So sánh kết quả xử lý số liệu gps và glonass

Với tập hợp số liệu đủ lớn, đảm bảo chất lượng, xử lý bằng phần mềm tiên tiến theo quy trình chặt chẽ, với việc so sánh, phân tích theo độ dài cạnh và tọa độ có thể kết luận: - Trong điều kiện thu tín hiệu như nhau, trên quy mô không gian lớn, độ dài cạnh tính từ số liệu GPS có độ hội tụ tốt hơn, sai số trung phương nhỏ hơn so với độ dài cạnh tính từ số liệu GLONASS. - Là hệ quả của kết luận trên, tọa độ bình sai theo số liệu GPS có sai số trung phương nhỏ hơn so với sai số trung phương của tọa độ bình sai theo số liệu GLONASS. - Tuy vậy, liên quan tới kết quả cuối cùng là tọa độ sau bình sai có thể thấy, tọa độ bình sai từ số liệu hai hệ có thể coi là đồng nhất với sai khác tương đối nhỏ hơn 1/60.000.000. Từ các phân tích trên có thể thấy: - Số liệu GLONASS hoàn toàn có thể đáp ứng được các yêu cầu về độ chính xác đối với các ứng dụng trắc địa - bản đồ yêu cầu độ chính xác cao (thiết lập lưới khống chế quốc gia). - Các khảo sát trên mới chỉ dựa trên lưới có 4 điểm có khoảng cách lớn. Trong nghiên cứu địa động lực của các mảng thạch quyển, mật độ điểm trên không gian tương tự thường lớn hơn nhiều và đồ hình lưới chặt chẽ hơn, với vận tốc chuyển dịch tuyệt đối có độ lớn vài cm/năm, nên bên cạnh số liệu GPS, với quan điểm hết sức thận trọng vẫn có thể cho rằng, số liệu GLONASS có thể là công cụ hỗ trợ hiệu quả. Cuối cùng, việc khảo sát và bàn luận dựa trên cơ sở xử lý số liệu thực tế nhất định (từ 20 vệ tinh GLONASS), chỉ nên coi là các kết quả bước đầu. Hy vọng rằng, số liệu ở hiện trạng đủ 24 vệ tinh, khi hệ hoạt động theo chế độ đầy đủ (Full Operational Capability -FOC), kết quả có khả năng được cải thiện và GLONASS dần trở thành đối trọng độc lập, hiệu quả với các hệ vệ tinh dẫn đường toàn cầu (Global Navigation Satellite System - GNSS) khác

pdf7 trang | Chia sẻ: honghp95 | Lượt xem: 629 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu So sánh kết quả xử lý số liệu gps và glonass, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
60 35(1), 60-65 Tạp chí CÁC KHOA HỌC VỀ TRÁI ĐẤT 3-2013 SO SÁNH KẾT QUẢ XỬ LÝ SỐ LIỆU GPS VÀ GLONASS VY QUỐC HẢI E - mail: vqhai75@yahoo.com Viện Địa chất, Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam Ngày nhận bài: 20 - 8 - 2012 1. Mở đầu Theo thời gian, với sự phát triển mạnh mẽ, việc ứng dụng các hệ định vị toàn cầu không còn chỉ bó hẹp ở hệ NAVSTAR GPS (thường được hiểu là GPS). Thời gian qua, hệ GLONASS được củng cố và phát triển [truy cập ], cho tới thời điểm hiện nay, đồ hình vệ tinh cũng như thị trường máy thu đã đảm bảo các điều kiện kỹ thuật cho việc thu thập và xử lý số liệu cho các ứng dụng trên nhiều lĩnh vực khác nhau [1, 2]. Song song với việc ứng dụng GPS, việc xử lý số liệu GLONASS và Galilleo (trong tương lai gần) cho các nhiệm vụ định vị đã trở nên hiện hữu. Việc nghiên cứu ứng dụng số liệu GLONASS có thể chia làm hai bước: (i) thu thập, xử lý thành công số liệu với độ chính xác cao cho đến kết quả cuối cùng (cạnh, tọa độ và sai số liên quan); (ii) phân tích, so sánh, đánh giá độ chính xác, độ tin cậy, tính khả dụng của hệ GLONASS trên cơ sở kết quả xử lý. Quá trình xử lý số liệu GLONASS trên lưới có qui mô không gian lớn, với độ chính xác cao đã được trình bày trong nghiên cứu của Vy Quốc Hải (2010) [5]. Kết quả xử lý số liệu GLONASS đã được tổng hợp, phân tích, so sánh và rút ra kết luận ban đầu: Sai số tương đối nội bộ từ kết quả tính cạnh từ số liệu GLONASS đạt 1:50.000.000. So sánh với số liệu IGS, kết quả xử lý từ số liệu GLONASS đạt độ chính xác cao. Tuy vậy, với kinh nghiệm xử lý số liệu GPS ở lưới có quy mô tương đương, có thể cho rằng kết quả xử lý số liệu GLONASS có độ chính xác và độ tin cậy kém hơn. Trên cơ sở đó, tác giả bài báo kiến nghị tiếp tục tiến hành các khảo sát, so sánh chi tiết, cụ thể hơn về vấn đề liên quan. Bởi vậy, trong dịp này việc so sánh kết quả xử lý số liệu GLONASS và GPS sẽ được trình bày thông qua việc xử lý số liệu một lưới cụ thể. Về cơ bản, việc so sánh, phân tích được tiến hành trên cơ sở kết quả xử lý số liệu GLONASS, kết quả xử lý số liệu GPS và tham khảo các số liệu IGS nhằm đưa ra các kết luận liên quan. Cũng xin lưu ý, việc so sánh đánh giá độ chính xác, độ tin cậy kết quả xử lý số liệu của các hệ định vị, về mặt nguyên lý cho ta hiểu rõ, sâu sắc hơn về khả năng của các hệ; về mặt thực tiễn giúp lựa chọn các phương án tối ưu cho các ứng dụng của mình. 2. Quan điểm nghiên cứu và số liệu Việc so sánh, phân tích chỉ tin cậy khi số liệu cũng như kết quả xử lý đáp ứng được một số yêu cầu cơ bản sau: - Điều kiện thu tín hiệu đồng nhất: kết quả xử lý phụ thuộc phần lớn vào chất lượng số liệu, mà chất lượng số liệu phụ thuộc vào nhiều yếu tố chủ quan, khách quan khác nhau như máy thu, ăng ten, vệ tinh, Vệ tinh của hai hệ khác nhau, với vai trò người sử dụng chúng ta không thể khắc phục, song phải đảm bảo máy thu và ăng ten đồng nhất khi thu tín hiệu GLONASS và GPS. Bên cạnh đó, phải đảm bảo phương thức ghi số liệu (phương pháp đo) không có khác biệt. Điều kiện ngoại cảnh (các tầng khí quyển, vị trí đặt anten) ảnh hưởng lớn tới chất lượng số liệu. Cho dù có các cải tiến về công nghệ, phương án xử lý, song việc loại trừ hoàn toàn các ảnh hưởng này là không thể. Bởi vậy, trong điều kiện có thể, phải đảm bảo việc thu tín hiệu được tiến hành trong điều kiện ngoại cảnh như nhau, 61 nhằm loại trừ phần nào các sai số hệ thống khi so sánh. - Phương án xử lý số liệu: như đã biết, kết quả xử lý số liệu GNSS không phải là lời giải duy nhất, từ một tập số liệu có thể nhận được kết quả khác nhau phụ thuộc vào phần mềm xử lý, việc cập nhật các số liệu hỗ trợ, các lựa chọn khi xử lý. Cũng xin lưu ý, nên lựa chọn các phần mềm khoa học được thừa nhận trên trường quốc tế nhằm xử lý với độ tin cậy và đạt độ chính xác cao. Xuất phát cùng các tệp số liệu sẽ xử lý riêng rẽ: theo số liệu GLONASS và theo số liệu GPS trên cùng một phần mềm, với cùng một quy trình chặt chẽ. Thành quả là độ dài các cạnh cùng sai số liên quan và cuối cùng là tọa độ và sai số tọa độ nhận được sau bình sai toàn lưới. - Về số liệu: số liệu của hai hệ đồng thời đáp ứng được các điều kiện nêu trên (cùng điều kiện máy móc, ngoại cảnh, phương thúc đo, cùng độ dài ca đo). Chất lượng số liệu phải đạt chuẩn, trong trường hợp cần thiết, cần kiểm tra chất lượng bằng phần mềm TeQC trước khi lựa chọn đưa vào xử lý. Các dữ liệu liên quan tới tệp số liệu (máy thu, loại anten, độ cao ăng ten,) phải minh bạch, rõ ràng. Độ dài ca đo đủ lớn, trong điều kiện hiện nay, hoàn toàn có thể lựa chọn các tệp số liệu đo với thời lượng 24 giờ. Với tệp số liệu loại này, các sai số có liên quan tới đồ hình vệ tinh, tầng điện ly, các yếu tố khí hậu, địa triều, thủy triều - với chu kỳ ngày đêm 24 giờ - được giảm thiểu một cách tốt nhất khi xử lý số liệu, đảm bảo kết quả có độ tin cậy cao nhất. Để nâng cao độ tin cậy khi so sánh, nên lựa chọn số lượng ca đo đủ lớn. Tất nhiên, số ca đo càng lớn kết quả càng tin cậy, song khối lượng tính toán tăng lên đáng kể. Bởi vậy, nên lựa chọn số ca đo tối ưu, hạn chế khối lượng tính toán, song không ảnh hưởng một cách cơ bản tới độ chính xác. Với kinh nghiệm xử lý các lưới quy mô khu vực, nên thu thập khoảng 5 ca đo. -Phương án so sánh: việc so sánh phân tích nên tiến hành theo cùng loại độ dài cạnh, tọa độ bình sai, phân tích cùng sai số liên quan nhận được từ hai loại số liệu. Trong trường hợp thuận lợi, việc so sánh với số liệu IGS củng cố thêm các kết luận hữu ích. Trên cơ sở các quan điểm nêu trên, số liệu đo của các trạm IGS lân cận nước ta, cụ thể là các điểm: BAKO, COCO, LHAZ và NTUS được lựa chọn. Số liệu của 7 ca đo liên tục có DOY (ngày trong năm) 094, 095, 096, 097, 098, 099 và 100 năm 2010 của các điểm BAKO, COCO, LHAZ và NTUS đã được khai thác. Đây là các điểm thường trực của mạng IGS ở lân cận nước ta, có thể khai thác được số liệu hỗn hợp GPS/GLONASS. Việc sử dụng các số liệu này có nhiều ưu thế, do các điều kiện kỹ thuật về máy thu, anten, vị trí mốc, phải đáp ứng các yêu cầu cao và vì vậy số liệu đạt chuẩn IGS. Mặt khác, các điểm này đều có tọa độ do IGS công bố tạo điều kiện thuận lợi xử lý và kiểm tra kết quả. Các số liệu này được xử lý bằng phần mềm Bernese với quy trình và các lựa chọn hoàn toàn giống nhau, nhằm đảm bảo tính đồng nhất khi xử lý hai loại số liệu. Bernese là một trong những phần mềm khoa học, có khả năng cập nhật, sử dụng hàng loạt các số liệu hỗ trợ: lịch vệ tinh chính xác, tâm pha anten (máy thu, vệ tinh), chuyển động cực, địa triều, thủy triều, mô hình khí quyển,... đã được khảo sát ứng dụng trong thực tiễn ở nước ta [3, 4], hoàn toàn đáp ứng yêu cầu cho việc xử lý số liệu của các lưới có không gian lớn với độ chính xác cao. 3. Kết quả và thảo luận Số liệu đã khai thác sau khi giải nén chuyển đổi dạng thích hợp, cùng các tệp số liệu hỗ trợ được cập nhật vào Project và xử lý theo trình đơn. Liên quan tới việc đánh giá kết quả xử lý, xin lưu ý, tệp số liệu hỗn hợp bao gồm trị đo từ 29 vệ tinh của hệ GPS với số hiệu vệ tinh được phần mềm thống kê như sau: 2 3 4 5 6 7 8 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 26 27 28 29 30 31 32 và trị đo của 20 vệ tinh hệ GLONASS, lần lượt là: 101 102 103 104 105 107 108 110 111 113 114 115 117 118 119 120 121 122 123 124. Các kết quả xử lý theo hai loại số liệu sẽ được tổng hợp và phân tích lần lượt ở các phần tiếp theo. Trước hết, độ dài các cạnh (slope distance) theo từng ca đo được tập hợp ở bảng 1. 62 Bảng 1. Tổng hợp kết quả tính cạnh Đơn vị tính: m GPS GLONASS Cạnh (1) Ca đo (2) Độ dài (3) H.chỉnh (4) Độ dài (5) H. chỉnh (6) Hiệu GL-GPS (7) BAKO-NTUS 94 934568,991 0,001 934568,987 0,000 -0,004 95 934568,987 -0,002 934568,985 -0,002 -0,002 96 934568,989 0,000 934568,988 0,002 -0,001 97 934568,988 -0,002 934568,986 -0,001 -0,002 98 934568,990 0,000 934568,991 0,005 0,002 99 934568,993 0,004 934568,991 0,004 -0,002 100 934568,989 -0,001 934568,979 -0,008 -0,010 Trung bình và sai số 934568.989 0,002 934568,987 0,004 -0,003 BAKO-COCO 94 1265326,744 0,002 1265326,778 0,024 0,034 95 1265326,744 0,002 1265326,748 -0,006 0,003 96 1265326,741 -0,001 1265326,761 0,007 0,020 97 1265326,742 0,000 1265326,726 -0,028 -0,016 98 1265326,742 0,000 1265326,761 0,007 0,019 99 1265326,737 -0,005 1265326,732 -0,021 -0,004 100 1265326,743 0,001 1265326,772 0,018 0,028 Trung bình và sai số 1265326.742 0,003 1265326,754 0,019 0,012 COCO-NTUS 94 1672354,752 0,000 1672354,766 0,007 0,014 95 1672354,754 0,003 1672354,755 -0,004 0,001 96 1672354,752 0,000 1672354,763 0,004 0,012 97 1672354,751 -0,001 1672354,741 -0,019 -0,010 98 1672354,751 0,000 1672354,761 0,001 0,009 99 1672354,750 -0,002 1672354,749 -0,010 -0,001 100 1672354,752 0,001 1672354,780 0,021 0,028 Trung bình và sai số 1672354.752 0,001 1672354,759 0,013 0,008 LHAZ-NTUS 94 3365015,195 0,003 3365015,199 0,006 0,005 95 3365015,196 0,004 3365015,192 -0,001 -0,004 96 3365015,186 -0,006 3365015,188 -0,005 0,002 97 3365015,191 -0,001 3365015,194 0,000 0,002 98 3365015,188 -0,004 3365015,187 -0,007 -0,001 99 3365015,193 0,001 3365015,182 -0,012 -0,012 100 3365015,194 0,002 3365015,213 0,020 0,019 Trung bình và sai số 3365015.192 0,004 3365015,194 0,010 0,002 BAKO-LHAZ 94 4257262,201 0,004 4257262,206 0,008 0,004 95 4257262,201 0,004 4257262,193 -0,004 -0,008 96 4257262,190 -0,007 4257262,199 0,001 0,008 97 4257262,194 -0,003 4257262,192 -0,006 -0,002 98 4257262,190 -0,007 4257262,198 0,001 0,009 99 4257262,200 0,004 4257262,181 -0,016 -0,019 100 4257262,201 0,004 4257262,214 0,016 0,012 Trung bình và sai số 4257262.197 0,005 4257262,197 0,010 0,001 COCO-LHAZ 94 4567097,708 0,003 4567097,708 0,004 0,000 95 4567097,713 0,007 4567097,703 -0,001 -0,010 96 4567097,699 -0,006 4567097,710 0,006 0,012 97 4567097,704 -0,001 4567097,699 -0,005 -0,006 98 4567097,699 -0,007 4567097,703 -0,001 0,004 99 4567097,702 -0,003 4567097,680 -0,024 -0,022 100 4567097,712 0,007 4567097,725 0,021 0,013 Trung bình và sai số 4567097.705 0,006 4567097,704 0,013 -0,001 Trong bảng 1, cột 3 là độ dài cạnh tính từ số liệu GPS, cột 4 là độ lệch (hiệu chỉnh) của độ dài so với giá trị trung bình. Cột 5 và cột 6 là các đại lượng tương tự tính từ GLONASS, cột 7 là hiệu độ dài tính từ GLONASS và GPS. Đối với từng cạnh, từ độ dài tính từ 7 ca đo, đều tính giá trị trung bình, sai số trung phương liên quan (hàng cuối sau 7 ca đo, in đậm) từ độ lệch của từng độ dài so với độ dài trung bình. Theo số liệu bảng 1, mối quan hệ giữa hiệu chỉnh và độ dài tính theo số liệu GPS và GLONASS được biểu diễn trực quan trên hình 1, mối liên quan giữa sai số trung phương và độ dài được trình bày ở hình 2. 63 -40.0 -30.0 -20.0 -10.0 0.0 10.0 20.0 30.0 0 1000 2000 3000 4000 5000 Độ dài (km) H iệ u ch ỉn h (m m ) GPS GLONASS Hình 1. Hiệu chỉnh và độ dài cạnh tính từ số liệu GPS và GLONASS 0.0 5.0 10.0 15.0 20.0 0 1000 2000 3000 4000 5000 Độ dài (km) Sa i s ố (m m ) GPS GLONASS Hình 2. Sai số và độ dài cạnh tính từ số liệu GPS và GLONASS Từ số liệu bảng 1 và đồ thị hình 1, hình 2 có thể thấy: - Kết quả tính từ số liệu GPS có độ ổn định, hội tụ rất cao, giá trị tuyệt đối của các hiệu chỉnh nhỏ (giá trị tuyệt đối lớn nhất là 7mm) và vì vậy sai số trung phương nhỏ. Với khoảng cách 935km sai số trung phương đạt 2mm, với khoảng cách 4500km sai số trung phương là 6mm. Một đặc điểm cơ bản có thể xác nhận, giá trị tuyệt đối của hiệu chỉnh và từ đó là sai số trung phương biến thiên gần như tuyến tính với độ dài. - So với GPS, kết quả tính từ GLONASS kém ổn định hơn, tính hội tụ kém, hiệu chỉnh lớn hơn (giá trị lớn nhất 28mm) và vì vậy sai số trung phương lớn hơn. Giá trị cụ thể lần lượt là: với khoảng cách 936 km sai số trung phương là 4mm, với độ dài 4500km sai số xấp xỉ 13mm. Tuy vậy, hiệu chỉnh và sai số trung phương không thể hiện rõ sự biến thiên tuyến tính theo độ dài. Có sự bất thường ở các giá trị độ dài 1265km và 1672km. - Sai khác giữa độ dài trung bình tính từ GLONASS và GPS có giá trị tuyệt đối nhỏ, giá trị lớn nhất xuất hiện tại khoảng 1265km là 12mm, nhỏ nhất cỡ 1 mm ở độ dài hơn 4000km. Với quy mô không gian của lưới có thể cho rằng kết quả tính cạnh từ hai loại số liệu là đồng nhất. Các kết luận trên chỉ mang tính tương đối giữa kết quả của số liệu hai hệ. Để có cách nhìn khác, chúng ta có thể so sánh với độ dài cạnh tính từ tọa độ IGS của các điểm. Vì vậy, số liệu một lần nữa được tổng hợp ở bảng 2. 64 Bảng 2. So sánh cạnh với cạnh tính từ tọa độ IGS Đơn vị tính: m GPS GLONASS Cạnh (1) IGS (2) Độ dài (3) Độ lệch (4) Độ dài (5) Độ lệch (6) BAKO-NTUS 934568,989 934568,989 0,000 934568,987 -0,002 BAKO-COCO 1265326,755 1265326,742 -0,013 1265326,754 -0,001 COCO-NTUS 1672354,833 1672354,752 -0,081 1672354,759 -0,074 LHAZ-NTUS 3365015,181 3365015,192 0,011 3365015,194 0,013 BAKO-LHAZ 4257262,182 4257262,197 0,015 4257262,197 0,015 COCO-LHAZ 4567097,719 4567097,705 -0,014 4567097,704 -0,015 Trong bảng 2, cột 2 là độ dài cạnh tính từ tọa độ nhận được từ IGS (gọi tắt là IGS), cột 3 là độ dài tính từ số liệu GPS và độ lệch so với độ dài IGS ở cột 4, cột 5 là độ dài tính từ số liệu GLONASS và độ lệch so với độ dài IGS trình bày ở cột 6. Tiếp tục, có thể thấy, sai khác về độ dài so với số liệu IGS chủ yếu dưới 2cm, ngoại trừ tại khoảng cách 1672km có sai khác lớn là cỡ 7-8cm. Để có thể so sánh tọa độ, lưới được bình sai với kết quả toàn bộ 7 ca đo, với điều kiện cố định điểm BAKO. Kết quả bình sai tọa độ được trình bày ở bảng 3. Bảng 3. Tổng hợp kết quả bình sai Điểm (1) Thông số (2) Tọa độ gần đúng (3) Tọa độ bình sai (4) Hiệu chỉnh (m) (5) Sai số (m) (6) Theo số liệu GPS U (m) -35,2874 -35,2912 -0,0038 0,0013 N (0 ’ ’’) -120 11’ 18”,042256 -120 11’ 18”,041136 0,0346 0,0003 COCO E (0 ’ ’’) 960 50’ 02”,297134 960 50’ 02”,296999 -0,0041 0,0004 U (m) 3624,5972 3624,6176 0,0204 0,0020 N (0 ’ ’’) 290 39’ 26”,397700 290 39’ 26”,398062 0,0112 0,0008 LHAZ E (0 ’ ’’) 910 06’ 14”,500121 910 06’ 14”,500490 0,0099 0,0005 U (m) 75,4124 75,4028 -0,0096 0,0011 N (0 ’ ’’) 10 20’ 44”,886558 10 20’ 44”,885708 -0,0263 0,0003 NTUS E (0 ’ ’’) 1030 40’ 47”,850404 1030 40’ 47”,848276 -0,0658 0,0003 Theo số liệu GLONASS U (m) -35,2874 -35,2931 -0,0057 0,0020 N (0 ’ ’’) -120 11’ 18”,042256 -120 11’ 18”,041190 0,0330 0,0005 COCO E (0 ’ ’’) 960 50’ 02”,297134 960 50’ 02”,296300 -0,0252 0,0006 U (m) 3624,5972 3624,6184 0,0212 0,0035 N (0 ’ ’’) 290 39’ 26”,397700 290 39’ 26”,398132 0,0133 0,0014 LHAZ E (0 ’ ’’) 910 06’ 14”,500121 910 06’ 14”,500277 0,0042 0,0009 U (m) 75,4124 75,3977 -0,0147 0,0017 N (0 ’ ’’) 10 20’ 44”,886558 10 20’ 44”,885693 -0,0268 0,0004 NTUS E (0 ’ ’’) 1030 40’ 47”,850404 1030 40’ 47”,848339 -0,0638 0,0005 Trong bảng 3, cột 3 tập hợp tọa độ nhận được từ IGS của các điểm COCO và LHAZ, NTUS đã được tính chuyển về thời điểm đợt đo được nhận như tọa độ trước bình sai. Cột 4 là tọa độ bình sai theo từng loại số liệu, cột 5 là hiệu chỉnh hay chính là độ lệch tọa độ bình sai so với tọa độ IGS. Tương tự cột 6 là sai số trung phương tọa độ bình sai theo từng loại số liệu. Sai khác tương đối cũng được tập hợp ở bảng 4. Bảng 4. Tổng hợp sai khác tương đối Sai khác GLONASS và GPS Điểm U N E K.cách Sai khác tương đối NTUS -5mm 0mm 2mm 935km ~1/170.000. 000 COCO -2mm -2mm -21mm 1265km ~1/60.000.000 LHAZ 1mm 2mm 6mm 4567km ~1/710.000. 000 Từ số liệu bảng 3 và bảng 4 có thể thấy: - Sai số nội bộ của tọa độ xác định từ số liệu GPS nhỏ hơn sai số tọa độ xác định từ số liệu GLONASS song vẫn có thể coi là cùng một bậc; - Độ lệch nội bộ giữa tọa độ xác định từ số liệu hai hệ không lớn và hầu như không liên quan tới khoảng cách. Tọa độ bình sai từ hai loại số liệu có thể coi là đồng nhất, ngoại trừ thành phần E của điểm COCO sai khác tới 21mm mà nguyên nhân có thể do số liệu GLONASS; - Độ lệch tọa độ xác định từ số liệu hai hệ thống so với tọa độ IGS theo từng chiều không gian cỡ một vài cm. Trong độ lệch này còn có các 65 sai khác do các tính toán của chúng ta chỉ từ 7 ca đo, so với tọa độ nhận được từ IGS (cũng như độ dài cạnh tính từ tọa độ này) là các giá trị được xác định từ các quan trắc với thời gian nhiều năm với nhiều điểm IGS. Bởi vậy, sai số tính từ số liệu GPS, GLONASS còn có thể khả quan hơn. 4. Kết luận Với tập hợp số liệu đủ lớn, đảm bảo chất lượng, xử lý bằng phần mềm tiên tiến theo quy trình chặt chẽ, với việc so sánh, phân tích theo độ dài cạnh và tọa độ có thể kết luận: - Trong điều kiện thu tín hiệu như nhau, trên quy mô không gian lớn, độ dài cạnh tính từ số liệu GPS có độ hội tụ tốt hơn, sai số trung phương nhỏ hơn so với độ dài cạnh tính từ số liệu GLONASS. - Là hệ quả của kết luận trên, tọa độ bình sai theo số liệu GPS có sai số trung phương nhỏ hơn so với sai số trung phương của tọa độ bình sai theo số liệu GLONASS. - Tuy vậy, liên quan tới kết quả cuối cùng là tọa độ sau bình sai có thể thấy, tọa độ bình sai từ số liệu hai hệ có thể coi là đồng nhất với sai khác tương đối nhỏ hơn 1/60.000.000. Từ các phân tích trên có thể thấy: - Số liệu GLONASS hoàn toàn có thể đáp ứng được các yêu cầu về độ chính xác đối với các ứng dụng trắc địa - bản đồ yêu cầu độ chính xác cao (thiết lập lưới khống chế quốc gia). - Các khảo sát trên mới chỉ dựa trên lưới có 4 điểm có khoảng cách lớn. Trong nghiên cứu địa động lực của các mảng thạch quyển, mật độ điểm trên không gian tương tự thường lớn hơn nhiều và đồ hình lưới chặt chẽ hơn, với vận tốc chuyển dịch tuyệt đối có độ lớn vài cm/năm, nên bên cạnh số liệu GPS, với quan điểm hết sức thận trọng vẫn có thể cho rằng, số liệu GLONASS có thể là công cụ hỗ trợ hiệu quả. Cuối cùng, việc khảo sát và bàn luận dựa trên cơ sở xử lý số liệu thực tế nhất định (từ 20 vệ tinh GLONASS), chỉ nên coi là các kết quả bước đầu. Hy vọng rằng, số liệu ở hiện trạng đủ 24 vệ tinh, khi hệ hoạt động theo chế độ đầy đủ (Full Operational Capability -FOC), kết quả có khả năng được cải thiện và GLONASS dần trở thành đối trọng độc lập, hiệu quả với các hệ vệ tinh dẫn đường toàn cầu (Global Navigation Satellite System - GNSS) khác. TÀI LIỆU DẪN [1] Alexei E. Zinoviev, Topcon Positioning Systems CIS, LLC, 2005: Using GLONASS in combined GNSS Receivers: Current Status. ION GNSS 18th International Technical Meeting of the Satellite Division, 13-16, Long Beach, CA. [2] M. P. Stewart, M. Tsakiri, J. Wang, and J. F. Monico, 2000: The contribution of GLONASS measurements to regional and continental scale geodetic monitoring regimes. Earth Planets Space, 52, 877-880. [3] Rolf Dach, Urs Hugentober, Peter Walser, 2008: Bernese GPS Software Version 5.0. Astronomical Institute, University of Bern. [4] Vy Quốc Hải, 2004: So sánh kết quả xử lý số liệu GPS của lưới địa động lực bằng phần mềm GPSurvey 2.35 và Bernese 4.2. Tạp chí Các Khoa học về Trái Đất, T.26, (4PC), Hà Nội, tr.418-425. [5] Vy Quốc Hải, 2010: Xử lý số liệu GLONASS phục vụ nghiên cứu địa động lực. Tạp chí Các Khoa học về Trái Đất, T.32, 4, Hà Nội, tr.343-347. SUMMARY Comparison of processed results of GPS and GLONASS data The GLONASS system that has grown over time, has met the geodetic and navigation applications. The signal of both GLONASS and GPS system has been collected by a new type of receiver at the same time. This has opened the ability to compare and analyze results of GLONASS and GPS data processing. On this occasion, the GPS data of seven daily sessions (in large spatial scales - the distance about 4500km) was processed separately GLONASS and GPS data with Bernese advanced software. Basing on comparison and analysis results, some conclusions can make: -Baseline computed from the GPS data is more accurate and reliable than the one from GLONASS data. -However, the coordinates adjusted from the two above types of data can be considered as homogeneous with relative difference better 1/60 000 000. 2

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf3039_10248_1_pb_1_8379_2107949.pdf
Tài liệu liên quan