Tỉ lệ biến chứng sớm của phẫu thuật nội soi
điều trị nang OMC cũng rất thấp ở các báo cáo
khác(1-8, 12, 21). Toác thành bụng xuất hiện ở phẫu
thuật mở nhưng rất hiếm khi xuất hiện ở phẫu
thuật nội soi(3,5,12,13). Thời gian mổ nội soi của
chúng tôi vẫn dài hơn so với mổ mở. Với phẫu
thuật cắt nang nối OGC với hỗng tràng theo
kiểu Roux en Y thì mổ nội soi dài hơn phẫu
thuật mở trung bình là 66 phút. Tuy nhiên với
phẫu thuật cắt nang, nối OGC với tá tràng phẫu
thuật nội soi chỉ dài hơn phẫu thuật mở cắt nang
nối OGC với tá tràng qua quai ruột biệt lập
trung bình là 21 phút (Bảng 2) là thời gian có
trung tiện trở lại đều ngắn hơn có ý nghĩa thống
kê ở nhóm mổ nội soi so với nhóm mổ mở.
Thời gian nằm viện trung bình của nhóm mổ
nội soi ngắn hơn có ý nghĩa thống kê so với
nhóm mổ mở.
Khi so sánh kết quả của phẫu thuật cắt nang
nối OGC với hỗng tràng theo kiểu Roux en Y
giữa phẫu thuật nội soi và phẫu thuật mở chúng
tôi nhận thấy rằng: Sự khác biệt về tỉ lệ phải
truyền máu trong mổ, biến chứng trong mổ và
biến chứng sau mổ giữa hai nhóm là không có ý
nghĩa thống kê. Tuy nhiên tỉ lệ phải mổ lại ở
nhóm mổ nội soi thấp hơn có ý nghĩa thống kê
so với phẫu thuật mở (Bảng 5). Nghiên cứu của
chúng tôi cho phép kết luận rằng phẫu thuật nội
soi cũng an toàn như phẫu thuật mở điều trị
nang OMC. Hơn thế nữa diễn biến sau mổ, thời
gian nằm viện của phẫu thuật nội soi ngắn hơn
và tính thẩm mỹ cao hơn.
5 trang |
Chia sẻ: huongthu9 | Lượt xem: 588 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu So sánh kết quả sớm giữa hai phương pháp mổ mở và nội soi trong điều trị bệnh lý nang ống mật chủ ở trẻ em, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 3 * 2011
Chuyên Đề Ngoại Nhi 106
SO SÁNH KẾT QUẢ SỚM GIỮA HAI PHƯƠNG PHÁP MỔ MỞ VÀ NỘI SOI
TRONG ĐIỀU TRỊ BỆNH LÝ NANG ỐNG MẬT CHỦ Ở TRẺ EM
Nguyễn Thanh Liêm*, Phạm Duy Hiền*, Vũ Mạnh Hoàn*
TÓM TẮT
Mục tiêu: So sánh mức độ an toàn của mổ nội soi và mổ mở trong điều trị bệnh nang ống mật chủ ở trẻ em.
Đối tượng phương pháp nghiên cứu: Kết quả sớm của mổ mở từ tháng 1/2001 đến tháng 12/2006 được
so sánh với kết quả sớm của mổ nội soi từ tháng 1/2007 đến tháng 7/2010. Chỉ tiêu nghiên cứu bao gồm biến
chứng trong và sau mổ, thời gian mổ, tỷ lệ mổ lại và thời gian nằm viện.
Kết quả: Tổng số bao gồm 307 bệnh nhân trong nhóm mổ mở và 309 bệnh nhân trong nhóm mổ nội soi. Sự
khác biệt về kích thước nang giữa hai nhóm là không có ý nghĩa thống kê. Thời gian mổ nội soi dài hơn mổ mở.
Số bệnh nhân cần truyền máu ở nhóm mổ nội soi ít hơn so với mổ mở. Biến chứng trong mổ ở cả hai nhóm đều
rất thấp và khác biệt không có ý nghĩa thống kê. Tỷ lệ biến chứng sau mổ thấp hơn ở nhóm mổ nội soi tuy nhiên
sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê. Tỷ lệ phải mổ lại thấp hơn có ý nghĩa thống kê ở nhóm mổ nội soi. Thời
gian nằm viện của nhóm mổ nội soi ngắn hơn một cách có ý nghĩa thống kê so với nhóm mổ mở.
Kết luận: Mổ nội soi cũng an toàn như mổ mở. Thời gian nằm viện của nhóm mổ nội soi ngắn hơn so với
nhóm mổ mở.
Từ khoá: Nang ống mật chủ, nội soi, bệnh viện Nhi Trung Ương.
ABSTRACT
IS THE LAPAROSCOPIC OPERATION AS SAFE AS OPEN OPERATION FOR CHOLEDOCHAL CYST
IN CHILDREN
Nguyen Thanh Liem, Pham Duy Hien, Vu Manh Hoan
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 15 - Supplement of No 3 - 2011: 106 - 110
Objective: To compare the safety of laparoscopic operation with open surgery for choledochal cyst in
children.
Methods: Early outcomes of open surgery from January 2001 to December 2006 were compared with early
outcomes of laparoscopic operations from January 2007 to July 2010. The main outcome variables included intra-
and early postoperative complications, operative time, rate of reintervention, and duration of postoperative stay.
Results: There were 307 patients in the open operation group and 309 patients in the laparoscopic operation
group. There was no significant difference in cyst diameter between the two groups. The operative time was
longer in the laparoscopic operation group. The number of patients requiring blood transfusion was lower in the
laparoscopic operation group. Intraoperative complications were low in both groups and not significantly
different. The rate of postoperative complications was lower in the laparoscopic operation group but not
significantly. The rate of reintervention was significantly lower in the laparoscopic operation group. The
postoperative stay was significantly shorter in the laparoscopic operation group.
Conclusions: Laparoscopic operation is as safe as open operation for choledochal cyst. The postoperative stay
was significantly shorter in the laparoscopic operation group.
* Bệnh viện Nhi Trung Ương
Tác giả liên lạc: ThS.BS Phạm Duy Hiền ĐT: 0913304558 Email: duyhien1972@yahoo.com
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 3 * 2011 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Ngoại Nhi 107
Key words: Choledochal cyts, Laparoscopic, NHP.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Cắt nang và nối mật ruột đã trở thành qui
trình kinh điển trong việc điều trị nang ống mật
chủ (OMC)(16). Phẫu thuật nội soi cắt nang và nối
ống gan chung (OGC) với hỗng tràng theo kiểu
Roux en Y được thực hiện lần đầu tiên năm
1995(4). Phương pháp này đã được thực hiện ở
nhiều trung tâm trên thế giới(1-23), tuy nhiên mức
độ an toàn của phẫu thuật nội soi vẫn còn là vấn
đề gây tranh cãi. Cho tới thời điểm hiện tại vẫn
chưa có công trình nghiên cứu nào về vấn đề
này, vì vậy chúng tôi tiến hành nghiên cứu này
nhằm so sánh mức độ an toàn của PTNS so với
phẫu thuật mở kinh điển, dựa vào tỉ lệ biến
chứng trong và sau mổ.
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Tiêu chuẩn lựa chọn
Nhóm mổ mở: Những bệnh nhân nang
OMC loại I và IV theo phân loại của Todani
được phẫu thuật từ tháng 1/2001 tới tháng
12/2006 tại bệnh viện Nhi Trung Ương, Hà nội,
Việt Nam.
Nhóm mổ nội soi: Bệnh nhân nang OMC
loại I và IV được phẫu thuật từ tháng 1/ 2007 tới
tháng 7/ 2010 tại cùng bệnh viện.
Tiêu chuẩn loại trừ
Những bệnh nhân bị viêm phúc mạc do
nang vỡ trong nhóm mổ mở (15 bệnh nhân).
Phẫu thuật nội soi không được chỉ định cho
những trường hợp nang OMC vỡ.
Phẫu thuật mổ mở được tiến hành bởi một
trong 4 phẫu thuật viên chính của khoa ngoại.
Hai kỹ thuật được sử dụng trong nhóm mổ mở
đó là: Cắt nang và nối OGC với hỗng tràng theo
kiểu Roux en Y(16) và cắt nang và nối OGC với tá
tràng qua một quai ruột biệt lập(2). Phẫu thuật
nội soi cắt nang cũng được thực hiện bởi một
trong bốn Phẫu thuật viên chính. Nối OGC với
tá tràng hoặc OGC với hỗng tràng kiểu Roux en
Y được tiến hành bởi cùng một phẫu thuật viên.
Kĩ thuật mổ nội soi được trình bày kĩ ở hai báo
cáo trước đây của chúng tôi(17,18).
Ăn đường miệng bắt đầu từ ngày thứ ba
sau mổ, sau khi sông dạ dày ra dịch trong.
Dẫn lưu ổ bụng được rút vào ngày thứ 5 nếu
không có rò mật.
Chỉ tiêu nghiên cứu là các biến chứng
trong và sau mổ bao gồm: Tổn thương tĩnh
mạch cửa, động mạch gan, ống gan, rò miệng
nối, áp xe trong ổ bụng, tắc ruột sớm sau mổ,
không liền vết thương, mổ lại và tỉ lệ tử vong.
Chúng tôi cũng so sánh thời gian mổ và thời
gian nằm viện.
Cỡ mẫu
Sử dụng tỉ lệ biến chứng sớm sau mổ trong
phẫu thuật mổ mở (9,3%)(13), và giả định tỉ lệ
biến chứng sớm của PTNS gấp đôi phẫu thuật
mở (18,6%), với mức ý nghĩa thống kê 5%, lực
nghiên cứu 90%, cần ít nhất 290 bệnh nhân cho
mỗi nhóm nghiên cứu.
Phương pháp xử lý số liệu
Số liệu được sử lý bằng phần mềm SPSS
15.0. Test X2 được sử dụng cho các biến số
bảng và Test T’Student được sử dụng cho các
biến liên tục.
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Tổng số 616 bệnh nhân được đưa vào
nghiên cứu. 309 bệnh nhân được phẫu thuật nội
soi từ tháng 1/2007 tới ngày 13 tháng 7/ 2010,
bao gồm 192 bệnh nhân được cắt nang, nối OGC
với tá tràng, 115 bệnh nhân được cắt nang, nối
OGC với hỗng tràng theo kiểu Roux en Y và 2
bệnh nhân phải chuyển mổ mở. Nhóm phẫu
thuật mổ mở có 307 bệnh nhân từ ngày 1/1/2001
tới ngày 30/12/2006. 261 bệnh nhân được phẫu
thuật cắt nang, nối OGC với hỗng tràng theo
kiểu Roux en Y và 46 bệnh nhân được cắt nang,
nối OGC với tá tràng qua một quai ruột biệt lập.
Triệu chứng lâm sàng của 616 bệnh nhi được
trình bày ở bảng 1
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 3 * 2011
Chuyên Đề Ngoại Nhi 108
Bảng 1. Triệu chứng lâm sàng
T/c Lâm sàng N %
Đau bụng 543 88,1
Nôn 263 42,7
Sốt 203 32,9
Vàng da 177 28,7
Phân bạc màu 80 13
U bụng 56 9,1
Tuổi trung bình của bệnh nhân nhỏ hơn ở
nhóm mổ nội soi so với mổ mở (48,7 ± 2,3 tháng
ss 63,5 ± 2,9 tháng, p = 0,001).
Sự khác biệt về kích thước đường kính trung
bình của nang giữa hai nhóm nghiên cứu là
không có ý nghĩa thống kê (47,8±1,5 cm ss
47,6±1,5 cm, p = 0,89).
Sự khác biệt về tỉ lệ giãn đường mật trong
gan phối hợp giữa hai nhóm không có ý nghĩa
thống kê (40,4% ss 41,7%, p = 0,7).
Thời gian mổ trung bình của phẫu thuật nội
soi cắt nang và nối Roux en Y dài hơn so với
phẫu thuật mở nối Roux en Y (211 phút ss 145
phút, p < 0,001). Thời gian mổ được trình bày ở
bảng 2
Bảng 2: Thời gian mổ theo phương pháp mổ
Phương pháp mổ T/g mổ trung bình (phút) P
NS cắt nang/Nối OGC- tá tràng 166±3 <0,01
NS cắt nang/Nối OGC- hỗng
tràng 211± 5 <0,001
Mở cắt nang/Nối OGC- hỗng
tràng 145±3 <0,001
Mở cắt nang/Dùng quai ruột
biệt lập 159±7 >0,05
Phối hợp nội soi/mổ mở 375±75 >0,05
10 bệnh nhân (3,2%) trong nhóm mổ nội soi
cần phải truyền máu trong mổ so với 34 bệnh
nhân (11,1%) trong nhóm mổ mở. Sự khác biệt
có ý nghĩa thống kê (p=0,001).
2 bệnh nhân trong nhóm mổ nội soi có biến
chứng trong mổ (một bệnh nhân bị tổn thương
nhánh phải của TM cửa và một bệnh nhân tổn
thương ống gan phải). Thương tổn nhỏ của TM
cửa và ống gan phải đều được khâu lại bằng nội
soi. Một bệnh nhân trong nhóm mổ mở bị
thương tổn đọng mạch gan phải.
Diễn biến sau mổ nhẹ nhàng hơn ở nhóm
mổ nội soi (Bảng 3).
Bảng 3: Diễn biến sau mổ
Nội soi (n=309)
Mổ mở
(n=307) P
Thời gian nằm viện
(ngày) 3,9±0,2 4,6±0,1 0,005
Thời gian có trung tiện
(ngày)
2,5±0,1
3,7±0,1
< 0,001
Thời gian rút dẫn lưu
(ngày)
4,6±0,1
5,8±0,1
0,008
12 bệnh nhân (3,9%) trong nhóm mổ nội soi
có biến chứng sau mổ so với 17 bệnh nhân trong
nhóm mổ mở (5,5%) có biến chứng sau mổ sự
khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p = 0,3)
(Bảng 4).
Bảng 4: Biến chứng sau mổ
Biến chứng Nội soi Mổ mở
Rò mật 7 6
Rò tuỵ 2 0
Áp xe tồn dư 2 4
Chảy máu trong ổ bụng 1 5
Thủng ruột non 0 1
Lồng ruột 0 1
Tổng 12 17
7 bệnh nhân trong nhóm mổ nội so bị rò
mật: 3 bệnh nhân năm 2007, 2 bệnh nhân năm
2008 1 bệnh nhân năm 2009 và 1 bệnh nhân năm
2010. 6 bệnh nhân trong nhóm mổ mở bị rò mật.
Sự khác biệt về tỉ lệ rò mật giữa hai nhóm
nghiên cứu không có ý nghĩa thống kê. Chỉ có
một bệnh nhân trong nhóm mổ nội soi bị chảy
máu sau mổ trong khi đó có tới 5 bệnh nhân
trong nhóm mổ mở gặp phải biến chứng này
(Bảng 4).
Một bệnh nhân (0,3%) trong nhóm mổ nội
soi cần phải mổ lại trong khi đó có tới 11 bệnh
nhân (3,6%) trong nhóm mổ mở phải mổ lại, sự
khác biệt là có ý nghĩa thống kê (p<0,01).
Thời gian nằm viện trung bình cho nhóm
mổ nội soi là 7,0 ± 0,2 ngày và 9,1 ± 0,2 ngày
trong nhóm mổ mở. Sự khác biệt là có ý nghĩa
thống kê (p = 0,001).
Sự khác biệt về tỉ lệ biến chứng trong và sau
mổ giữa phẫu thuật nội soi nối Roux en Y và mổ
mở nối Roux en Y. Tuy nhiên tỉ lệ phải mổ lại
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 3 * 2011 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Ngoại Nhi 109
thấp hơn một cách có ý nghĩa thống kê ở nhóm
mổ nội soi nối Roux en Y (Bảng 5).
Bảng 5: So sánh tỉ lệ biến chứng giữa mổ nội soi nối
Roux en Y và mổ mở nối Roux en Y
Mổ mở nối
Roux en Y
(261 BN)
Mổ nội soi nối
Roux en Y
(115 BN)
P
Truyền máu
trong mổ 26 (9,9%) 8 (6,9%) 0,3
Biến chứng
trong mổ 1 (0,38%) 2 (0,17%) 0,1
Biến chứng sau
mổ 15 (5,7%) 5 (4,3%) 0,6
Mổ lại 11 (4,2%) 0 (0%) 0,02
Không có trường hợp nào tử vong trong cả
hai nhóm nghiên cứu
BÀN LUẬN
Nghiên cứu của chúng tôi chỉ ra rằng sự
khác biệt về tỉ lệ biến chứng trong mổ giữa mổ
mở và mổ nội soi là không có ý nghĩa thống kê.
Tuy nhiên số bệnh nhân phải truyền máu trong
mổ thì thấp hơn một cách có ý nghĩa thống kê ở
nhóm mổ nội soi.
Tổn thương tĩnh mạch cửa và động mạch
gan là những biến chứng đáng quan ngại nhất
trong quá trình cắt nang đặc biệt là với phẫu
thuật nội soi. Những biến chứng này chỉ gặp ở
một bệnh nhân trong nhóm mổ nội soi do nang
quá viêm dính. Kinh nghiệm của chúng tôi là
luôn phẫu tích sát thành nang để tránh biến
chứng này.
Tổng số biến chứng sớm thì không khác biệt
giữa hai nhóm nghiên cứu. Chảy máu sau mổ ít
gặp hơn ở mổ nội soi, có lẽ do độ phóng đại của
camera đã giúp cho việc cầm máu được chính
xác hơn.
Rò miệng nối mật ruột là biến chứng rất
thường gặp trong phẫu thuật điều trị nang
OMC, tỉ lệ này dao động từ 5,8% đến 7,3%
trong phẫu thuật mở(13,19). Trong nghiên cứu
của chúng tôi Tỉ lệ rò mật khác biệt không có ý
nghĩa thống kê giữa hai nhóm nghiên cứu
(0,22% ss 0,20%). Rò miệng nối trong phẫu
thuật nội soi giảm dần cùng với kinh nghiệm
của chúng tôi (learning curve). Tỉ lệ rò mật của
năm 2009 và 2010 rất thấp.
Tỉ lệ phải mổ lại thì thấp hơn hẳn ở nhóm
mổ nội soi. Chỉ có một bệnh nhân trong nhóm
mổ nội soi phải mổ lại do rò mật. Lý do chính
phải mổ lại trong nhóm mổ mở là áp xe tồn dư
và chảy máu.
Tỉ lệ biến chứng sớm và tử vong của phẫu
thuật nội soi của chúng tôi thấp hơn có ý nghĩa
thống kê so với số liệu mổ mở của Li và Cs
(Bảng 6).
Bảng 6: So sánh kết quả sớm của phẫu thuật nội soi
và mổ mở
Loại biến chứng
Liem et al (Nội
soi, 309 bệnh
nhân)
Li et al (Mổ mở,
173 bệnh nhân)
Rò mật 7 (2,3%) 10(5,8%)
Toác thành bụng 0 3
Rò tuỵ 2 1
Tắc ruột 0 1
Suy gan 0 1
Tử vong 0 4 (2,3%)
Tỉ lệ biến chứng sớm của phẫu thuật nội soi
điều trị nang OMC cũng rất thấp ở các báo cáo
khác(1-8, 12, 21). Toác thành bụng xuất hiện ở phẫu
thuật mở nhưng rất hiếm khi xuất hiện ở phẫu
thuật nội soi(3,5,12,13). Thời gian mổ nội soi của
chúng tôi vẫn dài hơn so với mổ mở. Với phẫu
thuật cắt nang nối OGC với hỗng tràng theo
kiểu Roux en Y thì mổ nội soi dài hơn phẫu
thuật mở trung bình là 66 phút.. Tuy nhiên với
phẫu thuật cắt nang, nối OGC với tá tràng phẫu
thuật nội soi chỉ dài hơn phẫu thuật mở cắt nang
nối OGC với tá tràng qua quai ruột biệt lập
trung bình là 21 phút (Bảng 2) là thời gian có
trung tiện trở lại đều ngắn hơn có ý nghĩa thống
kê ở nhóm mổ nội soi so với nhóm mổ mở.
Thời gian nằm viện trung bình của nhóm mổ
nội soi ngắn hơn có ý nghĩa thống kê so với
nhóm mổ mở.
Khi so sánh kết quả của phẫu thuật cắt nang
nối OGC với hỗng tràng theo kiểu Roux en Y
giữa phẫu thuật nội soi và phẫu thuật mở chúng
tôi nhận thấy rằng: Sự khác biệt về tỉ lệ phải
truyền máu trong mổ, biến chứng trong mổ và
biến chứng sau mổ giữa hai nhóm là không có ý
nghĩa thống kê. Tuy nhiên tỉ lệ phải mổ lại ở
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 3 * 2011
Chuyên Đề Ngoại Nhi 110
nhóm mổ nội soi thấp hơn có ý nghĩa thống kê
so với phẫu thuật mở (Bảng 5). Nghiên cứu của
chúng tôi cho phép kết luận rằng phẫu thuật nội
soi cũng an toàn như phẫu thuật mở điều trị
nang OMC. Hơn thế nữa diễn biến sau mổ, thời
gian nằm viện của phẫu thuật nội soi ngắn hơn
và tính thẩm mỹ cao hơn.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Chokshi NK, Guner YS, et al (2009). Laparoscopic
choledochal cyst excision: lessons learned in our experience. J
laparoendosc Adv Surg Tech A,19:87-91.
2. Cosentino CM, Luck SR, Raffensperger JG, et al (1992).
Choledochal duct cyst: resection with physiologic
reconstruction. Surgery, 112:740-747.
3. Diao M, Li L, Zhang JZ, et al (2010). A shorter loop in Roux-
en-Y hepatojejunostomy reconstruction for choledochal cyst is
equally effective: preliminary results of a prospective
randomized study. J Pediatr Surg,45:845-847.
4. Farello GA, Cerofolini A, et al (1995). Congenital choledochal
cyst: video-guided laparoscopic treatment. Sur Laparos
Endosc,5:354-358.
5. Hong L, Wu Y, Yan Z, et al (2008). Laparoscopic surgery for
choledochal cyst in children:a case review of 31 patients. Eur J
pediatr Surg,18:67-71.
6. Jang JY, Kim SW, Han HS, et al (2006). Totally laparoscopic
management of choledochal cyst using a four-hole method.
Surg Endosc, 20:1762-1765.
7. Kirschner HJ, Szavay PO, et al (2010). Laparoscopic Roux-en-
Y hepaticojejunostomy in children with long common
pancreaticobiliary channel:surgical technique and functional
outcomes. J Laparoendosc Adv Surg Tech A,31.
8. Laje P, Questa H, Baliez M (2007). Laparoscopic leak-free
technique for the treatment of choledochal cyst. J
laparoendosc Adv Surg tech A, 17:519-521.
9. Le DM, Woo RK, et al (2006). Laparoscopic resection of type 1
choledochal cyst in pediatric patients. Surg ENdosc, 20:249-
251.
10. Lee H, Hirose S, et al (2004). Initial experience with complex
laparoscopic biliary surgery in children: biliary atresia and
choledochal cyst. J Pediatr Surg, 39:804-807.
11. Lee KH, Tam YH, Yeung CK, et al (2009). Laparoscopic
excision of choledochal cysts in childrten:an intermediate-
term report. Pediatr Surg Int, 25:355-360.
12. Li L, Feng W, Bo FJ, et al (2004). Laparoscopic-Assisted total
cyst excision of choledochal cyst and Roux-en-Y
hepaticoenterostomy. J P surg, 39:1663-1666.
13. Li MJ, Feng JX, Jin QF (2002). Early complications after
excision with hepaticoenterostomy for infants and children
with choledochal cysts. Hepatobiliary pancreat Dis Int,1:281-
284.
14. Liu SL, Li L, How WY, et al (2009). Laparoscopic excision of
choledochal cyst and Roux-en-Y hepaticojejunostomy in
symptomatic neonates. J Pediatr Surg, 44:508-511.
15. Meehan JJ, Elliott S, et al (2007). The robotic approach to
complex hepatobiliary anomalies in children: Preliminary
report. J Pediatr Surg, 42:2110-2114.
16. Miyano T, Yamataka A, Kato Y, et al (1996).
Hepaticoenterostomy after excision of choledochal cyst in
children: a 30-year experience with 180 cases. J pediatr
Surg,31:1417-1421.
17. Nguyen Thanh Liem, Dung LA, Son TN (2008). Laparoscopic
complete cyst excision and hepaticoduodenostomy for
choledochal cyst: early results in 74 cases. J Laparoendos Adv
Surg Tech, 19: 87 – 90.
18. Nguyen Thanh Liem, Pham Duy Hien, Dung LA, Son TN
(2010). Laparoscopic repair for choledochal cyst: lessons
learned from 190 cases. J Pediatr Surg,45:540-544.
19. Saing H, Han H, Chan KL, et al (1997). Early and late results
of excision of choledochal cyst. J Pediatr Surg,32:1563-1566.
20. Shin Sh, Han HS, Yoon YS, et al (2008). Laparoscopically
assisted extrahepatic cyst excision and left hemihepatectomy
for a type IV-A choledochal cyst. J Laparoendos Adv Surg
tech A, 18:831-835.
21. Srimurthy KR, Ramesh S (2006). Laparoscopic management
of pediatric choledochal cyst in a developing country: review
of ten cases. Pediatr Surg Int, 144-149.
22. Tanaka M, Shimizu S, et al (2001). Laparoscopically assisted
resection of choledochal cyst and Roux-en-Y reconstruction.
Surg Endosc, 15:545-551.
23. Ure BM, Schier F, Schmidt AI, et al (2005). Laparoscopic
resection of congenital choledochal cyst, choledojejunostomy,
and extraabdominal Roux-en-Y anastomosis. Surg Endosc,
19:1055-1057.
24. Vila-Carbo JJ, Lluna Gonzalez J,Hernandez Anselmi E, et al
(2007). Congenital choledochal cyst and laparoscopic
techniques. Cir Pediatr, 20:129-132.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- so_sanh_ket_qua_som_giua_hai_phuong_phap_mo_mo_va_noi_soi_tr.pdf