Biến chứng sớm sau mổ:
Tỷ lệ bệnh nhân đau hậu phẫu trong nghiên
cứu của chúng tôi là 4% (2 bệnh nhân trong
nhóm tê tại chỗ). Các cơn đau sau mổ kéo dài
thường được cho là tổn thương các dây thần
kinh cảm giác trong lúc mổ, tuy nhiên các cơn
đau này lại là một cảm giác hoàn toàn chủ quan
của bệnh nhân, không có các phương tiện đo
lường khách quan được. Theo Read và Bendavid
đã có các thống kê cho thấy chúng có liên quan
đến các vấn đề về tâm lý(1,4,12).
Nói chung nên giữ lại các dây thần kinh cảm
giác trong lúc mổ nếu có thể được, đặc biệt là
thần kinh chậu-bẹn và chậu-hạ vị nhưng không
nên ngần ngại cắt các dây thần kinh này hoặc các
nhánh của chúng nếu chúng gây cản trở cho quá
trình phẫu thuật(3,13,14).
Thời gian nằm viện sau mổ
Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy thời gian
nằm viện của hai nhóm tê tại chỗ và tê tủy sống
không có sự khác nhau, ngược lại các nghiên
cứu ở nước ngoài. Sở dĩ có sự khác biệt này là do
chúng tôi chỉ mới tiếp cận mổ thoát vị bẹn với tê
tại chỗ trong thời gian ngắn nên còn tâm lý e
ngại và thận trọng trong việc cho xuất viện sớm.
Vấn đề hài lòng của bệnh nhân
Theo các nghiên cứu của các tác giả nước
ngoài với tê tại chỗ trong mổ thoát vị bẹn thì
bệnh nhân rất hài lòng(8,9,11), chỉ có một nghiên
cứu của tác giả Callesen T và cộng sự tiến hành
tê tại chỗ trong phẫu thuật thoát vị bẹn tái phát
thì có 8% bệnh nhân không hài lòng vì đau trong
mổ(4). Trong nghiên cứu của chúng tôi cũng có 2
trường hợp (8%) không hài lòng vì vấn đề đau
trong mổ, và đây thực sự là một nhược điểm lớn
của tê tại chỗ. Và vấn đề đau trong mổ ở nhóm
tê tại chỗ gây ra sự không hài lòng của bệnh
nhân là một vấn đề không thể phủ nhận được.
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 6 trang
6 trang | 
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 604 | Lượt tải: 0 
              
            Bạn đang xem nội dung tài liệu So sánh hiệu quả phương pháp tê tại chỗ và tê tủy sống trong phẫu thuật thoát vị bẹn, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản Số 1 * 2008 Nghiên cứu Y học
Ngoại Tổng quát 126 
SO SÁNH HIỆU QUẢ PHƯƠNG PHÁP TÊ TẠI CHỖ VÀ TÊ TỦY SỐNG 
TRONG PHẪU THUẬT THOÁT VỊ BẸN 
Phan Thanh Tuấn*, Đỗ Đình Công** 
TÓM TẮT 
Mục tiêu: so sánh hiệu quả 2 phương pháp vô cảm trong phẫu thuật điều trị thoát vị bẹn: tê tại chỗ và tê tủy sống. 
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: mô tả cắt ngang. Bao gồm các bệnh nhân thoát vị bẹn được mổ tái tạo thành 
bẹn theo phương pháp Bassini, hoặc Lichteinstein tại bệnh viện Nhân dân Gia Định từ tháng 9/2006 đến 5/2007 được phân 
bố vào một trong hai nhóm: tê tại chỗ hay tê tủy sống. Dùng bupivacain 0,25% để tê tại chỗ, có tiền mê bằng midazolam 2 
ml. 
Kết quả: có 50 bệnh nhân. Khác nhau về thời gian vận động lại sau mổ giữa 2 nhóm có ý nghĩa thống kê với p= 0,0001. 
Kết luận: nhóm bệnh nhân tê tại chỗ có thời gian nằm phòng hồi sức ngắn hơn, thời gian vận động trở lại sớm hơn tuy 
nhiên đau trong mổ nhiều hơn. 
ABSTRACT 
COMPARING THE EFFECT OF LOCAL AND SPINAL ANAESTHETIC 
IN TREATMENT OF INGUINAL HERNIA. 
Phan Thanh Tuan, Do Dinh Cong * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 12 – Supplement of No 1 - 2008: 127 - 130 
Objective: to compare the effect of two anaesthetic methods in treament of inguinal hernia: local and spinal anaesthetic. 
Material and method: a cross despriptive study with inguinal hernia patients, operated at Nhan dan Gia 
Dinh’hospital by Bassini or Lichteisten procedure from 09/2006 to 05/2007, grouped into two: used local or spinal 
anaesthetic. (Local anaesthetic with bupivacaine 2% and 2ml midazolam to start the anaesthetic). 
Results: there were 50 patients. The different about the motion-returning time between two groups was statistical 
significant with p= 0.0001. 
Conclusion: Although the time to rest the recovery room and to return the motion of the patients in group used local 
anaesthetic was shorter than the remaining group, their intra-operative pain level was higher. 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Thoát vị bẹn là một bệnh lý ngoại khoa phổ 
biến, có nhiều phương pháp phẫu thuật đã được 
dùng để điều trị thoát vị bẹn. Gắn liền với việc 
chọn lựa kỹ thuật mổ, người ta còn đề cập đến 
vai trò của vô cảm, bao gồm gây mê, tê vùng (tê 
tuỷ sống, tê ngoài màng cứng), tê tại chỗ. Nhiều 
nghiên cứu của nước ngoài đã nhận xét vai trò 
tích cực của tê tại chỗ trong phẫu thuật thoát vị 
bẹn. Ở Việt Nam chưa có báo cáo về hiệu quả 
của tê tại chỗ trong phẫu thuật thoát vị bẹn. 
Chúng tôi thực hiện nghiên cứu này nhằm đánh 
giá hiệu quả của phương pháp tê tại chỗ so với 
tê tuỷ sống trong phẫu thuật thoát vị bẹn. 
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Bao gồm bệnh nhân thoát vị bẹn được mổ tại 
Bệnh Viện Nhân Dân Gia Định từ tháng 9/2006 
đến 5/2007: ≥ 18 tuổi, độ I, II, IIIA, IIIB theo 
Nyhus. Trừ những trường hợp: thoát vị hai bên, 
nghẹt, bẹn đùi, tái phát. Bệnh nhân được phân 
bố vào một trong hai nhóm: nhóm 1 được tê tại 
chỗ, nhóm 2 được tê tủy sống; theo kết quả lá 
thăm bắt được. Chúng tôi sử dụng bupivacain 
0,25% để tê tại chỗ, có tiền mê bằng midazolam 
* Trường trung học Y tế tỉnh Kiên Giang 
** Bộ môn Ngoại ĐH Y Dược Tp. HCM 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản Số 1 * 2008 Nghiên cứu Y học
Ngoại Tổng quát 127 
2ml. Tái tạo thành bẹn theo phương pháp 
Bassini, hoặc Lichteinstein. Bệnh nhân sẽ được 
chuyển sang gây mê khi đã sử dụng đến liều tối 
đa thuốc gây tê (175 mg bupivacain tương 
đương 70 ml bupivacain 0,25%) mà bệnh nhân 
vẫn còn đau nhiều. Đánh giá mức độ đau theo 
thang điểm VAS, từ 0 đến 10 điểm. 
KẾT QUẢ 
Tổng cộng 50 bệnh nhân chia đều trong 2 nhóm. 
Nhóm tê tại chỗ Nhóm tê tủy sống 
tuổi trung bình 48,08 ± 18,39 47,16 ± 17,44 
Loại thoát vị 
GT/TT 56% / 44% 40% / 60% 
Tái tạo thành bẹn 
L / B 44% / 56% 40% / 60% 
Đau trong mổ 2,92 ± 1,49 
Trực tiếp: 2,18 ± 1,16 Đau trong mổ 
Gián tiếp: 3,50 ± 1,50 
(p = 0,009) 
Chuyển pp vô cảm 4% 4% 
Thời gian mổ 68 ± 12,82 phút 70,80 ± 11,33 
Thời gian vận 
động lại sau mổ 4,46 ± 0,84 
13,04 ± 0,77 
(p=0,0001) 
Biến chứng sớm 12% 12% 
Thời gian nằm viện 30 ± 20,39 28,48±16,84 
Sự hài lòng 8% 4% 
BÀN LUẬN 
Vấn đề đau trong mổ 
Đau trong mổ là một nhược điểm lớn của tê 
tại chổ trong phẫu thuật thoát vị bẹn (4), mặc dù 
ở các trung tâm chuyên về điều trị thoát vị bẹn 
với những kinh nghiệm trong tê tại chỗ đã làm 
giảm đến mức thấp nhất vấn đề đau trong mổ 
nhưng vẫn không làm bệnh nhân không đau 
hoàn toàn trong mổ. Hiện nay ở Việt Nam tê tại 
chỗ rất ít được sử dụng do tâm lý e ngại vấn đề 
đau trong mổ. 
Trong nghiên cứu của chúng tôi điểm đau 
trung bình được ghi nhận là 2,92 điểm (theo 
thang điểm đau VSA), điểm đau thấp nhất là 1 
điểm và cao nhất là 8 điểm. So với nghiên cứu 
của tác giả Privitera A, điểm đau trung bình của 
chúng tôi cao hơn, do chúng tôi chỉ mới thực 
hiện những ca mổ thoát vị bẹn với tê tại chỗ đầu 
tiên nên chưa có nhiều kinh nghiệm và còn gặp 
nhiều khó khăn trong lúc phẫu thuật (như việc 
tiêm thuốc tê làm cho mô bị phồng lên và phẫu 
trường luôn bị ướt.) 
Nhóm bệnh nhân thoát vị bẹn trực tiếp 
(được điều trị bằng phương pháp Lichteinstein) 
có khuynh hướng ít đau hơn so với nhóm thoát 
vị bẹn gián tiếp (được điều trị bằng phương 
pháp Bassini), nguyên nhân của sự khác biệt này 
có thể do nhóm thoát vị bẹn gián tiếp được điều 
trị bằng phương pháp Bassini gây căng nên đau 
nhiều hơn. 
Tỷ lệ chuyển phương pháp vô cảm 
Tỷ lệ chuyển phương pháp vô cảm của 
nhóm tê tủy sống là 4% và nhóm tê tại chỗ là 4%, 
giữa hai nhóm không có sự khác biệt có ý nghĩa 
thống kê. 
So với các tác giả nước ngoài tỷ lệ chuyển 
phương pháp vô cảm trong nhóm tê tại chỗ của 
chúng tôi có khuynh hướng cao hơn(5,6,7,9,10). Tại 
các trung tâm điều trị thoát vị bẹn tỷ lệ phải 
chuyển phương pháp vô cảm rất thấp hầu như 
bằng 0(2), trong khi đó tại các bệnh viện ngoại 
khoa tổng quát thường có một tỷ lệ nhất định bị 
thất bại trong tê tại chỗ và bắt buộc phải chuyển 
phương pháp vô cảm(10). Sự khác biệt này có thể 
do có sự cách biệt về kinh nghiệm tê tại chỗ của 
bác sỹ phẫu thuật giữa các bệnh viện ngoại khoa 
tổng quát và các trung tâm điều trị thoát vị bẹn, 
nơi mà các bác sỹ phẫu thuật có nhiều kinh 
nghiệm nên tỷ lệ thất bại hầu như không có. 
Nghiên cứu của chúng tôi cũng có một tỷ lệ 
chuyển phương pháp vô cảm khá cao, không 
nằm trong ngoại lệ bởi vì chúng tôi chỉ là những 
bác sỹ phẫu thuật tổng quát chỉ mới tiếp cận kỹ 
thuật tê tại chỗ trong mổ thoát vị bẹn trong một 
thời gian ngắn. 
Thời gian phẫu thuật 
Theo một số nghiên cứu của các tác giả nước 
ngoài và trong nghiên cứu của chúng tôi cho thấy 
thời gian phẫu thuật giữa nhóm tê tủy sống và 
nhóm tê tại chổ hầu như không có sự khác biệt(7,10). 
 Trong nghiên cứu của chúng tôi nhằm tránh 
yếu tố gây nhiễu là phương pháp phẫu thuật 
nên chúng tôi đã chia làm hai nhóm để so sánh, 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản Số 1 * 2008 Nghiên cứu Y học
Ngoại Tổng quát 128 
nhóm sử dụng phương pháp điều trị là 
Lichteinstein và nhóm sử dụng phương pháp 
Bassini. Trong cả hai nhóm khi tiến hành so sánh 
thời gian phẫu thuật giữa lô tê tại chỗ và lô tê 
tủy sống điều cho thấy không có sự khác biệt có 
ý nghĩa thống kê. 
 Thời gian nằm phòng hồi sức, thời gian vận 
động trở lại, và thời gian đi tiểu trở lại 
 Trong nghiên cứu của chúng tôi có sự khác 
biệt có ý nghĩa thống kê về thời gian nằm phòng 
hồi sức giữa hai nhóm. Điều này cho thấy nhóm 
tê tại chỗ ít cần sự theo dõi chặc chẽ tại phòng 
hồi sức hơn so với nhóm tê tủy sống, giúp giảm 
phần nào áp lực công việc lên bác sỹ hồi sức. 
 Và khi so sánh thời gian vận động trở lại 
giữa hai nhóm tê tủy sống và tê tại chỗ cũng cho 
thấy có sự khác biệt. Điều này là do trong nhóm 
tê tủy sống bệnh nhân không được ngồi dậy 
sớm sau mổ vì có thể bị các biến chứng giảm áp 
lực nội sọ, trong khi đó ở nhóm tê tại chỗ bệnh 
nhân có thể ngồi dậy đi lại ngay khi đã bớt đau 
sau mổ. Đây là một ưu điểm rõ ràng của tê tại 
chỗ so với tê tủy sống trong mổ thoát vị bẹn. 
 Trong nghiên cứu này, nhóm bệnh nhân 
được tê tại chỗ cũng có khuynh hướng đi tiểu trở 
lại sớm hơn so với nhóm tê tủy sống (trong 
nhóm này có một bệnh nhân bị bí tiểu sau mổ, 
phải đặt thông tiểu). Sự khác biệt này có thể do 
nhóm tê tại chỗ trở lại vận động sau mổ sớm 
hơn (từ 3 đến 5 giờ sau mổ), trong khi đó những 
bệnh nhân trong nhóm tê tủy sống phải nằm tại 
chỗ lâu hơn nhiều (từ 12 đến 15 giờ). 
Biến chứng sớm sau mổ: 
 Tỷ lệ bệnh nhân đau hậu phẫu trong nghiên 
cứu của chúng tôi là 4% (2 bệnh nhân trong 
nhóm tê tại chỗ). Các cơn đau sau mổ kéo dài 
thường được cho là tổn thương các dây thần 
kinh cảm giác trong lúc mổ, tuy nhiên các cơn 
đau này lại là một cảm giác hoàn toàn chủ quan 
của bệnh nhân, không có các phương tiện đo 
lường khách quan được. Theo Read và Bendavid 
đã có các thống kê cho thấy chúng có liên quan 
đến các vấn đề về tâm lý(1,4,12). 
 Nói chung nên giữ lại các dây thần kinh cảm 
giác trong lúc mổ nếu có thể được, đặc biệt là 
thần kinh chậu-bẹn và chậu-hạ vị nhưng không 
nên ngần ngại cắt các dây thần kinh này hoặc các 
nhánh của chúng nếu chúng gây cản trở cho quá 
trình phẫu thuật(3,13,14). 
Thời gian nằm viện sau mổ 
 Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy thời gian 
nằm viện của hai nhóm tê tại chỗ và tê tủy sống 
không có sự khác nhau, ngược lại các nghiên 
cứu ở nước ngoài. Sở dĩ có sự khác biệt này là do 
chúng tôi chỉ mới tiếp cận mổ thoát vị bẹn với tê 
tại chỗ trong thời gian ngắn nên còn tâm lý e 
ngại và thận trọng trong việc cho xuất viện sớm. 
 Vấn đề hài lòng của bệnh nhân 
 Theo các nghiên cứu của các tác giả nước 
ngoài với tê tại chỗ trong mổ thoát vị bẹn thì 
bệnh nhân rất hài lòng(8,9,11), chỉ có một nghiên 
cứu của tác giả Callesen T và cộng sự tiến hành 
tê tại chỗ trong phẫu thuật thoát vị bẹn tái phát 
thì có 8% bệnh nhân không hài lòng vì đau trong 
mổ(4). Trong nghiên cứu của chúng tôi cũng có 2 
trường hợp (8%) không hài lòng vì vấn đề đau 
trong mổ, và đây thực sự là một nhược điểm lớn 
của tê tại chỗ. Và vấn đề đau trong mổ ở nhóm 
tê tại chỗ gây ra sự không hài lòng của bệnh 
nhân là một vấn đề không thể phủ nhận được. 
KẾT LUẬN 
Qua nghiên cứu, chúng tôi rút ra một số 
nhận xét sau: 
Tê tại chổ trong mổ thoát vị bẹn có một số 
ưu điểm hơn so với tê tủy sống: thời gian nằm 
phòng hồi sức của bệnh nhân ngắn hơn, thời 
gian vận động trở lại sớm hơn. 
Tuy nhiên tê tại chỗ trong mổ thoát vị bẹn có 
một nhược điểm lớn đó là vấn đề đau trong mổ 
và điều này làm ảnh hưởng đến sự hài lòng của 
bệnh nhân sau mổ. 
 Hy vọng trong thời gian tới chúng tôi và các 
đồng nghiệp khác sẽ tiếp tục nghiên cứu trên số 
lượng bệnh nhân lớn hơn với thời gian theo dõi lâu 
dài hơn để có những đánh giá chính xác hơn về 
những ưu và khuyết điểm của tê tại chỗ và tê tủy 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản Số 1 * 2008 Nghiên cứu Y học
Ngoại Tổng quát 129 
sống trong mổ thoát vị bẹn. và xu hướng mới cho 
phẫu thuật thoát vị bẹn qua nội soi. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1 Abrahamson J.(1997), “Hernia”, Maingot’s abdominal 
operations, pp 479 – 580. 
2 Allan EK, Martin NK, Philip AB.(1998), “Three Thousand 
One Hundred Seventy-Five Primary Inguinal Hernia 
Repairs: Advantages of Ambulatory Open Mesh 
Repair Using Local Anesthesia”. 
3 Bendavid E.(1998), “Complications of groin hernia 
surgery”, Surg Clin North Am, 78, 1089 – 1101. 
4 Callesen T, Bech K, Kehlet H.(2001). “Feasibility of local 
infiltration anesthesia for recurrent groin hernia repair”. 
Eur J Surg, vol 167. 
5 Callesen T, Bech K, Kehlet H.(2001), “One thousand 
consecutive inguinal hernia repairs under unmonitored 
local anaesthesia”. Anesth Analg 93:1373–1376. 
6 Gonullu NN, Cubukeu A, Alponat A.(2002), “Comparison 
of local and general anesthesia in tension free 
(Lichteinstein) hernioplasty: a prospective radomized 
trial.”, Hernia, pp 29 – 32. 
7 Gultekin FA.(2006), “A prospective comparison of local 
and spinal anesthesia for inguinal hernia repair”, Hernia. 
8 Kark AE, Kurzer MN, Belsham PA.(1998), “Three thousand 
one hundred seventy-Wve primary inguinal hernia repairs: 
advantages of ambulatory open mesh repair using local 
anesthesia”. J Am Coll Surg 186:447–455. 
9 Nordin P, Zeterstrom H, Gunnarsson U, Nilsson E.(2003). 
“Local, regional, or general anesthesia in groin hernia 
repair: multicentre randomised trial”. Lancet, vol 362, pp 
853 – 858. 
10 Ozgun H, Kurt MN, Kurt I, Cevikel MH.(2002). 
“Comparison of local, spinal, and general anesthesia for 
inguinal herniorrhaphy”. Eur J Surg, vol 168. 
11 Par Nodin.(2004), “Choice of anesthesia and risk of 
reoperation for recurrence in groin hernia repair”, Ann 
Surg, pp 187 – 192. 
12 Read RC.(1996), “Basic features of abdominal wall 
herniation and its repair”, Shackelford’s surgery of the 
alimentary tract, pp 93 – 107. 
13 Want GE.(1984), “Complications of inguinal hernia 
repair”, Surg Clin North Am, 64, pp 287 – 298. 
14 Want GE.(1995), “Handling the nerves, vessels and hernia 
sack in inguinal hernioplasty”, Inguinal hernia repair. 
Expert meeting on hernia surgery, pp 109 – 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản Số 1 * 2008 Nghiên cứu Y học
Ngoại Tổng quát 130 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản Số 1 * 2008 Nghiên cứu Y học
Ngoại Tổng quát 131 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 so_sanh_hieu_qua_phuong_phap_te_tai_cho_va_te_tuy_song_trong.pdf so_sanh_hieu_qua_phuong_phap_te_tai_cho_va_te_tuy_song_trong.pdf