5. KẾT LUẬN
5.1. So sánh thời gian sửa soạn và kết quả tạo
hình ống tuỷ sau khi sửa soạn bằng trâm quay Hyflex và trâm tay thông thường
5.1.1. Thời gian sửa soạn ống tuỷ của trâm Hyflex và trâm tay NiTiflex
- Thời gian sửa soạn một ống tuỷ trung bình của
trâm Hyflex là 498,50 ± 22,12 giây, thời gian sửa
soạn một ống tuỷ trung bình của trâm tay NiTiflex là
961,78 ± 47,12 giây (p= 0.002).
5.1.2. Đặc điểm của những ống tuỷ cong trước
và sau khi sửa soạn của hai nhóm nghiên cứu
- Trung bình góc cong ống tuỷ trước khi sửa soạn
ở nhóm trâm Hyflex là 28,78 ± 5,670 và ở nhóm trâm
NiTiflex là 30,19 ± 5,950 (p = 0,061).
5.1.3. Sự thay đổi độ cong ống tuỷ sau khi sửa
soạn với trước khi sửa soạn của hai nhóm nghiên
cứu
- Ở nhóm trâm Hyflex, góc cong ống tuỷ sau khi
sửa soạn là 26,890 ± 5,280, trước khi sửa soạn là
28,780 ± 5,670 (p = 0,057). Ở nhóm trâm tay NiTiflex,
góc cong ống tuỷ sau khi sửa soạn là 24,45 0 ± 6,590,
trước khi sửa soạn là 30,19 0 ± 5,950 (p = 0,004).
- Trâm Hyflex làm thay đổi góc cong ống tuỷ là
1,890 ± 2,340, trâm tay NiTiflex làm thay đổi góc cong
ống tuỷ là 5,740 ± 3,170 (p = 0,002).
5.1.4. Sự thay đổi chiều dài ống tuỷ sau khi sửa
soạn với trước khi sửa soạn của hai nhóm nghiên
cứu
- Trung bình sự thay đổi chiều dài ống tuỷ ở
nhóm trâm Hyflex là 0,15 ± 0,42, trung bình sự thay
đổi chiều dài ống tuỷ ở nhóm trâm tay NiTiflex là
0,32 ± 0,27mm (p= 0,073).
5.1.5. Tai biến trong quá trình sửa soạn ống tuỷ
- Ở nhóm trâm Hyflex, có 90,0% không tai biến, 1
trường hợp khấc ống tuỷ (chiếm tỷ lệ 10,0%).
- Ở nhóm trâm tay NiTiflex, có 80,0% không tai
biến, 1 trường hợp gãy trâm (chiếm tỷ lệ 10,0%) và 1
trường hợp tạo khấc (10,0%).
5.2. So sánh kết quả trám bít ống tuỷ sau khi sửa
soạn bằng trâm quay Hyflex và trâm tay thông thường
- Kết quả điều trị của nhóm răng sửa soạn bằng
trâm Hyflex:
+ Sau trám bít ống tuỷ: Tốt 90%, trung bình 10%,
kém là 0%.
+ Sau 1 tuần: Tốt 80%, trung bình 10%, kém 0%.
+ Sau theo dõi 3 tháng: Thành công 90%, nghi
ngờ 10%, thất bại 0%.
- Kết quả điều trị của nhóm răng sửa soạn bằng
trâm tay NiTiflex:
+ Sau trám bít ống tuỷ: Tốt 70%, trung bình 20%,
kém là 10%.
+ Sau 1 tuần: Tốt 80%, trung bình 20%, kém 0%.
+ Sau theo dõi 3 tháng: Thành công 80%, nghi
ngờ 10%, thất bại 10%.
10 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 15 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu So sánh hiệu quả của trâm quay liên tục hyflex và trâm tay thông thường trong điều trị nội nha ở ống tuỷ ngoài gần của răng cối lớn thứ nhất hàm dưới, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
68
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 9, số 2 - tháng 4/2019
Địa chỉ liên hệ: Trần Tấn Tài, email: taihangdr@gmail.com
Ngày nhận bài: 27/3/2019, Ngày đồng ý đăng: 12/4/2019; Ngày xuất bản: 25/4/2019
SO SÁNH HIỆU QUẢ CỦA TRÂM QUAY LIÊN TỤC HYFLEX
VÀ TRÂM TAY THÔNG THƯỜNG TRONG ĐIỀU TRỊ NỘI NHA Ở ỐNG
TUỶ NGOÀI GẦN CỦA RĂNG CỐI LỚN THỨ NHẤT HÀM DƯỚI
Trần Tấn Tài, Lê Thị Quỳnh Thư, Lê Hà Thuỳ Nhung
Khoa răng - Hàm - Mặt, Trường Đại học Y Dược, Đại học Huế
Tóm tắt
Mục tiêu: So sánh thời gian sửa soạn, kết quả tạo hình ống tuỷ về sự thay đổi độ cong ống tuỷ và chiều
dài làm việc, kết quả trám bít ống tuỷ sau khi sửa soạn bằng trâm quay Hyflex và trâm tay thông thường tại
bệnh viện Trường Đại học Y Dược Huế. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu được thực hiện
trên 20 răng cối lớn thứ nhất hàm dưới bị bệnh lý tuỷ răng và mô quanh chóp của 20 bệnh nhân, lứa tuổi từ
15-60, được chỉ định điều trị nội nha không phẫu thuật tại Khoa Răng Hàm Mặt - Bệnh viện Trường Đại học Y
Dược Huế, gồm 20 ống tuỷ ngoài gần được chia thành 2 nhóm: nhóm 1 (10 ống tuỷ): sửa soạn ống tuỷ bằng
trâm quay Hyflex và nhóm 2 (10 ống tuỷ): sửa soạn ống tuỷ bằng trâm tay NiTiflex theo kỹ thuật hướng dẫn
bởi nhà sản xuất. Đánh giá sự thay đổi độ cong và chiều dài làm việc dựa trên Xquang cận chóp trước và sau
khi sửa soạn. Thời gian sửa soạn ghi nhận bằng đồng hồ bấm giây. Các răng sau khi sửa soạn được khám lâm
sàng và chụp X quang cận chóp để theo dõi sau 1 tuần và 3 tháng. Thiết kế nghiên cứu theo phương pháp thử
nghiệm lâm sàng tiến cứu, so sánh nhóm. Các số liệu của nghiên cứu được xử lý thống kê bằng phần mềm
SPSS 16.0. Kết quả: Nghiên cứu cho thấy trâm máy Hyflex sửa soạn ống tủy nhanh và duy trì độ cong ống tủy
ban đầu tốt hơn trâm tay NiTiflex (p 0,05);
tai biến khấc ống tuỷ đều gặp ở 1 trường hợp cho mỗi nhóm nghiên cứu; 1 trường hợp gãy trâm NiTiflex và
không có tai biến khoan thủng hay làm loe chóp răng. Kết quả lâm sàng sau 3 tháng của 2 nhóm tương đương
nhau: ở nhóm trâm Hyflex, kết quả thành công chiếm 90 % và nghi ngờ là 10%; ở nhóm trâm tay NiTiflex, 80%
răng có kết quả thành công, 10% trường hợp nghi ngờ và 10% thất bại. Kết luận: Trong điều kiện của nghiên
cứu này, cả 2 loại dụng cụ đều an toàn khi sử dụng, đem lại hiệu quả tương đương nhau trong việc sửa soạn
ống tủy và kết quả lâm sàng của điều trị nội nha. Tuy nhiên, trâm Hyflex quay máy giảm đáng kể thời gian làm
việc và duy trì độ cong ống tủy ban đầu tốt hơn nhưng chi phí điều trị cao gấp 9-10 lần so với trâm tay NiTiflex.
Từ khóa: làm sạch, tạo dạng, ống tuỷ, trâm quay, độ cong ống tuỷ.
Abstract
COMPARING THE EFFECTIVENESS OF HYFLEX ROTARY AND HAND
– OPERATED INSTRUMENTS IN PREPARING MESIO-BUCCAL
ROOT CANALS OF MANDIBULAR PERMANENT FIRST MOLARS
Tran Tan Tai, Le Thi Quynh Thu, Le Ha Thuy Nhung
Faculty of Odonto Stomatology, Hue University of Medicine and Pharmacy, Hue University
Objectives: To compare the effectiveness of Hyflex rotary and NiTiflex hand-operated instruments
in regard to 4 parameters of root canal preparation: the working time, the alteration of canal curvature
and working length, obturating efficacy. Materials and methods: A total of 20 mesio-buccal root canals of
mandibular first molars were randomly divided into two similar groups. Group 1 root canals were prepared
with Hyflex rotary files according to the manufacter’s instructions. Group 2 with NiTi manual instruments
in crown-down technique. Based on radiographs taken prior to instrumentation with the initial instruments
inserted into the canals, the 2 groups were balanced with respect to the angle of canal curvature and working
length. Canals were prepared using a crown - down preparation technique as instructed by the manufacturer.
Group 1 was prepared by rotary Hyflex files and group 2 was prepared by NiTiflex hand-operated instruments.
The assessment of changes of canal curvature and working length was based on radiographs taken prior
and post instrumentation. The time required for canal preparation was recorded for each specimen.
Postoperative teeth were examined clinically and radiographically after 1 week and 3 months. Research
DOI: 10.34071/jmp.2019.2.12
69
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 9, số 2 - tháng 4/2019
design was prospective clinical trials, group comparison. Data was statistically analysed using the SPSS 16.0
software. Results: Rotary Hyflex files prepared significantly faster and maintained the original canal curvature
better than hand - operated Nitiflex files (p < 0.05). There was no significant differences in maintaining initial
working length of two groups (p > 0.05) and both hand NiTiflex and rotary Hyflex instruments showed 1 case
of ledge formation for each, 1 NiTiflex file separation and no perforation or apical transportion. Three-month
clinical results were equal: in rotary Hyflex group, 90% teeth of successful result, 10% teeth in suspect; in
NiTiflex hand-operated group, 80% ratio of successfully- treated teeth, 10% suspect and 10% failing result.
Conclusions: Under the conditions of this clinical study, both instruments were safe to use, showed equally
efficacy in preparing root canals and endodontic clinical results. However, rotary Hyflex significantly reduced
working time and respected original canal curvature better than hand–operated NiTiflex files, with higher
treatment cost from 9 to 10 times.
Keywords: cleaning, shaping, root canals, rotary, canal curvature.
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Bệnh lý tuỷ răng là một bệnh lý răng miệng rất
thường gặp. Tuỷ răng bị viêm hoặc hoại tử nếu
không điều trị hoặc điều trị không đúng sẽ dẫn đến
nhiều biến chứng như viêm quanh chóp cấp và mạn
tính, áp-xe quanh chóp hay nặng hơn là viêm mô tế
bào Vì vậy, những răng này được chỉ định điều trị
nội nha nhằm loại bỏ nhiễm trùng, tránh gây biến
chứng về sau.
Để đạt được thành công trong điều trị nội nha,
nhà lâm sàng phải tuân thủ theo ba nguyên tắc là vô
trùng, làm sạch và tạo dạng ống tủy, trám bít ống tủy
theo ba chiều không gian. Giai đoạn làm sạch và tạo
dạng hệ thống ống tuỷ được đánh giá là một trong
những bước quan trọng góp phần thành công cho
quá trình điều trị tuỷ với hàng loạt hệ thống trâm
quay mới ra đời như Profile, Quantec, ProTaper và
mới nhất là Hyflex. Hệ thống này làm tăng hiệu quả
sửa soạn ống tuỷ và hạn chế sai sót của điều trị như
thay đổi hình dạng nguyên thuỷ của ống tuỷ, dịch
chuyển lỗ chóp, thủng thành
Tuy nhiên, với điều kiện kinh tế chưa cao ở nước
ta hiện nay, việc điều trị tuỷ với trâm tay thông
thường bằng thép không gỉ hoặc NiTi vẫn còn được
áp dụng phổ biến trên lâm sàng vì giá thành rẻ, kỹ
thuật sử dụng đơn giản, không yêu cầu trang thiết bị
hiện đại, điển hình như file K NiTiflex NiTi có độ dẻo
và chống gãy cao, khả năng cắt ngà hiệu quả đặc biệt
trong tạo hình ống tuỷ cong khó.
Vì vậy, nhằm đánh giá hiệu quả của hai hệ thống
trâm này trong việc điều trị tuỷ ở ống tuỷ răng cối lớn
hàm dưới, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài này
với 2 mục tiêu sau:
1. So sánh thời gian sửa soạn và kết quả tạo hình
ống tuỷ sau khi sửa soạn bằng trâm quay Hyflex và
trâm tay thông thường.
2. So sánh kết quả trám bít ống tuỷ sau khi sửa
soạn bằng trâm quay Hyflex và trâm tay thông
thường.
2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng nghiên cứu:
Nghiên cứu được tiến hành tại Phòng khám Răng
Hàm Mặt - Bệnh viện Trường Đại học Y Dược Huế.
Trong thời gian từ tháng 3/2018 đến tháng 3/2019,
có 20 ống tuỷ ngoài gần của răng cối lớn thứ nhất
hàm dưới bị bệnh lý tuỷ răng và mô quanh chóp trên
20 bệnh nhân đủ tiêu chuẩn can thiệp điều trị và
theo dõi : chóp chân răng đã trưởng thành; không
có vôi hóa ống tủy; chân răng có ống tuỷ cho trâm
số 10 đi hết chiều dài và cong từ 20-400 hình chữ L
theo chiều gần xa (xác định qua phim cận chóp theo
phương pháp Pruett J.P và cs); ống tủy không cong
dạng chữ S, chữ C.
2.2. Phương pháp nghiên cứu
2.2.1. Thiết kế nghiên cứu: Nghiên cứu thử
nghiệm lâm sàng tiến cứu, so sánh nhóm.
2.2.2. Phương pháp chọn mẫu: Chọn mẫu ngẫu
nhiên không xác suất theo mẫu thuận tiện.
2.2.3. các bước tiến hành nghiên cứu: Bệnh
nhân được điều trị theo cùng phương pháp, số
lượng trâm của 2 loại và số lần bơm rửa là bằng nhau
2.2.3.1. Khả năng tạo hình ống tuỷ của trâm
quay Hyflex và trâm tay Nitiflex
- Gây tê lấy tuỷ, nếu tuỷ còn sống. Nếu răng viêm
tuỷ không hồi phục có phản ứng chóp hoặc có ống
tuỷ cong, răng viêm quanh chóp cấp hoặc mạn, tuỷ
hoại tử, lấy sạch toàn bộ mô tuỷ viêm và hoại tử, mở
để trống để dẫn lưu nếu cần thiết.
- Các răng được mở tuỷ bằng mũi khoan Endo
Access, đặt trâm số 10 vào ống tuỷ ngoài gần của
răng cối lớn thứ nhất hàm dưới. Chụp phim X quang
gốc răng theo phương pháp song song.
- Sử dụng phần mềm GNU Image Manipulation
Program 2.8 ghi nhận góc cong và chiều dài ống tuỷ
trước khi sửa soạn theo phương pháp của Pruett J.P
và cs.
Góc cong: Một đường thẳng (a) được vẽ theo
trâm trong phần thẳng của ống tuỷ, đường này song
70
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 9, số 2 - tháng 4/2019
song với trục dài của ống tuỷ. Điểm A được đánh
dấu là điểm bắt đầu cong của ống tuỷ. Đường thẳng
(b) là đường nối giữa điểm A và lỗ chóp chân răng
(điểm B). Góc cong là góc được tạo bởi đường a và
đường b (góc α).
- Chọn ngẫu nhiên các mẫu được chọn theo đúng
tiêu chuẩn vào hai nhóm:
+ Nhóm 1: được sửa soạn bằng trâm quay Hyflex
theo hướng dẫn của nhà sản xuất, ghi nhận thời gian
sửa soạn.
+ Nhóm 2: được sửa soạn bằng trâm tay Nitiflex
(File K và H) theo hướng dẫn của nhà sản xuất, ghi
nhận thời gian sửa soạn.
+ Đo thời gian sửa soạn ống tuỷ: Ghi nhận thời
gian sửa soạn của từng ống tuỷ bằng cách sử dụng
đồng hồ bấm giây, bắt đầu tính từ lúc đưa trâm 15
vào ống tuỷ đến khi kết thúc công việc sửa soạn (bao
gồm thời gian thay trâm).
+ Tai biến trong quá trình điều trị: Gãy dụng cụ,
thủng chóp, tạo khấc trong lòng ống tuỷ; thủng chân
răng; không sửa soạn được qua chỗ ống tuỷ cong.
- Ghi nhận góc cong và chiều dài ống tuỷ sau khi
sửa soạn:
+ Sau khi sửa soạn, đặt trâm số 20 vào ống tuỷ
đã sửa soạn đi hết chiều dài làm việc. Sau đó,chụp
phim.
+ Ghi nhận góc cong và chiều dài ống tuỷ sau khi
sửa soạn theo phương pháp của Pruett J.P và cs [11].
+ Sự thay đổi độ cong của ống tuỷ được tính
bằng công thức:
Sự thay đổi độ cong ống tuỷ = Góc cong OT
trước SS – Góc cong OT sau SS
+ Sự thay đổi chiều dài ống tuỷ được tính bằng
công thức:
Sự thay đổi chiều dài OT = Chiều dài OT trước
SS – Chiều dài OT sau SS
2.2.3.2. Đánh giá kết quả trám bít ống tuỷ sau khi
sửa soạn bằng trâm quay Hyflex và trâm tay NiTiflex
- Chuẩn bị côn chính (côn chuẩn có cùng số với
cây trâm sửa soạn chóp cuối cùng), các cây côn phụ.
Thử côn: từ từ đưa cây côn chuẩn tương ứng cỡ
trâm hoàn tất cuối cùng. Cây côn này cần đạt được
chiều dài làm việc, khít với ống tuỷ ở 1/3 chóp, đánh
dấu chiều dài làm việc trên côn.
- Chụp phim thử côn: Côn tới chóp hoặc cách
chóp 0,5-1 mm là đạt yêu cầu.
- Chuẩn bị xi măng AH26 được trộn theo tỷ lệ của
nhà sản xuất.
- Cô lập răng và lau khô ống tuỷ bằng côn giấy.
- Dùng cây trâm sửa soạn ống tuỷ sau cùng phết
xi măng phía đầu trâm từ từ đưa đến hết chiều dài
ống tuỷ, xoay tròn đầu trâm sao cho xi măng quét
một lớp đều trên thành ống tuỷ đến 1/3 chóp.
- Lấy cây côn chính phết xi măng phía đầu côn,
từ từ đưa vào ống tuỷ theo vách tuỷ cho hết chiều
dài làm việc.
- Đặt những cây côn phụ với kỹ thuật lèn ngang.
- Dùng cây nhồi lớn, nhồi dọc phần côn nơi lỗ tuỷ
được kín chặt tại 1/3 cổ.
- Chụp phim kiểm tra ngay sau khi điều trị.
- Đánh giá:
+ Đánh giá kết quả trám bít ống tuỷ ngay sau
điều trị bằng Xquang kỹ thuật số: Theo 3 mức độ
(tốt, trung bình, kém).
Kết quả Tiêu chuẩn đánh giá
Tốt
- Ống tuỷ trám thuôn đều hình côn
- Trám đủ số lượng, đủ chiều dài OT
- Không tạo khấc trong lòng OT, đặc biệt ở vùng OT cong
Trung bình
- OT trám không tạo được độ thuôn đều hình côn
- Tạo khấc trong lòng OT, đặc biệt là vùng OT cong, loe rộng lỗ chóp răng
- Trám đủ số lượng.
Kém
- Gãy dụng cụ, không trám OT tới được chóp răng XQ
- Thủng OT
- Thủng, rách lỗ chóp răng
- Trám sót OT, thiếu chiều dài OT hoặc quá chóp.
+ Đánh giá lâm sàng kết quả điều trị sau trám bít ống tuỷ 1 tuần: Theo 3 mức độ dựa vào tiêu chí [2]
Triệu chứng Tốt Trung bình Kém
Đau răng Không đau Đau nhẹ khi nhai Đau tự nhiên
Ngách lợi Không sưng Không sưng Đỏ, nề, ấn đau
Gõ răng Không đau Đau nhẹ Đau nhiều
71
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 9, số 2 - tháng 4/2019
+ Đánh giá kết quả điều trị sau 3 tháng: Theo các tiêu chí [2]
Kết quả X- quang Lâm sàng
Thành
công
- Trám ống tuỷ đến đúng giới hạn chiều dài làm việc trên
XQ. Khối chất trám đặc, kín
- Khoảng dây chằng quanh răng bình thường, tổn thương
trước đó đã sửa chữa
- Không có hiện tượng tiêu xương
- Phiến cứng bình thường
- Không đau, không có lỗ rò,
không có dấu hiệu viêm nhiễm
- Ăn nhai được
Nghi ngờ
- Trám quá chóp răng XQ từ 0,5 - 1mm, có khoảng trống
trong khối chất trám
- Tổn thương cũ không thay đổi
- Dây chằng quanh răng giãn rộng
- Phiến cứng bị tổn thương
- Các triệu chứng không rõ ràng,
hơi khó chịu khi gõ, sờ nắn hoặc
nhai
Thất bại
- Trám quá mức, chất trám ra ngoài chóp, trám không kín
hoặc trám thiếu > 2mm
- Tổn thương cũ lan rộng
- Tăng độ rộng khoảng dây chằng quanh răng
- Gãy dụng cụ, không trám OT tới được chóp răng XQ
- Đau, các triệu chứng thực thể
kéo dài dai dẳng
- Sưng hoặc rò tái phát
- Không thể nhai
3. KẾT QUẢ
3.1. So sánh thời gian sửa soạn và kết quả tạo hình ống tuỷ sau khi sửa soạn bằng trâmquay Hyflex và
trâm tay thông thường
3.1.1. So sánh thời gian sửa soạn ống tuỷ giữa trâm Hyflex và trâm tay NiTiflex
Bảng 3.1. Thời gian sửa soạn ống tuỷ của hai nhóm nghiên cứu
Đặc điểm
Nhóm
Thời gian sửa soạn (giây)
(TB ± ĐLC)
Trâm Hyflex 498,50 ± 22,12
Trâm NiTiflex 961,78 ± 47,12
Giá trị p 0,002
Thời gian sửa soạn ống tuỷ bằng trâm Hyflex 498,50 ± 22,12 giây. Thời gian sửa soạn ống tuỷ bằng trâm
tay NiTiflex 961,78 ± 47,12 giây (p = 0.002).
3.1.2. Đặc điểm của những ống tuỷ cong trước khi sửa soạn ở hai nhóm nghiên cứu
Bảng 3.2. Góc cong ống tuỷ trước khi sửa soạn của hai nhóm nghiên cứu
Đặc điểm
Nhóm
Góc cong trước khi sửa soạn (0)
Trung bình ± Độ lệch chuẩn Giá trị nhỏ nhất Giá trị lớn nhất
Trâm Hyflex 28,78 ± 5,67 20,11 39,92
Trâm NiTiflex 30,19 ± 5,95 20,03 39,82
Giá trị p 0,061
Góc cong ống tuỷ trước khi sửa soạn của nhóm trâm quay Hyflex là 28,78 ± 5,670 . Góc cong ống tuỷ trước
khi sửa soạn của nhóm trâm tay NiTiflex là 30,19 ± 5,950 (p = 0,061).
3.1.3. So sánh sự thay đổi độ cong của ống tuỷ sau khi sửa soạn giữa hai nhóm nghiên cứu
Bảng 3.3. Góc cong ống tuỷ trước và sau khi sửa soạn của hai nhóm nghiên cứu
và sự thay đổi góc cong của ống tuỷ
Đặc điểm
Nhóm
Góc cong (0)
p1
Thay đổi độ cong (0)
Trước sửa soạn
(TB ± ĐLC)
Sau sửa soạn
(TB ± ĐLC)
Trung bình ±
Độ lệch chuẩn
Giá trị nhỏ
nhất
Giá trị lớn
nhất
Trâm Hyflex 28,78 ± 5,67 26,89 ± 5,28 0,057 1,89 ± 2,34 1,35 2,27
72
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 9, số 2 - tháng 4/2019
Trâm NiTiflex 30,19 ± 5,95 24,45 ± 6,59 0,004 5,74 ± 3,17 4,47 7,98
Giá trị p2 0,061 0,046 0,002
- Góc cong ống tuỷ trước khi sửa soạn ở nhóm trâm Hyflex là 28,780 ± 5,670 và sau khi sửa soạn là 26,890
± 5,280 (p = 0,057). Góc cong ống tuỷ trước khi sửa soạn ở nhóm trâm tay NiTiflex là 30,190 ± 5,950 và sau khi
sửa soạn là 24,45 0 ± 6,590 (p = 0,004).
- Nhóm răng được sửa soạn bằng trâm quay Hyflex có sự thay đổi độ cong ống tuỷ là 1,890 ± 2,340. Nhóm
trâm tay NiTiflex có sự thay đổi độ cong ống tuỷ là 5,740 ± 3,170 (p = 0,002).
3.1.4. So sánh sự thay đổi chiều dài ống tuỷ trước và sau sửa soạn giữa hai nhóm nghiên cứu
Bảng 3.4. Chiều dài ống tuỷ trước và sau khi sửa soạn của hai nhóm nghiên cứu
và sự thay đổi chiều dài làm việc
Đặc điểm
Nhóm
Chiều dài ống tuỷ (mm)
Giá trị p1
Thay đổi chiều dài
(mm)
(TB ± ĐLC)
Trước sửa soạn
(TB ± ĐLC)
Sau sửa soạn
(TB ± ĐLC)
Trâm Hyflex 18,93 ± 1,33 18,78 ± 1,29 0,15 ± 0,42 0,15 ± 0,42
Trâm NiTiflex 18,82 ± 1,26 18,5 ± 1,23 0,32 ± 0,27 0,32 ± 0,27
Giá trị p2 0,255 0,147 0,073 0,073
- Ở nhóm trâm Hyflex, trung bình chiều dài ống tuỷ trước khi sửa soạn là 18,93 ± 1,33 mm và sau khi sửa
soạn là 18,78 ± 1,29mm (p= 0,566). Ở nhóm trâm NiTiflex, trung bình chiều dài ống tuỷ trước khi sửa soạn là
18,82 ± 1,26 mm và sau khi sửa soạn là 18,5 ± 1,23mm (p= 0,003).
- Nhóm răng được sửa soạn bằng trâm quay Hyflex có sự thay đổi chiều dài ống tuỷ sau khi sửa soạn so
với trước khi sửa soạn là 0,15 ± 0,42 mm. Nhóm răng được sửa soạn bằng trâm tay NiTiflex có sự thay đổi
chiều dài ống tuỷ là 0,32 ± 0,27 mm (p = 0,073).
3.1.5. Tai biến trong quá trình sửa soạn ống tuỷ
Bảng 3.5. Tai biến trong quá trình sửa soạn ống tuỷ
Trâm Hyflex Trâm tay
Tai biến Số lượng răng Tỷ lệ % Số lượng răng Tỷ lệ %
Gãy dụng cụ 0 0 1 10,0
Thủng OT 0 0 0 0
Tạo khấc 1 10,0 1 10,0
Rách lỗ chóp răng 0 0 0 0
Không tai biến 9 90,0 8 80,0
Trong nhóm răng được sửa soạn bằng trâm quay Hyflex có 1 răng tai biến: ống tuỷ bị khấc ở 1/3 chóp
răng chiếm tỷ lệ 10,0%. Nhóm răng được sửa soạn bằng trâm tay NiTiflex có 1 răng bị gãy dụng cụ (10,0%) và
1 răng bị khấc ở 1/3 chóp răng (10,0%).
3.2. So sánh kết quả trám bít ống tuỷ sau khi sửa soạn bằng trâm quay Hyflex và trâm tay thông thường
3.2.1. Kết quả sau trám bít oT trên phim X-quang và kết quả lâm sàng sau trám bít ống tuỷ 1 tuần
Bảng 3.6. Kết quả sau trám bít OT trên phim X-quang và kết quả lâm sàng sau trám bít OT 1 tuần
Đánh giá
Sau trám bít OT trên phim X-quang
Sau trám bít ống tuỷ 1 tuần
trên lâm sàng
Trâm Hyflex Trâm tay Trâm Hyflex Trâm tay
n % n % n % n %
Tốt 9 90,0 7 70,0 9 90,0 8 80,0
Trung bình 1 10,0 2 20,0 1 10,0 2 20,0
Kém 0 0 1 10,0 0 0 0 0
Tổng số 10 100,0 10 100,0 10 100,0 10 100,0
73
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 9, số 2 - tháng 4/2019
- Kết quả điều trị dựa vào phim XQ ngay sau trám ống tuỷ trong nhóm răng được sửa soạn bằng trâm
Hyflex đạt tốt là 90,0 % và trung bình là 10,0 %. Trong nhóm răng được sửa soạn bằng trâm tay NiTiflex có kết
quả XQ thành công là 70,0%, trung bình là 20,0%, kém là 10,0%.
- Kết quả điều trị sau trám ống tuỷ 1 tuần trong nhóm răng được sửa soạn bằng trâm máy Hyflex có tỷ lệ
tốt là 90,0%, trung bình là 10,0%, kém là 0%. Nhóm răng được sửa soạn bằng trâm tay NiTiflex có tỷ lệ tốt là
80,0%, trung bình 20,0% và kém là 0%.
3.2.2. Kết quả điều trị sau 3 tháng
Bảng 3.7. Kết quả điều trị sau 3 tháng
Đánh giá
Trâm Hyflex Trâm tay
n % n %
Thành công 9 90,0 8 80
Nghi ngờ 1 10,0 1 10,0
Thất bại 0 0 1 10,0
Tổng số 10 100,0 10 100
Tỷ lệ thành công của điều trị nội nha sau theo dõi 3 tháng trong nhóm răng được sửa soạn bằng trâm
Hyflex là 90,0%, 1 răng được đánh giá nghi ngờ (10,0%). Nhóm răng được sửa soạn bằng trâm tay NiTiflex có
tỷ lệ thành công là 80,0%; 1 răng được đánh giá còn nghi ngờ, cần theo dõi thêm, chiếm tỷ lệ 10,0%; 1 răng
thất bại (10%).
4. BÀN LUẬN
4.1. So sánh thời gian sửa soạn và kết quả tạo
hình ống tuỷ sau khi sửa soạn bằng trâm quay Hy-
flex và trâm tay thông thường
4.1.1. So sánh thời gian sửa soạn ống tuỷ của
trâm Hyflex và trâm tay NiTiflex
Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy thời gian
sửa soạn một ống tuỷ trung bình của trâm Hyflex là
498,50 ± 22,12 giây nhỏ hơn có ý nghĩa thống kê so
với thời gian sửa soạn của trâm tay NiTiflex là 961,78
± 47,12 giây (p < 0,05).
Trung bình thời gian sửa soạn ống tuỷ bằng trâm
Hyflex của chúng tôi tương tự thời gian làm việc
bằng trâm quay NiTi của tác giả Cao Thị Ngọc (511,8
± 485,4 giây) [4], tuy nhiên vẫn lớn hơn nhiều so
với các tác giả Burklein và cs [8] (2014) (là 242,4 ±
39,5 giây), Saber và cs (2015)(57,0 ± 18,0 giây) [12].
Sự khác biệt này có thể do nghiên cứu của các tác
giả trên được thực hiện trên mẫu răng khô nên chủ
động trong quá trình làm việc còn nghiên cứu của
chúng tôi thực hiện trên lâm sàng nên có thể bị ảnh
hưởng bởi nhiều yếu tố như tư thế làm việc, khó
khăn từ bệnh nhân, sự cản trở của môi, má, lưỡi,
nước bọt, sự đa dạng của các hình thái ống tuỷ trên
lâm sàng Tuy nhiên điểm chung của các nghiên
cứu là việc sửa soạn ống tuỷ bằng trâm Hyflex đều
nhanh hơn có ý nghĩa thống kê so với các trâm máy
NiTi khác như nghiên cứu của Capar và cs (2014) với
thời gian sửa soạn trung bình của trâm Hyflex là 86,0
± 11 giây so với ProTaper next 103 ± 29 giây, ProTa-
per Universal 196 ± 32 giây; nghiên cứu của Saber
và cs (2015), trâm Hyflex làm việc mất 57,0 ± 18,0
giây/1 ống tuỷ so với ProTaper Next 72,5 ± 16,9 giây
[9], [12]. Thời gian sửa soạn phụ thuộc nhiều vào
kỹ thuật và số trâm thật sự sử dụng, kỹ năng người
thực hiện và sự khác biệt về thời gian làm việc cuả
trâm Hyflex so với hệ thống trâm quay khác chứng
tỏ khả năng làm việc hiệu quả của trâm Hyflex trong
ống tuỷ nhờ đặc tính uốn dẻo cực kỳ lớn, có thể bẻ
cong để dễ dàng đưa vào các ống tuỷ cong khó.
Mặt khác, thời gian sửa soạn bằng trâm tay
NiTiflex tuy lớn hơn nhóm sửa soạn bằng trâm
Hyflex nhưng lại ngắn hơn rất nhiều so với thời gian
sửa soạn ống tuỷ bằng file thường theo nghiên cứu
của Nguyễn Thị Ngọc Dung [1] là 77,71 ± 20,1 phút
và của Bishop và cs (1997) [7]. Điều đó cho thấy tính
ưu việt của file NiTiflex được làm từ vật liệu NiTi có
độ dẻo và chống gãy cao, khả năng cắt ngà hiệu quả
đặc biệt trong tạo hình ống tuỷ cong khó, làm giảm
thời gian làm việc lâm sàng đáng kể.
4.1.2. Đặc điểm của những ống tuỷ cong trước
khi sửa soạn ở hai nhóm nghiên cứu
Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy trung bình
góc cong ống tuỷ trước khi sửa soạn ở nhóm trâm
Hyflex là 28,78 ± 5,670 và ở nhóm trâm NiTiflex là
30,19 ± 5,950, sự khác biệt không có ý nghĩa thống
kê với p > 0,05.
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi tương tự với
nghiên cứu của Burklein (2014) và Saber (2015)
cũng ghi nhận về về độ cong ống tuỷ trước khi sửa
soạn khi so sánh các hệ thống trâm quay NiTi khác
nhau [8], [12]. Điều này nhấn mạnh ý nghĩa của các
thông số về độ cong ống tuỷ và độ dài đoạn cong sẽ
ảnh hưởng đến quá trình làm sạch và tạo dạng ống
74
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 9, số 2 - tháng 4/2019
tuỷ cũng như kết quả nghiên cứu so sánh hiệu quả
của các dụng cụ nội nha.
4.1.3. Sự thay đổi độ cong của ống tuỷ sau khi
sửa soạn giữa hai nhóm nghiên cứu
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy góc
cong ống tuỷ sau khi sửa soạn ở nhóm trâm Hyflex là
26,89 ± 5,28, thấp hơn so với góc cong trước khi sửa
soạn là 28,780 ± 5,670 (p > 0,05). Ngược lại, nhóm
trâm tay NiTiflex có góc cong ống tuỷ sau khi sửa
soạn là 24,450 ± 6,590 thấp hơn có ý nghĩa thống kê
với góc cong ống tuỷ trước khi sửa soạn (p < 0,05).
Đồng thời có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa
góc cong sau khi sửa soạn giữa hai nhóm trâm.
Khi so sánh sự thay đổi độ cong ống tuỷ sau khi
sửa soạn với trước khi sửa soạn, nhóm trâm tay Ni-
Tiflex làm thay đổi góc cong ống tuỷ là 5,740 ± 3,170
lớn hơn so với nhóm trâm Hyflex là 1,890 ± 2,340, sự
khác biệt có ý nghĩa thống kê với p < 0,05.
Kết quả của chúng tôi tương tự với nghiên cứu
của Burklein và cs (2014), Saber và cs (2015) cho
thấy khả năng duy trì hình dạng ống tuỷ của trâm
Hyflex tốt hơn so với trâm ProTaper, Profile nhờ khả
năng đàn hồi của trâm Hyflex được cải tiến bằng quy
trình xử lý nhiệt của hợp kim CM tạo nên đặc tính dễ
uốn dẻo, chống lực vặn xoắn và biến dạng gãy trâm
[8], [12].
Mặt khác, nghiên cứu của Shruthi và cs (2010) khi
đánh giá khả năng cắt ngà của các trâm nội nha cho
thấy lượng ngà răng còn lại ở chóp răng không có
sự khác biệt giữa 2 nhóm răng được sửa soạn bằng
trâm quay ProTaper và trâm tay NiTiflex do đầu trâm
không cắt cải tiến của trâm ProTaper và góc chuyển
tù của đầu trâm NiTiflex [13]. Nhưng ngà răng ở 1/3
cổ và 1/3 giữa ống tuỷ sau khi sửa soạn bằng trâm
quay ProTaper mỏng đi đáng kể so với trâm tay Ni-
Tiflex có thể là do thiết kế độ thuôn trâm tăng đáng
kể với thiết diện cắt ngang tam giác cong lồi dẫn đến
khả năng cắt ngà nhiều. Do đó, tác giả này cũng nhấn
mạnh trâm quay ProTaper cần sử dụng cẩn thận
trong các ống tuỷ hẹp, cong trong khi đó, trâm tay
NiTiflex vẫn được ưu tiên lựa chọn. Tương tự như
nghiên cứu của Pettiette (1999), sự thay đổi độ cong
ống tuỷ khi sửa soạn bằng trâm tay NiTi là 4,390 ±
4,530 so với file K thép không gỉ là 14,440 ± 10,330
[9]. Điều đó cho chúng ta thấy trâm tay NiTiflex vẫn
phát huy được hiệu quả tạo dạng và làm sạch đáng
kể trong các ống tuỷ cong bên cạnh sự ra đời của
nhiều hệ thống trâm máy NiTi hiện đại khác.
4.1.4. So sánh sự thay đổi chiều dài ống tuỷ
trước và sau sửa soạn giữa hai nhóm nghiên cứu
Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy trung bình
chiều dài ống tuỷ sau khi sửa soạn ở nhóm trâm Hy-
flex là 18,78 ± 1,29mm thấp hơn so với chiều dài trước
khi sửa soạn là 18,93 ± 1,33 mm (p > 0,05). Trong khi
đó nhóm trâm tay NiTiflex có chiều dài ống tuỷ sau khi
sửa soạn là 18,5 ± 1,23mm thấp hơn có ý nghĩa thống
kê khi sửa soạn là 18,82 ± 1,26 mm (p < 0,005).
Trung bình sự thay đổi chiều dài ống tuỷ ở nhóm
trâm Hyflex là 0,15 ± 0,42 mm nhỏ hơn nhóm trâm
tay NiTiflex là 0,32 ± 0,27 mm, sự khác biệt không có
ý nghĩa thống kê (p > 0,05).
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi khá phù hợp
với các nghiên cứu của các tác giả trên thế giới về
khả năng duy trì chiều dài làm việc ban đầu của trâm
Hyflex và trâm NiTiflex. Nghiên cứu của Saber và cs
(2015) [12] chỉ ra rằng trâm Hyflex ít làm thay đổi
chiều dài ống tuỷ hơn so với ProTaper next (p < 0,05)
với sự thay đổi độ cong ống tuỷ trung bình là 0,970
± 0,340 chứng tỏ khả năng duy trì giải phẫu tự nhiên
của ống tuỷ cũng như chiều dài làm việc của trâm
Hyflex. Kết quả này cũng tương tự với nghiên cứu có
điều kiện thực nghiệm tương đồng của Burklein và
cs (2014) [8].
Tương tự như vậy, khi đánh giá sự thay đổi chiều
dài làm việc của trâm tay NiTiflex đặc biệt ở các ống
tuỷ cong, Shruthi N. và cs (1999) [13] chỉ ra rằng cả
trâm quay ProTaper và trâm tay NiTiflex có khả năng
duy trì tốt hình dạng giải phẫu và tránh nguy cơ dịch
chuyển ống tuỷ ở 1/3 chóp. Điều này được giải thích
do trâm tay NiTiflex có độ đàn hồi và uốn dẻo cao sẽ
hạn chế tối đa nguy cơ làm thẳng ống tuỷ, đồng thời
thiết kế đầu cắt biến đổi sẽ tránh những thay đổi
không mong muốn ở những ống tuỷ cong so với đầu
cắt thông thường [11].
4.1.5. Tai biến trong quá trình sửa soạn ống tuỷ
Trong điều trị nội nha, chúng ta có thể gặp một
số lỗi mắc phải như làm thủng sàn do mở đường tìm
ống tuỷ hoặc đi sai đường trong quá trình sửa soạn
ống tuỷ hoặc đâm thủng ra ngoài lỗ chóp răng. Tất
cả những vấn đề này đều là nguyên nhân dẫn đến sự
thất bại trong điều trị nội nha.
- Để tránh những tai biến này đòi hỏi bác sĩ nha
khoa phải tôn trọng các nguyên tắc cũng như kỹ
thuật trong suốt quá trình làm việc đồng thời cũng
phải có dụng cụ chuyên biệt, có tính năng cao và
lựa chọn dụng cụ đúng. Tuỳ theo kích thước, hình
dạng ống tuỷ để có các dụng cụ phù hợp (ví dụ: đối
với ống tuỷ cong, trước khi đưa dụng cụ vào ta phải
vuốt cong đầu dụng cụ và đưa dụng cụ vào ống tuỷ
theo chiều cong của ống).
- Phải kiểm tra dụng cụ trước khi sửa soạn xem
file có bị xoắn hoặc trầy xước, sau mỗi lần sửa soạn
phải lau sạch bằng miếng gạc.
- Luôn sửa soạn ống tuỷ trong môi trường ướt
có nghĩa là luôn bơm rửa dung dịch NaOCl 2,5% sau
mỗi lần sửa soạn và bôi trơn dụng cụ bằng Glyde.
75
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 9, số 2 - tháng 4/2019
- Đường vào ống tuỷ phải thẳng, ống tuỷ phải
được mở rộng thích hợp. Khi sử dụng dụng cụ phải
nhẹ nhàng, đặc biệt đối với các bác sĩ làm về nội nha
cần phải rèn luyện độ nhạy cảm, cảm giác nơi đầu
ngón tay [2].
Trong nghiên cứu của chúng tôi, nhóm răng sửa
soạn bằng trâm Hyflex có một trường hợp bị khấc
trong ống tuỷ ở 1/3 chóp răng. Do không thể lách
dụng cụ qua đoạn khấc để đạt chiều dài làm việc ban
đầu được nên ống tuỷ đã được trám trên đoạn khấc.
Không có trường hợp nào bị gãy dụng cụ, khoan
thủng hay rách lỗ chóp răng.
Trong khi đó, nhóm răng sửa soạn bằng trâm tay
NiTiflex có 1 trường hợp bị gãy trâm (chiếm tỷ lệ
10,0%) và 1 trường hợp tạo khấc ở 1/3 chóp răng.
Trường hợp bị gãy dụng cụ là gãy file K số 15, đoạn
gãy nằm ở 1/3 giữa ống tuỷ chân răng đã được khắc
phục bằng cách dùng file số 8, số 10 lách nhẹ nhàng
bên cạnh đoạn gãy kết hợp bôi trơn bằng glyde đã
thông qua được đoạn gãy tới được vùng chóp chân
răng và trám kín được ống tuỷ bình thường, để lại
đoạn gãy nằm trong ống tuỷ. Sau điều trị 3 tháng
bệnh nhân này vẫn cho kết quả đạt tốt.
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi tương tự với
nghiên cứu của các tác giả khác trên thế giới như
Bishop và cs (1997) tỷ lệ gãy trâm NiTiflex là 17,5%
so với 30% gãy trâm Flexofile kèm theo nhiều trường
hợp ống tuỷ bị khấc, đâm thủng [7]. Nghiên cứu của
Rajesh K. và cs (2017) ghi nhận khi sửa soạn ống tuỷ
bằng trâm tay NiTiflex có 7/30 trường hợp (23,3%)
gãy trâm; 5/20 (16,7%) tạo khấc ống tuỷ so với sửa
soạn bằng trâm quay K3XF với tỷ lệ lần lượt là 10%
và 6,7% [10]. Nguyên nhân gây gãy dụng cụ là do
độ mỏi của kim loại và lực xoắn lớn, xảy ra khi đầu
trâm vướng vào thành ống tuỷ trong khi cán dụng cụ
vẫn quay liên tục. Do đó, việc ứng dụng vật liệu NiTi
trong điều trị nội nha bằng trâm tay và quay máy đã
thay đổi đáng kể hiệu quả tạo hình ống tuỷ trong
suốt 2 thập niên vừa qua.
4.2. So sánh kết quả trám bít ống tuỷ sau khi
sửa soạn bằng trâm quay Hyflex và trâm tay thông
thường
4.2.1. Kết quả X-quang ngay sau trám bít ống
tuỷ:
Trong nghiên cứu của chúng tôi, tỉ lệ các răng sửa
soạn bằng trâm Hyflex có kết quả tốt là 9 răng chiếm
tỉ lệ 90%; 1 răng bị khấc trong ống tuỷ chiếm 10,0%,
gặp ở 1/3 chóp của ống tuỷ cong 390 và hẹp khi
chuyển sang cây. 04/30 đi hết chiều dài làm việc để
sửa soạn vùng chóp. Điểm khấc này làm cho dụng
cụ bị mắc kẹt lại và không thể đi đến chóp răng. Để
khắc phục sai sót này, chúng tôi đã cố gắng sử dụng
trâm số nhỏ để lách qua đoạn khấc và tìm cách sửa
soạn lại đúng chiều dài làm việc ban đầu. Nhưng do
ống tuỷ cong nhiều 1/3 chóp và đoạn khấc lớn nên
chúng tôi không thể vượt qua điểm kẹt này và ống
tuỷ đã được trám trên đoạn khấc cách chóp răng 1,5
mm và được đánh giá trung bình.
Những tai biến như tạo khấc, thủng ống tuỷ, loe
chóp răng hay gãy dụng cụ thường gặp ở những ống
tuỷ cong hẹp, như nghiên cứu của chúng tôi được
thực hiện ở ống tuỷ ngoài gần của răng cối lớn hàm
dưới là những ống tuỷ có giải phẫu khá phức tạp,
với độ cong 20-400 nên đã gặp một số sai sót không
mong muốn. Để tránh mắc phải những tai biến
trong quá trình sửa soạn ống tuỷ, yêu cầu đặt ra phải
có kỹ thuật và thao tác làm việc cẩn thận, dụng cụ
chuyên biệt, có tính năng cao và đặc biệt phải được
đổi mới thường xuyên. Tuy nhiên, trong điều kiện
điều trị hiện nay tại các phòng khám Răng Hàm Mặt,
chi phí thay mới liên tục dụng cụ trâm quay cho mỗi
ca lâm sàng gặp phải nhiều khó khăn bởi giá thành
của trâm quay NiTi khá cao so với khả năng chi trả
của bệnh nhân. Điều đó đặt ra thử thách cho bác sĩ
có thể lựa chọn những phương pháp và trang thiết
bị kinh tế hơn nhưng vẫn đảm bảo khả năng tạo hình
và làm sạch ống tuỷ, ví dụ như trâm tay làm bằng vật
liệu NiTi.
Trong nhóm răng được sửa soạn bằng trâm tay
NiTiflex, có 7 răng (70%) đạt kết quả X quang sau
trám bít tốt; 1 răng trám thiếu < 2 mm và 1 răng
gãy file K số 15 nhưng vẫn trám bít ống tuỷ được tới
chóp răng đánh giá là trung bình chiếm tỉ lệ 20%, 1
răng chất trám quá chóp đánh giá là kém chiếm tỉ
lệ 10%.
Trường hợp 1 răng trám thiếu < 2mm là do ống
tuỷ đoạn chóp quá hẹp, khi sửa soạn lên trâm số lớn
có độ đàn hồi thấp đã tạo khấc ở 1/3 chóp không
vượt qua được.
Trường hợp 1 răng trám quá chóp (10%) là do
răng bị viêm quanh chóp mạn, khi tạo hình ống tuỷ
không còn điểm thắt chóp và khi thử côn chính côn
không khít sát tốt ở đoạn chóp nên khi hàn ống tuỷ
AH26 bị đẩy ra ngoài chóp răng.
Theo chúng tôi, chuẩn bị ống tuỷ không hết chiều
dài sẽ không an toàn do để lại một khoảng trống
sau trám ống tuỷ ở vùng chóp chân răng là nơi vi
khuẩn phát triển gây tổn thương chóp. Nhưng trong
nghiên cứu của chúng tôi, những trường hợp răng
có ống tuỷ trám cách chóp răng X-quang < 2mm vẫn
cho kết quả tốt về mặt lâm sàng. Tuy nhiên thời gian
theo dõi trong nghiên cứu còn ngắn vì vậy chúng tôi
cần phải theo dõi thêm những trường hợp này.
Theo chúng tôi, phim kỹ thuật số đã giúp nha
sĩ rất nhiều trong việc xác định số lượng ống tuỷ,
đánh giá kết quả chất lượng trám ống tuỷ và xác
76
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 9, số 2 - tháng 4/2019
định được vị trí các tai biến khi sửa soạn ống tuỷ:
thủng sàn, sửa soạn đi sai hướng, gãy dụng cụ... để
có biện pháp xử lý thích hợp. Tuy nhiên, máy chụp
phim kỹ thuật số có giá thành khá cao nên chỉ có
thể áp dụng được ở những bệnh viện hoặc phòng
khám lớn.
4.2.2. Kết quả điều trị sau trám bít ống tuỷ 1
tuần
Sau khi trám ống tuỷ 1 tuần, đa số bệnh nhân
khám lại đều không đau, ăn nhai được, ngách lợi
bình thường, gõ răng không đau và được đánh giá
kết quả là tốt, chiếm tỷ lệ lần lượt là 90% ở nhóm
trâm Hyflex và 80% ở nhóm trâm tay NiTiflex.
Ở nhóm trâm Hyflex có 1 răng còn đau nhẹ khi
nhai và gõ dọc hơi đau được đánh giá kết quả là
trung bình chiếm 10%. Trong khi đó, có 2 răng được
sửa soạn bằng trâm tay NiTiflex có kết quả trung
bình là 1 răng bị gãy trâm và 1 răng có chất trám quá
chóp chiếm tỷ lệ 20%.
4.2.3. Kết quả điều trị sau theo dõi 3 tháng
Sau 3 tháng, chúng tôi khám lại được toàn bộ
20 bệnh nhân với kết quả tốt ở 2 nhóm răng được
sửa soạn bằng trâm Hyflex và trâm tay NiTiflex đều
chiếm tỷ lệ 80%.
Ở nhóm trâm Hyflex, có 1 răng có triệu chứng
không rõ ràng (đánh giá nghi ngờ) với cảm giác khó
chịu khi gõ nhưng kết quả X quang không có dấu
hiệu bất thường, nên cần được theo dõi thêm trong
6 tháng, 1 năm để đánh giá chính xác kết quả điều
trị cuối cùng. Răng bị khấc và được trám bít ống
tuỷ cách chóp 1,5 mm tuy lúc kiểm tra sau 3 tháng
không có dấu hiệu sung, đau khi ăn nhai hay gõ
và trên phim Xquang, chưa thấy dấu chứng nhiễm
trùng chóp nên tạm thời chúng tôi xếp vào nhóm
có kết quả thành công. Tuy nhiên, việc để lại một
vùng chóp răng không được bít kín hoàn toàn có thể
tạo nguy cơ bùng phát trở lại một nhiễm trùng, nên
những trường hợp này cần phải được theo dõi kỹ để
can thiệp kịp thời khi có biến chứng muộn.
Ở nhóm trâm tay NiTiflex, có 1 răng bị gãy trâm
đã được trám đến chóp răng nhưng khi gõ vẫn có
cảm giác khó chịu nên xếp vào nhóm nghi ngờ,
chiếm tỷ lệ 10%; 1 răng trám quá chóp vật liệu AH26
được đánh giá thất bại.
So sánh kết quả nghiên cứu với các tác giả khác
trong nước, như Đỗ Thị Hồng Nga (2006) [3] nhận
xét: Thời gian sửa soạn ống tuỷ bằng trâm Protaper
máy đã giảm đáng kể so với thời gian sửa soạn ống
tuỷ bằng K file. Kết quả lâm sàng sau 3-9 tháng của
2 nhóm tương đương nhau: Tốt chiếm 90,74% ở
nhóm sử dụng K file và tốt ở nhóm sử dụng trâm
Protaper máy là 92,59%. Tương tự, Nguyễn Thị Ngọc
Dung (2007) [1] đã nghiên cứu được kết quả nhóm
điều trị bằng file Protaper máy sau 1 tuần: Tốt 89,6%,
khá 4,2%, kém 6,2%. Sau 3 - 9 tháng tốt 73,33%, khá
20%, kém 6,47%.
Qua so sánh cho thấy kết quả nghiên cứu của
chúng tôi là phù hợp với nghiên cứu của các tác giả
trên. Tuy nhiên để đánh giá được kết quả thật sự của
điều trị nội nha là thành công hay thất bại yêu cầu
thời gian theo dõi lâu dài 6 tháng đến 2 năm, trong
khi đó thời gian nghiên cứu của chúng tôi khá ngắn
nên chưa thể kết luận được chính xác tuổi thọ nội
nha của răng nghiên cứu. Vì vậy, chúng tôi cần phải
tiếp tục theo dõi để đánh giá thêm tình trạng răng về
lâm sàng và X quang.
5. KẾT LUẬN
5.1. So sánh thời gian sửa soạn và kết quả tạo
hình ống tuỷ sau khi sửa soạn bằng trâm quay Hy-
flex và trâm tay thông thường
5.1.1. Thời gian sửa soạn ống tuỷ của trâm Hy-
flex và trâm tay NiTiflex
- Thời gian sửa soạn một ống tuỷ trung bình của
trâm Hyflex là 498,50 ± 22,12 giây, thời gian sửa
soạn một ống tuỷ trung bình của trâm tay NiTiflex là
961,78 ± 47,12 giây (p= 0.002).
5.1.2. Đặc điểm của những ống tuỷ cong trước
và sau khi sửa soạn của hai nhóm nghiên cứu
- Trung bình góc cong ống tuỷ trước khi sửa soạn
ở nhóm trâm Hyflex là 28,78 ± 5,670 và ở nhóm trâm
NiTiflex là 30,19 ± 5,950 (p = 0,061).
5.1.3. Sự thay đổi độ cong ống tuỷ sau khi sửa
soạn với trước khi sửa soạn của hai nhóm nghiên
cứu
- Ở nhóm trâm Hyflex, góc cong ống tuỷ sau khi
sửa soạn là 26,890 ± 5,280, trước khi sửa soạn là
28,780 ± 5,670 (p = 0,057). Ở nhóm trâm tay NiTiflex,
góc cong ống tuỷ sau khi sửa soạn là 24,45 0 ± 6,590,
trước khi sửa soạn là 30,19 0 ± 5,950 (p = 0,004).
- Trâm Hyflex làm thay đổi góc cong ống tuỷ là
1,890 ± 2,340, trâm tay NiTiflex làm thay đổi góc cong
ống tuỷ là 5,740 ± 3,170 (p = 0,002).
5.1.4. Sự thay đổi chiều dài ống tuỷ sau khi sửa
soạn với trước khi sửa soạn của hai nhóm nghiên
cứu
- Trung bình sự thay đổi chiều dài ống tuỷ ở
nhóm trâm Hyflex là 0,15 ± 0,42, trung bình sự thay
đổi chiều dài ống tuỷ ở nhóm trâm tay NiTiflex là
0,32 ± 0,27mm (p= 0,073).
5.1.5. Tai biến trong quá trình sửa soạn ống tuỷ
- Ở nhóm trâm Hyflex, có 90,0% không tai biến, 1
trường hợp khấc ống tuỷ (chiếm tỷ lệ 10,0%).
- Ở nhóm trâm tay NiTiflex, có 80,0% không tai
biến, 1 trường hợp gãy trâm (chiếm tỷ lệ 10,0%) và 1
trường hợp tạo khấc (10,0%).
77
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 9, số 2 - tháng 4/2019
5.2. So sánh kết quả trám bít ống tuỷ sau khi sửa
soạn bằng trâm quay Hyflex và trâm tay thông thường
- Kết quả điều trị của nhóm răng sửa soạn bằng
trâm Hyflex:
+ Sau trám bít ống tuỷ: Tốt 90%, trung bình 10%,
kém là 0%.
+ Sau 1 tuần: Tốt 80%, trung bình 10%, kém 0%.
+ Sau theo dõi 3 tháng: Thành công 90%, nghi
ngờ 10%, thất bại 0%.
- Kết quả điều trị của nhóm răng sửa soạn bằng
trâm tay NiTiflex:
+ Sau trám bít ống tuỷ: Tốt 70%, trung bình 20%,
kém là 10%.
+ Sau 1 tuần: Tốt 80%, trung bình 20%, kém 0%.
+ Sau theo dõi 3 tháng: Thành công 80%, nghi
ngờ 10%, thất bại 10%.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Thị Ngọc Dung (2007), Nhận xét lâm sàng, X
quang và đánh giá kết quả điều trị tuỷ răng 6,7 hàm dưới
với dụng cụ File cầm tay thường và File ProTaper máy,
Luận văn Chuyên khoa 2, Đại học Răng Hàm Mặt, Hà Nội.
2. Bùi Quế Dương (2007), “Phương pháp sửa soạn
ống tuỷ”, Nội nha lâm sàng, NXB Y học, Thành phố Hồ Chí
Minh, tr.105.
3. Đỗ Thị Hồng Nga (2006), Nhận xét hiệu quả tạo hình
ống tuỷ bằng dụng cụ cầm tay K file và dụng cụ máy Pro-
Taper trong điều trị nội nha, Luận án Chuyên khoa 2, Đại
học Răng Hàm Mặt, Hà Nội.
4. Cao Thị Ngọc (2012), Đánh giá hiệu quả điều trị nội
nha bằng hệ thống Endo express trên nhóm răng hàm
nhỏ, Luận văn Bác sĩ nội trú, Hà Nội.
5. Nguyễn Quốc Trung (2007), Nghiên cứu điều trị tuỷ
nhóm răng hàm có chân cong bằng phương pháp sửa
soạn ống tuỷ với trâm xoay máy và xoay tay Niti, Luận
văn Tiến sĩ y học, Đại học Răng Hàm Mặt, Hà Nội, tr.40-67.
6. Đặng Vũ Thảo Vy, Đinh Thị Khánh Vân, Phạm Văn
Khoa (2010), “So sánh hiệu quả của trâm protaper quay
tay và protaper quay máy trong sửa soạn ống tủy”, Tạp chí
Y học TP. Hồ Chí Minh, tập 14 - số 1, tr. 306 – 313.
7. Bishop K. (1997), “A comparison of stainless steel
Flexofiles and nickel-titanium NiTiflex files during the
shaping of simulated canals”, International Endodontic-
Journal, Vol 30, 1.
8. S. Burklein, L. Borjes and E. Schfer (2014), “Compar-
ison of preparation of curved root canals with Hyflex CM
and Revo-S rotary nickel-titanium instruments”, Interna-
tional Endodonticjournal, 47, pp. 470-476.
9. Pettiette MT. and al. (1999), “Endodontic complica-
tions of root canal therapy performed by dental students
with stainless-steel K-files and nickel-titanium hand files”,
Journal Endodontic, 2399(99), pp. 144-148.
10. Rajesh Khanna, Aashish Handa, and Asim Geol
(2017), “Clinical and radiographic evaluation of procedural
errors during preparation of curved root canals with hand
and rotary instruments: A randomized clinical study”, Con-
temp Clinical Dent, 8(3), pp. 411-415.
11. John P. Pruett, David J. Clement and David L.
Carnes (1997), “Cyclic Fatigue Testing of Nickel-Titanium
Endodontic Instruments”, Journal of Endodontic, Vol.23
(2), USA.
12. S.E.D.M.Saber, M.M.Nagy and E.Schafer (2015),
“Comparative evaluation of the shaping ability of ProTa-
per Next, iRace and Hyflex CM rotary NiTi files in severely
curved root canals”, International Endodontic Journal, 48,
pp.131-136.
13. Shruthi Nagaraja and B.V. Sreenivasa Murthy
(2010), “CT evaluation of canal preparation using rotary
and hand NiTi instruments: An in vitro study”, Journal of
Conservative Dentistry, 13 (1), pp.16-22.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
so_sanh_hieu_qua_cua_tram_quay_lien_tuc_hyflex_va_tram_tay_t.pdf