- Vị trí chọc kim Tuohy: Trong nghiên cứu
của chúng tôi, đa số trường hợp chọc kim
Tuohy ở vị trí đốt sống thắt lưng L3-L4, chiếm
73 %. Trong nghiên cứu của tác giả Balki M. tất
cả 46 sản phụ được gây tê ngoài màng cứng tại
khe đốt sống L3-L4(2) và Grau T cũng đã thực
hiện chọc kim vị trí L3-L4 trên 53 sản phụ(8).
- Số lần thay đổi hướng kim: Trong nghiên
cứu của chúng tôi, việc gây tê lần đầu chính xác
mà không thay đổi hướng kim là 27 trường hợp
(chiếm 90%), trong khi có 3 trường hợp phải đổi
hướng kim một lần (chiếm 10%). Kết quả này là
khá cao và giống với các tác giả khác: Theo
Arzola C. khi có siêu âm hỗ trợ thì tỉ lệ xác định
chính xác điểm chọc kim là 91,8%, không phải
chọc lại lần hai là 73,8%(1). Grau T. ở nhóm
không có siêu âm hướng dẫn, tỉ lệ thành công
trong lần đầu tiên là 86%, trong khi ở sản phụ
được siêu âm hổ trợ, tỉ lệ thành công tăng lên
94%, sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê (p <
0,001)(9). Balki M. tỉ lệ không thay đổi hướng kim
là 76,1% khi sử dụng siêu âm hướng dẫn(2).
Karmalar M.K, xác định đúng khoang ngoài
màng cứng trong 1 lần chọc kim là 93,3%(11) và
Lee Y. nhận thấy thành công trong lần đầu là
76,1% và không thay đổi hướng kim là 67,4%(12).
- Ngoài ra, trong nghiên cứu của chúng tôi,
có 29/30 trường hợp gây tê thành công trong lần
chọc kim đầu tiên, chiếm 97%. Có 1 trường hợp
rút kim ra khỏi da và tiến hành chọc lại kim lại
lần 2 (3%). Tất cả các trường hợp gây tê ngoài
màng cứng đều đạt hiệu quả thành công, đáp
ứng nhu cầu giảm đau cho sản phụ trong quá
trình chuyển dạ.
6 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 28/01/2022 | Lượt xem: 208 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu So sánh khoảng cách từ da đến khoang ngoài màng cứng trên siêu âm cột sống và chiều dài thực tế kim tuohy, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 3 * 2011 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Gây Mê Hồi Sức 173
SO SÁNH KHOẢNG CÁCH TỪ DA ĐẾN KHOANG NGOÀI MÀNG CỨNG
TRÊN SIÊU ÂM CỘT SỐNG VÀ CHIỀU DÀI THỰC TẾ KIM TUOHY
Mã Thanh Tùng*, Trương Quốc Việt*, Nguyễn Văn Chừng**
TÓM TẮT
Mục tiêu: So sánh khoảng cách từ da đến khoang ngoài màng cứng trên mặt cắt ngang của siêu âm cột sống
thắt lưng so với độ dài thực tế của kim Tuohy khi tiến hành gây ngoài màng cứng để giảm đau cho sản phụ khi
vào chuyển dạ.
Phương pháp nghiên cứu: Ứng dụng lâm sàng trên 30 sản phụ.
Kết quả: Tuổi trung bình của sản phụ là 26,6 3,83 tuổi, chỉ số BMI trung bình là 20,48 1,42 kg/m2.
Khoảng cách từ da đến khoang ngoài màng cứng theo mặt cắt ngang của siêu âm cột sống thắt lưng là 3,76
0,39 cm, trong khi chiều dài thực tế trên kim Tuohy là 3,85 0,42 cm, không có sự khác biệt giữa khoảng cách từ
da đến khoang ngoài màng cứng trên siêu âm và chiều dài thực tế của kim gây tê với p > 0,05. Vị trí chọc kim tại
khe đốt sống L3-L4 chiếm 73%, tỉ lệ chọc kim thành công ngay lần đầu là 90%. Không có trường hợp nào xảy ra
tai biến thủng màng cứng, trong khi tụt huyết áp chiếm tỉ lệ thấp là 3%.
Kết luận: Không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa khoảng cách từ da đến khoang ngoài màng cứng
trên siêu âm và chiều dài thực tế của kim Tuohy. Đồng thời, siêu âm cột sống lưng theo mặt cắt ngang cung cấp
các chỉ số đáng tin cậy giúp ích cho việc thực hiện gây tê ngoài màng cứng ở sản phụ có yêu cầu giảm đau trong
khi chuyển dạ, tránh được nguy cơ đâm thủng màng cứng.
ABSTRACT
COMPARISON OF THE DISTANCE FROM SKIN TO EPIDURAL SPACE BETWEEN LUMBAR SPINE
ULTRASOUND IMAGING AND ACTUAL DEPTH OF TUOHY
Ma Thanh Tung, Trương Quoc Viet, Nguyen Van Chung
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 15 - Supplement of No 3 - 2011: 173 - 178
Background: Using the transverse approach of lumbar spine ultrasound to compare the distance from skin
to epidural space vesus the actual depth of Tuohy during labor epidurals.
Design: We examined 30 parturients with pre-epidural ultrasound in the transverse plane, and the predicted
depth was compared with the actual midline depth of Tuohy.
Results: The maternal age is 26.6 3.83 yr, pre-pregnancy BMI at delivery is 20.48 1.42 kg/m2. The mean
± SD of the depth from the skin to epidural space and the actual depth of Tuohy needle are 3.76 0.39 cm and
3.85 0.42 cm. There is no significantly difference between the depth from the skin to epidural space and the
actual needle distance measured with a 95% limit of agreement. The insertion point located at the level of L3-L4
with 73%, and the rate of successful first attempt is 90%. There is no case of dural puncture in the study.
Conclusions: There is no significantly difference between the depth from skin to epidural space and the
actual Tuohy needle. Ultrasound imaging of the lumbar spine is useful for doing epidural anesthesia in
parturients. Besides, the transverse approach lumbar ultrasound help to avoid the puncture of dural also.
* Bệnh viện Từ Dũ – TpHCM ** Đại học Y Dược Tp. HCM
Tác giả liên lạc: ThS. Mã Thanh Tùng, ĐT: 0983814919, Email: mathanhtung@yahoo.com
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 3 * 2011
Chuyên Đề Gây Mê Hồi Sức 174
MỞ ĐẦU
Gây tê ngoài màng cứng để giảm đau
trong chuyển dạ là phương pháp vô cảm
thường áp dụng vì mang lại hiệu quả giảm
đau tốt. Bằng cách luồn một catheter vào
khoang ngoài màng cứng qua kim Tuohy, sau
đó bơm một lượng hỗn hợp thuốc tê và thuốc
á phiện vào khoang ngoài màng cứng sẽ gây
ra sự ức chế dẫn truyền thần kinh chi phối
vùng tử cung, cổ tử cung và đường sinh dục
bắt nguồn từ đốt sống ngực 10 (T10) đến đốt
cùng 4 (S4). Hiệu quả giúp cho sản phụ giảm
bớt đau đớn khi chuyển dạ sinh. Với sự phát
triển ngày càng mạnh mẽ của y học nói chung
và của chuyên ngành Gây mê Hồi sức nói
riêng, việc ứng dụng các kỹ thuật vô cảm để
giúp sản phụ bớt đau khi chuyển dạ là một
bước tiến lớn, đăc biệt với phương pháp gây
tê ngoài màng cứng mang lại sự an toàn và
tạo sự thoải mái tối đa cho sản phụ là điều rất
quan trọng. Phương pháp gây tê ngoài màng
cứng hiện tại được áp dụng rộng rãi ở hầu hết
các bệnh viện trong cả nước. Tuy nhiên, việc
thực hiện gây tê ngoài màng cứng thành công
không phải lúc nào cũng thuận lợi và dễ
dàng, đặc biệt ở phụ nữ mang thai. Sự gia
tăng trọng lượng cơ thể cũng như có nhiều
mỡ ở vùng lưng, sản phụ bị phù, khe đốt
sống hẹp hơn, khoảng cách từ da đến khoang
ngoài màng cứng lớn hơn sẽ rất khó khăn cho
việc sờ nắn và xác định vị trí chọc kim Tuohy
cũng như ước lượng độ sâu từ da vào đến
khoang ngoài màng cứng(6). Với hình ảnh thực
tế mà siêu âm cung cấp, ta có thể biết rõ
khoảng cách cần thiết và xác định chính xác vị
trí chọc kim cũng như hướng đâm kim, đồng
thời giúp tránh được nguy cơ chọc thủng
màng cứng. Tại Bệnh viện Từ Dũ, bằng việc
áp dụng siêu âm cột sống thắt lưng theo mặt
cắt ngang trước khi tiến hành gây tê ngoài
màng cứng để giảm đau chuyển dạ, chúng tôi
so sánh khoảng cách từ da đến khoang ngoài
màng cứng trên siêu âm (Ultrasound depth =
UD) với độ dài thực tế của kim Tuohy (Needle
depth = ND), từ đó làm tiền đề cho những
nghiên cứu sâu hơn và mang lại sự an toàn
cũng như lợi ích cho sản phụ.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Thiết kế nghiên cứu
Ứng dụng lâm sàng.
Đối tượng nghiên cứu
Với 30 sản phụ yêu cầu được gây tê giảm
đau chuyển dạ. Các sản phụ được siêu âm cột
sống thắt lưng theo mặt cắt ngang bằng máy
siêu âm Medison Sonoace X4 với đầu dò cong
C3 - 7ED tại phòng thủ thuật trước khi tiến
hành gây tê ngoài màng cứng.
Tiêu chuẩn chọn mẫu
Các sản phụ có nhu cầu gây tê ngoài màng
cứng để giảm đau chuyển dạ.
Tiêu chuẩn loại trừ
- Nhau tiền đạo, nhau cài răng lược, thai
suy cấp, sản giật, hội chứng HELLP hoặc các
trường hợp ngôi bất thường tiên lượng không
sanh ngả ÂĐ được.
- Chống chỉ định với phương pháp gây tê
ngoài màng cứng.
- Sản phụ không đồng ý và không hợp tác.
Thu thập và xử lý số liệu
- Các dữ kiện được thu thập về tuổi, cân
nặng, chiều cao, chỉ số khối cơ thể (BMI =
Body Mass Index).
- Đo khoảng cách từ da đến khoang ngoài
màng cứng trên siêu âm (UD).
- Đo độ dài thực tế từ da đến khoang
ngoài màng cứng của kim Tuohy (ND).
- Vị trí chọc kim, số lần thay đổi hướng
kim, hiệu quả gây tê.
- Các tai biến sau gây tê ngoài màng cứng.
- Quản lý số liệu thống kê bằng phần mềm
Epi-data và Stata 10.0.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 3 * 2011 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Gây Mê Hồi Sức 175
KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN
Đặc tính chung của đối tượng nghiên cứu:
(n = 30)
Bảng 1: Các đặc tính của mẫu nghiên cứu
Đặc tính Tối thiểu Tối đa Trung bình
Tuổi 19 33 26,6 3,83
Cân nặng (kg) 42 62 49,67 4,43
Chiều cao (m) 1,45 1,63 1,56 0,04
BMI (kg/m2) 17,9 23,8 20,48 1,42
Trong nghiên cứu của chúng tôi, sản phụ có
tuổi nhỏ nhất là 19 tuổi, lớn nhất là 33 tuổi, độ
tuổi trung bình là 26,6 3,83; đây là độ tuổi sinh
đẻ của phụ nữ nói chung. Trong nghiên cứu của
Azola C. và cộng sự, tuổi sản phụ trung bình là
33 4,6 tuổi(1). Với tác giả Tran D. tuổi trung
bình sản phụ là 35 4 tuổi(16).
Cân nặng của sản phụ trước khi có thai
trong nghiên cứu trung bình là 49,67 4,43 kg,
trong đó cân nặng thấp nhất là 42 kg, cao nhất là
62 kg và chỉ số BMI trung bình là 20,48 1,42
kg/m2. Việc tăng cân là rất cần thiết trong thai
kỳ, phản ánh tình trạng sức khỏe và trọng lượng
của thai nhi khi sinh ra. Sự tăng cân trong thai
kỳ có liên quan đến chỉ số khối cơ thể. BMI
trước khi có thai càng cao hơn giới hạn bình
thường thì sản phụ càng có nhiều nguy cơ mắc
các bệnh kèm theo trong thai kỳ như cao huyết
áp, hội chứng tiền sản giật - sản giật, tiểu đường
trong thai kỳ, sanh non(10, 14) Theo nghiên cứu
của Bhattacharya S. và cộng sự đối với những
phụ nữ có BMI > 30 kg/m2 có nguy cơ bị tiền sản
giật cao hơn 3 - 7 lần so với sản phụ có BMI bình
thường (20 - 24,9 kg/m2), sản phụ béo phì có
nguy cơ phải mổ lấy thai cao hơn sản phụ bình
thường; trong khi đó, ở sản phụ có BMI < 20
kg/m2 ít có nguy cơ bị tiền sản giật và mổ lấy
thai hơn(3). Theo nghiên cứu của Azola C. chỉ số
BMI trung bình ở sản phụ trước sinh là 29,7 4,8
kg/m2(1); Tran D. và cộng sự là 29 7 kg/m2(16),
Grau T. cũng báo cáo BMI trước khi mang thai
là 24,7 7,1 kg/m2 và gần sinh là 29,2 6,5
kg/m2(7).
Khoảng cách từ da đến khoang ngoài màng
cứng trên siêu âm: (n=30)
Bảng 2: Khoảng cách từ da đến khoang ngoài cứng
trên siêu âm
Tối thiểu Tối đa Trung bình
Khoảng cách trên siêu âm
(cm) 2,88 4,75 3,76 0,39
Khoảng cách từ da vào đến khoang ngoài
màng cứng ở đốt sống thắt lưng đã được rất
nhiều tác giả nghiên cứu trên lâm sàng, trên
hình ảnh siêu âm và chụp cộng hưởng từ (MRI).
Ở đốt sống thắt lưng của sản phụ, khoảng cách
này trung bình là 5 cm (ở người châu Âu) và
thay đổi tùy theo nghiên cứu(5,8,9).
Theo nghiên cứu của chúng tôi, khoảng
cách từ da đến khoang ngoài màng cứng khi
đo trên siêu âm thấp nhất là 2,88 cm và cao
nhất là 4,75 cm, trung bình là 3,76 0,39 cm.
Theo nghiên cứu của Carvalho J.C.A trên
người châu Âu, khoảng cách này là 4,66 0,68
cm(4), theo Tran D. và cộng sự là 5,1 1,1
cm(16). Nếu so sánh với các kết quả trên thì chỉ
số của chúng tôi nhỏ hơn vì đối tượng nghiên
cứu trên hai chủng tộc khác nhau.
Năm 2008, Lee Y. và cộng sự nghiên cứu
trên 46 sản phụ béo phì với chỉ số BMI > 30
kg/m2 nhận thấy có sự khác biệt rõ rệt so với sản
phụ có BMI bình thường. Khoảng cách từ da
đến khoang ngoài màng cứng trên siêu âm ở sản
phụ béo phì là 6,3 ± 0,8 cm và 6,6 ± 0,98 cm thực
tế trên kim khi tiến hành gây tê(12). Tác giả Balki
M. và cộng sự nghiên cứu trên sản phụ béo phì
với BMI: 30 - 79 kg/m2 cho thấy khoảng cách từ
da đến khoang ngoài màng cứng là 6,3 0,8 cm
trên siêu âm và thực tế 6,6 1,0 cm trên kim
Tuohy(2).
Chiều dài thực tế của kim Tuohy: (n=30)
Bảng 3: Chiều dài thực tế của kim Tuohy
Tối thiểu Tối đa Trung bình
Chiều dài trên kim
Tuohy (cm) 3 4,8 3,85 0,42
Khi thực hiện gây tê ngoài màng cứng ở sản
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 3 * 2011
Chuyên Đề Gây Mê Hồi Sức 176
phụ, chúng tôi tiến hành đo khoảng cách thực tế
từ da vào đến khoang ngoài màng cứng trên
kim Tuohy. Sau khi hoàn tất việc luồn catheter
vào khoang ngoài màng cứng, chúng tôi đánh
dấu vị trí tiếp xúc với da của kim Tuohy, sau
khi rút kim ra tiến hành đo với thước có chia
khoảng centimet. Kết quả chiều dài thực tế
của kim gây tê ngắn nhất là 3 cm, dài nhất là
4,8 cm và trung bình là 3,85 0,42 cm. Kết quả
này ngắn hơn so với một số nghiên cứu khác
trên thế giới. Theo Carvalho J.C.A, khoảng
cách trên là 4,65 0,72 cm(4), với tác giả Tran
D. khoảng cách thực sự trên kim là 4,65 - 5,75
cm (16). Theo Grau T. khoảng cách trên ngắn
nhất là 4,95 0,81 cm và dài nhất là 5,36 0,85
cm, sau đó Grau T. cũng tiến hành dùng mặt
cắt siêu âm nghiên cứu khoảng cách từ da đến
khoang ngoài màng cứng trên phụ nữ không
mang thai, kết quả cho thấy ngắn nhất là 4,46
0,73 cm và dài nhất là 4,83 0,73 cm(7). Điều
này chứng tỏ, ở người mang thai khoảng cách
từ da vào đến khoang ngoài màng cứng lớn
hơn so với phụ nữ lúc không mang thai, hay
nói cách khác việc tăng cân và nhiều mô mỡ ở
vùng lưng sẽ làm gia tăng khoảng cách từ da
vào đến khoang ngoài màng cứng.
Mối tương quan giữa khoảng cách từ da đến khoang ngoài màng cứng trên siêu âm và độ
dài thực tế của kim Tuohy
3.
00
3.
50
4.
00
4.
50
5.
00
3.00 3.50 4.00 4.50 5.00
Khoang cach tu da den khoang NMC tren kim Tuohy
Khoang cach tu da den khoang NMC tren sieu am Fitted values
Biểu đồ: Mối tương quan giữa khoảng cách từ da đến khoang ngoài màng cứng trên siêu âm và độ dài thực tế
của kim Tuohy
Khi so sánh hai khoảng cách: từ da đến
khoang ngoài màng cứng trên siêu âm và
chiều dài thực tế của kim Tuohy, chúng tôi
nhận thấy không có sự khác biệt có ý nghĩa
thống kê với p > 0,05. Điều này chứng tỏ hai
khoảng cách này là tương đương nhau, mặc
dù xét về giải phẫu học lúc nào khoảng cách
từ da vào đến khoang ngoài màng cứng cũng
lớn hơn từ da đến dây chằng vàng.
Theo nghiên cứu của tác giả Tran D. và cộng
sự: khoảng cách từ da đến khoang ngoài màng
cứng đo trên mặt phẳng ngang của siêu âm có
mối tương quan chặt với khoảng cách thật sự
của kim tê khi thực hiện trên lâm sàng(16).
Trong một nghiên cứu của Arzola C. thực
hiện tại BV Mount Sinai - Canada với 61 sản
phụ, nhận thấy sự khác biệt giữa siêu âm và
độ sâu thực tế chọc kim là 0,01 ± 0,345 cm với
độ tin cậy 95%. Độ sâu xác định bởi siêu âm là
3,43 - 6,91 cm, nhưng thực tế khi chọc kim
Tuohy là 3,5 - 6,5 cm. Sự khác biệt giữa chiều
dài trên kim Tuohy và trên siêu âm là không
có ý nghĩa thống kê (p = 0,881)(1).
Lee Y. nhận thấy không có sự khác biệt giữa
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 3 * 2011 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Gây Mê Hồi Sức 177
khoảng cách trên siêu âm và chiều dài thật sự
của kim Tuohy với p = 0,845(12).
Một số vấn đề khác liên quan đến gây tê
ngoài màng cứng
Bảng 4: Một số vấn đề liên quan gây tê
Tần số Tỷ lệ %
Vị trí chọc kim:
L4-L5
L3-L4
8
22
27
73
Số lần thay đổi hướng kim:
0 lần 27 90
1 lần 3 10
Số lần chọc kim:
1 lần 29 97
2 lần 1 3
Hiệu quả gây tê:
Thành công 100 100
Thất bại 0 0
- Vị trí chọc kim Tuohy: Trong nghiên cứu
của chúng tôi, đa số trường hợp chọc kim
Tuohy ở vị trí đốt sống thắt lưng L3-L4, chiếm
73 %. Trong nghiên cứu của tác giả Balki M. tất
cả 46 sản phụ được gây tê ngoài màng cứng tại
khe đốt sống L3-L4(2) và Grau T cũng đã thực
hiện chọc kim vị trí L3-L4 trên 53 sản phụ(8).
- Số lần thay đổi hướng kim: Trong nghiên
cứu của chúng tôi, việc gây tê lần đầu chính xác
mà không thay đổi hướng kim là 27 trường hợp
(chiếm 90%), trong khi có 3 trường hợp phải đổi
hướng kim một lần (chiếm 10%). Kết quả này là
khá cao và giống với các tác giả khác: Theo
Arzola C. khi có siêu âm hỗ trợ thì tỉ lệ xác định
chính xác điểm chọc kim là 91,8%, không phải
chọc lại lần hai là 73,8%(1). Grau T. ở nhóm
không có siêu âm hướng dẫn, tỉ lệ thành công
trong lần đầu tiên là 86%, trong khi ở sản phụ
được siêu âm hổ trợ, tỉ lệ thành công tăng lên
94%, sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê (p <
0,001)(9). Balki M. tỉ lệ không thay đổi hướng kim
là 76,1% khi sử dụng siêu âm hướng dẫn(2).
Karmalar M.K, xác định đúng khoang ngoài
màng cứng trong 1 lần chọc kim là 93,3%(11) và
Lee Y. nhận thấy thành công trong lần đầu là
76,1% và không thay đổi hướng kim là 67,4%(12).
- Ngoài ra, trong nghiên cứu của chúng tôi,
có 29/30 trường hợp gây tê thành công trong lần
chọc kim đầu tiên, chiếm 97%. Có 1 trường hợp
rút kim ra khỏi da và tiến hành chọc lại kim lại
lần 2 (3%). Tất cả các trường hợp gây tê ngoài
màng cứng đều đạt hiệu quả thành công, đáp
ứng nhu cầu giảm đau cho sản phụ trong quá
trình chuyển dạ.
Tai biến gây tê
Bảng 5: Tai biến gây tê
Tai biến Tần số Tỷ lệ %
Không có 29 97
Tụt HA 1 3
Thủng màng cứng 0 0
Trong kết quả nghiên cứu, có 29 trường
hợp không xảy ra tai biến nào sau gây tê,
chiếm 97%, có 1 trường hợp tụt huyết áp, sau
khi được điều trị bằng thuốc co mạch huyết
áp trở lại ổn định (3%). Đặc biệt, không có
trường hợp nào xảy ra tai biến thủng màng
cứng. Điều này thật sự có ý nghĩa khi tiến
hành siêu âm xác định vị trí gây tê cũng như
tiên đoán khoảng cách từ da vào đến khoang
ngoài màng cứng, giúp cho người thực hiện
thủ thuật an tâm và tránh được nguy cơ thủng
màng cứng. Tác giả Karmalar M.K nhận thấy
không có tai biến thủng màng cứng hay các biến
chứng khác liên quan trực tiếp đến việc gây tê
khi có siêu âm hổ trợ gây tê ngoài màng cứng(11).
KẾT LUẬN
Việc đánh giá bằng siêu âm cột sống lưng
theo mặt cắt ngang sẽ cung cấp thông tin đáng
tin cậy giúp cho việc tiến hành gây tê ngoài
màng cứng ở sản phụ được thành công và tạo
cảm giác an toàn, thoải mái cho sản phụ khi
giảm đau trong chuyển dạ. Siêu âm giúp xác
định chính xác vị trí chọc kim, hướng xuyên kim
và ước lượng khoảng cách từ da đến khoang
ngoài màng cứng, từ đó có thể ước lượng
khoảng cách từ da đến khoang ngoài màng
cứng khi thực hiện chọc kim Tuohy, từ đó góp
phần tránh tai biến đâm thủng màng cứng.
Ngày nay, gây tê vùng được xem là tiêu chuẩn
vàng trong thực hành vô cảm trong sản khoa,
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 3 * 2011
Chuyên Đề Gây Mê Hồi Sức 178
đặc biệt khi có sự hổ trợ của siêu âm, càng làm
tăng hiệu quả gây tê và giảm đau. Đây là một
xu hướng mới, một sự đột phá trong thực hành
Gây mê hồi sức và có thể áp dụng vào trong
giảng dạy.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Arzola C, Davies S, Rofaeel A et al (2007). Ultrasound using the
transverse approach to the lumbar spine provides reliable
landmarks for labor epidurals. Anesth Analg, 104: 1188-1192.
2. Balki M, Lee Y, Halpern S, Carvalho J.C.A (2009). Ultrasound
imaging of the lumbar spine in the transverse plane: the
correlation between estimated and actual depth to the epidural
space in obese parturients. Anesth Analg, 108 (6):1876-1881.
3. Bhattacharya S, Campbell D.M et al (2007). Effect of Body Mass
Index on pregnancy outcomes in nulliparous women delivering
singleton babies. BMC Public Health, 7: 168-175.
4. Carvalho J.C.A (2008). Ultrasound - facilitated epidurals and
spinals in obstetrics. Anesthesiology Clin, 26: 145-158.
5. Costello J.F, Balki M (2008). Cesarean delivery under ultrasound
- guided spinal anesthesia in a parturient with poliomyelitis and
Harrington instrumentation. Canadian Journal of Anesthesia, 55:
606-611.
6. Currie JM (1984). Measurement of the depth to the extradural
space using ultrasound. Br J Anaesth, 56 (4): 345-347.
7. Grau T, Leipold R.W, Horter J et al (2001). The lumbar epidural
space in pregnancy: visualization by ultrasonography. Br J
Anaesth, 86: 798-804.
8. Grau T, Leipold R.W, Conradi R et al (2002). Efficacy of
ultrasound imaging in obstetric epidural anesthesia. J Clin
Anesth, 14: 169-175.
9. Grau T, Bartusseck E et al (2003). Ultrasound imaging improves
learning curves in obsteric epidural anesthesia: a preliminary
study. Can J Anaesth, 50: 1047-1450.
10. Hopkins P.M (2007). Ultrasound guidaince as a gold standard in
regional anesthesia. Br J Anesth, 98 (3): 299-301.
11. Karmakar M.K et al (2009). Real-time ultrasound guided
paramedian epidural access of a novel in-plane technique. Br J
Anesth, 102 (6): 845-854.
12. Lee Y, Balki M. et al (2008). Spine ultrasound for facilitating labor
epidurals in obese parturients. Canadian Journal of Anesthesia, 55:
475-476.
13. Lee Y, Tanaka M, Carvalho J.C.A (2008). Sonoanatomy of the
lumbar spine in patients with previous unintentional dural
punctures during labor epidurals. Reg Anesth Pain Med, 33 (3):
266-270.
14. McCartney C.J.L (2007). Ultrasound guidance fo regional
anaesthesia. BJA, 99 (1): 139-147.
15. Prasad G.A, Tumber P.S, Lupu C.M (2008). Ultrasound guided
spinal anesthesia. Can J Anaesth, 55: 716-717.
16. Tran D, Kamani A.A et al (2009). Preinsertion paramedian
ultrasound guidance for epidural anesthesia. Anesth Analg, 109
(2): 661-667.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- so_sanh_khoang_cach_tu_da_den_khoang_ngoai_mang_cung_tren_si.pdf