưng mặt theo chiều
ngang và chiều dọc ở hai nhóm
Thời
điểm
Nhóm A Nhóm B p(*)
Ngang Dọc Ngang Dọc Ngang Dọc
T2 2,67±0,296 2,97±0.337 2,5±0,37 2,97±0,350 0,727 1,000
T3 2,93±0,275 3,20±0,416 2,97±0,42 3,17±0,384 0,948 0,953
T7 0,23±0,10 0,27±0,106 0,20±0,09 0,30±0,085 0,808 0,808
Ở cả hai nhóm A và B, mức độ sưng mặt của
bệnh nhân khác biệt có ý nghĩa thống kê tại thời
điểm 2 và 3 ngày sau phẫu thuật so với trước
phẫu thuật. Sự khác biệt này không có ý nghĩa
thống kê vào thời điểm 7 ngày sau phẫu thuật.
Mức độ sưng mặt của bệnh nhân theo chiều
ngang và chiều dọc giữa nhóm A và nhóm B
không có sự khác biệt có ý nghĩa tại các thời
điểm. Kết quả tương tự với nghiên cứu của
López-Cedrún JL(7).
Vậy việc sử dụng phác đồ kháng sinh phòng
ngừa hay phác đồ kháng sinh điều trị không làm
thay đổi mức độ sưng mặt của bệnh nhân sau
phẫu thuật nhổ răng khôn lệch.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 2 * 2015
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 252
Đánh giá độ há miệng
Độ há miệng tối đa của bệnh nhân được đo
bằng thước kẹp với điểm tham chiếu là cạnh cắn
răng cửa giữa hàm trên và cạnh cắn răng cửa
giữa hàm dưới.
Bệnh nhân được gọi là có khít hàm khi độ há
miệng tối đa < 40mm.
Mức độ khít hàm được ghi nhận là hiệu số
giữa độ há miệng đo được vào ngày thứ 1 ngay
trước khi phẫu thuật so với các giá trị đo được
vào các lần tái khám vào ngày thứ 2, 3 và 7 sau
phẫu thuật.
Ở nhóm A và nhóm B, có sự khác biệt có ý
nghĩa thống kê độ há miệng giữa các thời điểm
trước và sau phẫu thuật (p<0,0083). Tuy nhiên
giá trị đo độ há miệng của bệnh nhân ở cả hai
nhóm A và nhóm B vào thời điểm 2, 3 ngày sau
phẫu thuật khác biệt có ý nghĩa thống kê so với
giá trị này trước phẫu thuật. Và sự khác biệt này
không có ý nghĩa thống kê vào thời điểm 7 ngày
sau phẫu thuật.
Bảng 2: Sự thay đổi độ há miệng của 2 nhóm A và B
tại các thời điểm.
Thời điểm Nhóm A Nhóm B p(*)
T2 6,883± 1,137 5,417 ±0,791 0,294
T3 6,500± 1,159 4,283± 0,557 0,090
T7 1,500 ±0,639 0,550± 0,204 0,162
Sự thay đổi độ há miệng ở từng thời điểm
giữa 2 nhóm không có sự khác biệt có ý nghĩa
thống kê (p>0,05).
Mức độ khít hàm của bệnh nhân ở nhóm A
và nhóm B không có sự khác biệt tại các thời
điểm. Do đó ta có thể suy ra rằng việc sử dụng
phác đồ kháng sinh phòng ngừa hay phác đồ
điều trị không ảnh hưởng đến độ há miệng của
bệnh nhân sau phẫu thuật răng khôn. Kết quả
của nghiên cứu này tương tự với nghiên cứu của
López-Cedrún JL(7).
Đánh giá nhiễm trùng:
Trong nghiên cứu này, các dấu hiệu nhiễm
trùng được đánh giá thông qua biến số sốt ≥
38°C kéo dài hơn 2 ngày sau phẫu thuật, có mủ
tại ổ nhổ răng, tình trạng viêm đỏ vùng nhổ
răng, chảy mủ và viêm ổ răng khô. Bệnh nhân
được theo dõi trong vòng 7 ngày sau phẫu thuật.
Kết quả cho thấy ở cả 2 nhóm A và nhóm B,
không có bệnh nhân nào có các dấu chứng
nhiễm trùng được phát hiện.
Điều này cho thấy Amoxicilline dùng theo
phác đồ phòng ngừa trước phẫu thuật nhổ răng
khôn hàm dưới đem lại hiệu quả ngăn ngừa
nhiễm trùng hậu phẫu tương tự như phác đồ
kháng sinh điều trị sau phẫu thuật.
Qua nghiên cứu chúng tôi nhận thấy việc
bệnh nhân sử dụng Amoxicilline theo phác đồ
phòng ngừa không làm thay đổi cảm nhận đau,
mức độ sưng, sự khít hàm hay tình trạng nhiễm
trùng hậu phẫu so với sử dụng kháng sinh theo
phác đồ điều trị trong phẫu thuật nhổ răng khôn
hàm dưới. Tuy nhiên việc sử dụng kháng sinh
theo phác đồ phòng ngừa có ưu điểm là giảm số
lượng thuốc và giảm thời gian sử dụng thuốc,
bệnh nhân khó quên và ít xảy ra trường hợp
không uống thuốc đủ theo toa, giúp làm giảm
khả năng kháng thuốc. Nhưng việc sử dụng một
lúc liều thuốc mạnh, nhiều viên cùng loại (4 viên
500mg 1 giờ trước phẫu thuật) cũng làm cho
bệnh nhân lo lắng.
KẾT LUẬN
Nghiên cứu thử nghiệm lâm sàng mù đơn so
sánh hiệu quả của Amoxicilline trong phẫu thuật
răng khôn hàm dưới theo hai phác đồ kháng
sinh phòng ngừa và điều trị trên 60 bệnh nhân.
Chúng tôi rút ra được một số kết luận như sau:
- Cường độ đau sau phẫu thuật nhổ răng
khôn hàm dưới của bệnh nhân ở hai nhóm sử
dụng Amoxicilline theo phác đồ phòng ngừa và
điều trị không có sự khác biệt.
- Mức độ sưng sau phẫu thuật nhổ răng
khôn hàm dưới của bệnh nhân ở hai nhóm sử
dụng Amoxicilline theo phác đồ phòng ngừa và
điều trị không có sự khác biệt.
- Tình trạng khít hàm sau phẫu thuật nhổ
răng khôn hàm dưới của bệnh nhân ở hai nhóm
sử dụng Amoxicilline theo phác đồ phòng ngừa
và điều trị không có sự khác biệt.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 2 * 2015 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 253
- Tình trạng nhiễm trùng hậu phẫu sau phẫu
thuật nhổ răng khôn hàm dưới của bệnh nhân ở
hai nhóm sử dụng Amoxicilline theo phác đồ
phòng ngừa và điều trị không có sự khác biệt.
Nghiên cứu này cho thấy việc sử dụng
Amoxicilline theo phác đồ phòng ngừa trước phẫu
thuật có hiệu quả tương tự như phác đồ điều trị sau
phẫu thuật răng khôn hàm dưới về tình trạng lâm
sàng của bệnh nhân sau phẫu thuật.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. American Heart Association (2007). Antibiotic Prophylaxis
Guidelines.
2. Arteagoitia I. và cộng sự (2005), “Efficacy of
Amoxicilline/clavulanic acid in preventing infectious and
inflammatory complications following impacted mandibular
third molar extraction”, Oral Surg Oral Med Oral Pathol Oral
Radiol Endod, 100(1), pp.11-18.
3. Dimova và cộng sự (2012), “Evaluation of antibiotic prophylaxis
and postoperative complications after impacted third molar surgery”,
In: Macedonian Orthodontic Society, Second International
Congress, pp.17-20.
4. Hill M (2005), “No benefit from prophylactic antibiotics in
third molar surgery”, Evid Based Dent, 6(1), pp.10.
5. Lê Đức Lánh (2011), Phẫu Thuật Miệng Tập 1, Nhà xuất bản Y
học, tr.168-191.
6. Lê Đức Lánh (2012), Phẫu Thuật Miệng Tập 2, Nhà xuất bản Y
học, tr.117-124.
7. López-Cedrún JL và cộng sự (2011), “Efficacy of Amoxicilline
treatment in preventing postoperative complications in
patients undergoing third molar surgery: a prospective,
randomized, double-blind controlled study”, J Oral Maxillofac
Surg , 69(6), pp.5-14.
8. Luaces-Rey R. và cộng sự (2010), “Efficacy and safety
comparison of two Amoxicilline administration schedules
after third molar removal. A randomized, double-blind and
controlled clinical trial”, Med Oral Patol Oral Cir Bucal, , 15(4),
pp.633-638.
9. Marcelo Carlos Bortoluzzi và cộng sự (2013), “A Single Dose
of Amoxicilline and Dexamethasone for Prevention of
Postoperative Complications in Third Molar Surgery: A
Randomized, Double-Blind, Placebo Controlled Clinical
Trial”, J Clin Med Res, 5(1), pp.26-33.
10. Olusanya AA và cộng sự (2011), “Prophylaxis versus pre-
emptive antibiotics in third molar surgery: a randomised
control study”, Niger Postgrad Med J, 18(2), pp.105-10.
11. Siddiqi A. và cộng sự (2010), “Antibiotic prophylaxis in third
molar surgery: A randomized double-blind placebo-
controlled clinical trial using split-mouth technique”,
International Journal of Oral and Maxillofacial Surgery, 39(2),
pp.107–114.
Ngày nhận bài báo: 31/01/2015
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 02/03/2015
Người phản biện: TS Trần Hùng Lâm
Ngày bài báo được đăng: 10/04/2015
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- so_sanh_hieu_qua_cua_amoxicilline_theo_hai_phac_do_phong_ngu.pdf