Thành phần tinh dầu của hạt tiêu
Kết quả phân tích cho thấy, một số thành phần
tinh dầu chính trong hạt tiêu của tiêu vùng Cùa,
Quảng Trị có xu hướng cao hơn so với mẫu tiêu Phú
Quốc (Bảng 3). Thành phần trans-Caryophyllene là
thành phần chính có trong tinh dầu hạt tiêu chiếm
lần lượt là 32,85% và 28,03%. Trans-Caryophyllene
đã được chứng minh là một chất có hoạt tính sinh
học cao, có tác dụng kháng khuẩn tốt. Ngoài ra còn
có tác dụng giải stress, chống trầm cảm và giải rượu
(Pinho-da-Silva L. et al., 2012).
Limonene chiếm tỉ lệ 11,47% trong mẫu tiêu Phú
Quốc, và 14,45% trong mẫu tiêu Cùa, Quảng Trị.
Limonene hoạt động ngăn ngừa ung thư và kháng
u và các chất chuyển hóa của nó axit perillic, axit
dihydroperillic, uroterpenol và limonene 1,2-diol có
thể ức chế sự phát triển khối u (Alan D. et al., 2012).
Thành phần Sabinene trong mẫu tiêu Cùa chiếm
8,51% và mẫu tiêu Phú Quốc là 7,44%. Trong khi đó,
thành phần δ-3-Carene trong mẫu tiêu Phú Quốc cao
hơn so với mẫu tiêu Quảng Trị, lần lượt là 12,03% và
8,87%. Theo nghiên cứu của Nguyễn Thanh Huệ và
cộng tác viên (2012), hàm lượng trans-Caryophyllene
trong mẫu tiêu thu mua tại Cần Thơ chiếm cao
nhất, 27,03%, tiếp đến là Limonene, chiếm 15,47%
và d-3-Carene chiếm 14,03 % trong mẫu tiêu
phân tích.
Kết quả nghiên cứu Phan Nhật Minh và cộng tác
viên (2006) cho thấy của β-Caryophyllene (20,31%),
chiếm tỉ lệ cao nhất trong thành phần tinh dầu của
tiêu Chư sê, Gia Lai. Trong khi đó, mẫu tiêu Phú
Quốc và Cùa chỉ có đồng phân α-Caryophyllene với
tỉ lệ lần lượt là 1,88% và 1,52%. So sánh thành phần
β-Pinene, cho thấy mẫu tiêu từ Phú Quốc và Cùa
cao hơn so với mẫu tiêu của vùng Chư Sê, tỉnh Gia
Lai (1,86%).
Kết quả phân tích thành phần tinh dầu này cho
thấy, sự khác biệt về vùng trồng có thể dẫn đến sự
khác biệt về thành phần và tỉ lệ giữa các thành phần
tinh dầu. Sự khác biệt về hàm lượng các loại tinh dầu
sẽ ảnh hưởng đến giá trị của hạt tiêu.
5 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 1 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu So sánh một số chỉ tiêu hóa lý và thành phần hóa học trên mẫu hạt tiêu đen từ Phú Quốc và Cùa, Quảng Trị, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
15
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 5(114)/2020
duration in the ecological regions of the Red River Delta on the basis of 1500 kg HCVS + 70 kg P2O5 + 70 kg K2O
is as follows: 70 - 80 Agrotain 46A+ (Hai Duong, Thai Binh); 80 - 90 Agrotain 46A+ (Nam Đinh); 90 Agrotain 46A+
(Ha Noi). The results of this study suggest that the appropriate amount of slow-release nitrogen fertilizer for rice
production in the ecological sub-regions of the RRD will ensure productivity while reducing fertilizer, improving
production efficiency and protecting the environment.
Keywords: Rice (Oryza sativa L.), soil, fertilizer, Agrotein 46A+
Ngày nhận bài: 28/4/2020
Ngày phản biện: 9/5/2020
Người phản biện: PGS. TS. Nguyễn Trí Hoàn
Ngày duyệt đăng: 20/5/2020
1 Viện Công nghệ Sinh học và Công nghệ Thực phẩm, Trường Đại học Bách Khoa Hà Nội
SO SÁNH MỘT SỐ CHỈ TIÊU HÓA LÝ VÀ THÀNH PHẦN HÓA HỌC
TRÊN MẪU HẠT TIÊU ĐEN TỪ PHÚ QUỐC VÀ CÙA, QUẢNG TRỊ
Hoàng Quốc Tuấn, Phạm Ngọc Hưng
TÓM TẮT
Mục đích chính của nghiên cứu này là so sánh một số chỉ tiêu hóa lý, thành phần chất béo và tinh dầu của mẫu
tiêu đến từ hai vùng Phú Quốc và Cùa, Quảng Trị. Kết quả phân tích cho thấy có sự khác biệt về thành phần hóa
lý, chất béo và tinh dầu của mẫu tiêu giữa hai vùng. Trong đó, hàm lượng một số thành phần tinh dầu chính như
trans-Caryophyllene của mẫu tiêu Cùa, Quảng Trị (32,85%) có xu hướng cao hơn so với mẫu tiêu Phú Quốc (28,03%).
Hàm lượng chất béo trong mẫu tiêu Cùa, Quảng Trị (6,92 mg/g) thấp hơn so với mẫu tiêu Phú Quốc (11,22 mg/g).
Các chỉ tiêu hóa lý như protein, hàm lượng tro, độ ẩm không có sự khác biệt giữa các mẫu. Chỉ số LAB cho thấy màu
sắc tiêu Cùa (L*a*b: 3,99*1,35*1,97) có xu hướng sáng hơn so với tiêu Phú Quốc (L*a*b: 2,28*1,37*1,54).
Từ khóa: Tiêu đen, tinh dầu, chất béo, Phú Quốc, Cùa
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Hồ tiêu (Piper Nigrum L.) là cây công nghiệp dài
ngày, có giá trị kinh tế và giá trị xuất khẩu cao, hằng
năm đem lại nguồn thu ngoại tệ lớn cho nước ta.
Hạt tiêu là một loại gia vị được yêu thích trên toàn
thế giới. Các số liệu thống kê cho thấy, Việt Nam là
quốc gia xuất khẩu tiêu hàng đầu thế giới. Sự phát
triển của các vùng hồ tiêu trong những năm qua
đã đóng góp rất lớn vào quá trình phát triển kinh
tế xã hội của khu vực nông thôn có diện tích canh
tác tiêu, cải thiện đáng kể đời sống của người dân
(Hiệp hội Hồ tiêu Việt Nam, 2020). Ở nước ta, cây
hồ tiêu được trồng chủ yếu ở các tỉnh miền Trung,
Tây Nguyên và Nam Bộ. Kết quả điều tra cho thấy
các giống tiêu được trồng nhiều ở Đông Nam Bộ
chủ yếu là giống Vĩnh Linh, một diện tích nhỏ trồng
giống tiêu Sẻ, tiêu Trung, tiêu Ấn Độ, còn sót lại một
vài vườn trồng giống Lada Belangtoeng xen với các
giống khác. Ở Phú Quốc phần lớn diện tích trồng
giống tiêu Phú Quốc và giống tiêu Hà Tiên. Ở khu
vực Tây Nguyên phổ biến là giống tiêu Vĩnh Linh,
ở các vườn tiêu già còn một vài vườn trồng các
giống Sẻ Mỡ, Sẻ Lộc Ninh, tiêu Trung, tiêu Trâu,
tiêu Tiên Sơn, Lada Belangtoeng, giống tiêu Ấn
Độ chỉ mới được đưa vào trồng thử trong vài năm
gần đây. Ở Quảng Trị chủ yếu giống tiêu Vĩnh Linh
và giống tiêu Sẻ (tiêu Cùa) (Nguyễn Tăng Tôn và
ctv., 2016). Tuy nhiên, do sự khác biệt về điều kiện
địa lý và phương thức canh tác nên dẫn đến chất
lượng và thành phần hóa học của tiêu ở các vùng
trồng có sự khác biệt. Do đó, trong nghiên cứu này,
chúng tôi tiến hành nghiên cứu đánh giá sự khác
biệt về thành phần hóa học của tiêu đến từ hai
vùng tiêu đã có chỉ dẫn địa lý và có thương hiệu.
II. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Vật liệu nghiên cứu
Mẫu tiêu đen từ vùng tiêu Phú Quốc và tiêu Cùa
Quảng Trị.
2.2. Phương pháp nghiên cứu
2.2.1. Phương pháp lấy và chuẩn bị mẫu
Mẫu được lựa chọn ngẫu nhiên tại 03 vườn tiêu
trên mỗi địa phương. Tại mỗi địa phương được trộn
lẫn làm mẫu chung để phân tích. Mẫu được thu tập
tại vườn tiêu từ tháng 2 tại Phú Quốc và tháng 6 tại
Quảng Trị. Mẫu tiêu được chế biến theo phương
pháp phơi sấy thủ công.
16
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 5(114)/2020
2.2.2. Phương pháp phân tích các chỉ tiêu
- Xác định protein tổng số bằng phương pháp
Kendal.
- Xác định hàm lượng tro không tan trong axít
theo TCVN 5484:2002 (ISO 930:1997).
- Xác định hàm lượng tro tổng số theo TCVN
7038:2002 (ISO 928:1997).
- Thông số CIE LAB được xác định bằng thông
số đo màu của máy quang phổ đo màu sắc ColorLite
SPH 860 (ColorLite/ Đức).
- Chất béo hạt tiêu được thu nhận bằng Shoxlet
và phân tích bằng GC/MS. Cột SPB - 5MS (30 m
˟ 0,32 mm ˟ 0,25 μm). Chương trình nhiệt: nhiệt
độ đầu 100oC; giữ trong 1 phút, tăng 20oC/phút lên
180oC; giữ 1 phút, tăng 2oC/phút lên 250oC; giữ nhiệt
độ này trong 1 phút (Al-Jasass FM and Al-Jasser MS,
2012).
- Chưng cất tinh dầu theo phương pháp Clevenger.
Thành phần tinh dầu được phân tích bằng thiết bị
GC/MS. Cột SPB - 5MS (30 m ˟ 0,32 mm ˟ 0,25 μm).
Chương trình nhiệt: nhiệt độ đầu 40oC; giữ trong
5 phút, tăng 10oC/phút lên 250oC; giữ ở nhiệt độ cuối
cùng này trong 1 phút. Điều kiện MS: ion hóa mẫu ở
thế ion hóa 70 ev, nhiệt độ duy trì 250o C, khí mang
là He tốc độ 0,5 ml/ phút, tốc độ chia dòng 1 : 50
(Henryk, H.J. et al., 2015).
2.3. Thời gian và địa điểm nghiên cứu
Nghiên cứu được thực hiện từ tháng 02 đến
tháng 6 năm 2019 tại Đại học Bách Khoa Hà Nội.
III. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
3.1. Các chỉ tiêu hóa lý của tiêu
Kết quả phân tích cho thấy giá trị độ ẩm của hai
mẫu đều nằm trong giới hạn cho phép theo TCVN
7036 : 2008 và không có sự khác biệt giữa mẫu tiêu
Cùa và Phú Quốc, lần lượt là 11,83% và 11,40%.
Kết quả (bảng 1) cho thấy hàm lượng tro tổng
trong hai mẫu tiêu Cùa và tiêu đen Phú Quốc không
có khác biệt nhiều, lần lượt là 4,53% và 4,51%. Theo
nghiên cứu của Sruthy và cộng tác viên (2013), cho
thấy hàm lượng tro của mẫu tiêu của một số vùng
như Kasagarod (5,09%,), Peruvannamuzhi (4,17%)
và Pechiparai (3,43%) không có sự khác biệt với mẫu
tiêu được phân tích.
Bảng 1. Chỉ tiêu hóa lý của tiêu đen Phú Quốc và Cùa, Quảng Trị
Mẫu tiêu Độ ẩm (%)
Hàm lượng
tro tổng (%)
Hàm lượng
tro không
tan trong
axit (%)
Protein
tổng số
Chỉ số độ màu LAB
L* a* b*
Tiêu Phú
Quốc 11,40 4,51 0,9 5,60 2,28 1,37 1,54
Tiêu Cùa 11,83 4,53 0,45 6,07 3,99 1,35 1,97
Ghi chú: * Thí nghiệm lặp 03 lần.
Hình 1. Sắc ký đồ của tinh dầu hạt tiêu đen
17
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 5(114)/2020
Hàm lượng tro không tan trong axit phân tích
từ mẫu tiêu Cùa và tiêu đen Phú Quốc lần lượt là
0,45% và 0,9%. Tro không tan trong axit là những
chất bẩn (đất, cát) lẫn trong nguyên liệu và không
tan trong axit HCl. Kết quả nghiên cứu này cho
thấy, hàm lượng tro không tan trong axit của mẫu
nghiên cứu cao hơn nhiều lần so với một số mẫu
tiêu đến từ các vùng khác nhau của Ấn Độ, như
Kasagarod là 0,13%, ở Peruvannamuzhi là 0,16%.
(Sruthi et al., 2013).
Kết quả phân tích cho thấy, hàm lượng protein
trong mẫu tiêu Cùa và Phú Quốc không có sự khác
biệt lớn (Bảng 1). So với mẫu tiêu của Ấn Độ (từ
8,23 - 9,00%) mẫu tiêu Cùa và Phú Quốc có hàm
lượng protein thấp hơn (Sruthi et al., 2013).
Kết quả nghiên cứu cho thấy các giá trị trung
bình L*, a*, b* của tiêu Cùa đều lớn hơn của tiêu
đen Phú Quốc. Theo phân bố màu trong không gian
LAB, cho thấy màu sắc tiêu Cùa có xu hướng sáng
hơn so với tiêu Phú Quốc. Kết quả này có thể tham
khảo để phát triển phương pháp phân biệt nguồn
ngốc của hạt tiêu dựa trên mã màu sắc.
3.2. Thành phần chất béo của hạt tiêu
Kết quả nghiên cứu cho thấy có có sự khác biệt
về thành phần và hàm lượng axit béo trong hai mẫu
tiêu Cùa Quảng Trị và tiêu đen Phú Quốc. Hàm
lượng axit Panmitic trong mẫu tiêu đen Phú Quốc
(3,11 mg/g) lớn gấp 1,62 lần so với mẫu tiêu Cùa
(1,92 mg/g). Hàm lượng axit margaric không có
trong tiêu Cùa nhưng có trong tiêu đen Phú Quốc
với hàm lượng thấp 0,42 mg/g.
Hình 2. Sắc ký đồ chất béo của hạt tiêu đen
Hàm lượng axit stearic trong mẫu tiêu đen Phú
Quốc (0,25 mg/g) cao gấp 1,9 lần so với mẫu tiêu
Cùa (0,13 mg/g). Tổng hàm lượng axit béo no trong
mẫu tiêu Cùa Quảng Trị là (2,06 mg/g), trong mẫu
tiêu đen Phú Quốc (3,78 mg/g). Đối với axit béo
không no, kết quả phân tích cho thấy, hàm lượng
axit α–linoleic trong mẫu tiêu đen Phú Quốc là
(1,31 mg/g) gấp 1,6 lần so với mẫu tiêu Cùa Quảng
Trị (0,88 mg/g). Hàm lượng axit linoleic trong mẫu
tiêu đen Phú Quốc (4,44 mg/g) gấp 1,44 lần so với
tiêu Cùa Quảng Trị. Hàm lượng axit oleic trong tiêu
Phú Quốc (1,69 mg/g) gấp 1,9 lần so với tiêu Cùa
Quảng Trị. Như vậy tổng hàm lượng axit béo không
no trong tiêu đen Phú Quốc (7,42 mg/g) lớn hơn
gấp 1,5 lần so với tiêu Cùa (4,87 mg/g). Trong khi
đó, tổng hàm lượng axit béo no trong mẫu tiêu Cùa
Quảng Trị là (2,06 mg/g), trong mẫu tiêu đen Phú
Quốc (3,78 mg/g).
Bảng 2. Thành phần chất béo trong mẫu tiêu đen
STT Tên thành phần
Hàm lượng (mg/g)
Tiêu đen
Quảng Trị
Tiêu đen
Phú Quốc
1 Panmitic 1,92 3,11
2 Margaric 0,00 0,42
3 Stearic 0,13 0,25
4 α-Linoleic(ALA) 0,88 1,31
5 Linoleic(LA) 3,09 4,44
6 Oleic 0,90 1,69
Tổng 6,92 11,22
So với kết quả nghiên cứu Tiêu Ấn Độ cho
thấy tiêu đen Quảng trị thấp hơn và tiêu Phú quốc
cao hơn đối với hàm lượng axit béo tổng của các
vùng Kasagarod 10,34 mg/g; ở Peruvannamuzhi là
10,02 mg/g; ở Pechiparai là 8,88 mg/g (Dr. J. Pion
et al., 1990).
R
el
at
iv
e
A
bu
nd
an
ce
18
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 5(114)/2020
3.3. Thành phần tinh dầu của hạt tiêu
Kết quả phân tích cho thấy, một số thành phần
tinh dầu chính trong hạt tiêu của tiêu vùng Cùa,
Quảng Trị có xu hướng cao hơn so với mẫu tiêu Phú
Quốc (Bảng 3). Thành phần trans-Caryophyllene là
thành phần chính có trong tinh dầu hạt tiêu chiếm
lần lượt là 32,85% và 28,03%. Trans-Caryophyllene
đã được chứng minh là một chất có hoạt tính sinh
học cao, có tác dụng kháng khuẩn tốt. Ngoài ra còn
có tác dụng giải stress, chống trầm cảm và giải rượu
(Pinho-da-Silva L. et al., 2012).
Limonene chiếm tỉ lệ 11,47% trong mẫu tiêu Phú
Quốc, và 14,45% trong mẫu tiêu Cùa, Quảng Trị.
Limonene hoạt động ngăn ngừa ung thư và kháng
u và các chất chuyển hóa của nó axit perillic, axit
dihydroperillic, uroterpenol và limonene 1,2-diol có
thể ức chế sự phát triển khối u (Alan D. et al., 2012).
Bảng 3. Thành phần tinh dầu trong hạt tiêu
STT Thành phần Phú Quốc (%)
Cùa,
Quảng Trị
(%)
1 α-Thujene 1,32 1,01
2 α-Pinene 3,35 4,04
3 Sabinene 7,44 8,51
4 β-Pinene 6,66 5,69
5 β-Myrcene 2,22 1,11
6 α-Phellandrene 2,47 2,22
7 δ-3-Carene 12,03 8,87
8 α-Terpinene 0,88 1,12
9 p-Cymene 0,89 0,44
10 β-Phellandrene 1,69 1,45
11 Limonene 11,47 14,45
12 γ-Terpinene 0,88 1,21
13 trans-Sabinene hydrate 0,12 0,19
14 Linalool 0,59 0,69
15 δ-Elemene 1,21 0,48
16 β-Elemene 1,25 0,88
18 trans-Caryophyllene 28,03 32,85
19 α-Caryophyllene 1,88 1,52
20 Germacrene D 0,28 0,41
21 β-Selinene 1,52 1,11
22 α-Selinene 1,46 1,05
Ghi chú: Thành phần tính theo % diện tích sắc ký đồ.
Thành phần Sabinene trong mẫu tiêu Cùa chiếm
8,51% và mẫu tiêu Phú Quốc là 7,44%. Trong khi đó,
thành phần δ-3-Carene trong mẫu tiêu Phú Quốc cao
hơn so với mẫu tiêu Quảng Trị, lần lượt là 12,03% và
8,87%. Theo nghiên cứu của Nguyễn Thanh Huệ và
cộng tác viên (2012), hàm lượng trans-Caryophyllene
trong mẫu tiêu thu mua tại Cần Thơ chiếm cao
nhất, 27,03%, tiếp đến là Limonene, chiếm 15,47%
và d-3-Carene chiếm 14,03 % trong mẫu tiêu
phân tích.
Kết quả nghiên cứu Phan Nhật Minh và cộng tác
viên (2006) cho thấy của β-Caryophyllene (20,31%),
chiếm tỉ lệ cao nhất trong thành phần tinh dầu của
tiêu Chư sê, Gia Lai. Trong khi đó, mẫu tiêu Phú
Quốc và Cùa chỉ có đồng phân α-Caryophyllene với
tỉ lệ lần lượt là 1,88% và 1,52%. So sánh thành phần
β-Pinene, cho thấy mẫu tiêu từ Phú Quốc và Cùa
cao hơn so với mẫu tiêu của vùng Chư Sê, tỉnh Gia
Lai (1,86%).
Kết quả phân tích thành phần tinh dầu này cho
thấy, sự khác biệt về vùng trồng có thể dẫn đến sự
khác biệt về thành phần và tỉ lệ giữa các thành phần
tinh dầu. Sự khác biệt về hàm lượng các loại tinh dầu
sẽ ảnh hưởng đến giá trị của hạt tiêu.
IV. KẾT LUẬN
Nghiên cứu bước đầu cho thấy có sự khác biệt
giữa mẫu tiêu của hai vùng này. Trong đó, kết quả
phân tích cho thấy, một số thành phần tinh dầu
chính trong hạt tiêu của tiêu vùng Cùa, Quảng Trị
(Sabinene, 8,51%; Limonene, 14,45%) có xu hướng
cao hơn so với mẫu tiêu Phú Quốc (Sabinene, 7,44%;
Limonene, 11,47%). Hàm lượng chất béo trong mẫu
tiêu Cùa, Quảng Trị (6,92 mg/g) thấp hơn so với mẫu
tiêu Phú Quốc (11,22 mg/g). Các chỉ tiêu hóa lý như
protein, hàm lượng tro, độ ẩm không có sự khác biệt
giữa các mẫu. Chỉ số LAB cho thấy màu sắc tiêu Cùa
(L*a*b: 3,99*1,35*1,97) có xu hướng sáng hơn so với
tiêu Phú Quốc (L*a*b: 2,28*1,37*1,54). Các thông
tin về sự khác biệt giữa các mẫu có thể sử dụng tham
khảo để xác thực xuất xứ của sản phẩm.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Hiệp hội Hồ tiêu Việt Nam, 2020. Báo cáo thị trường hồ
tiêu 2019 & dự đoán 2020, ngày truy cập 21/02/2020.
Địa chỉ:
Nguyễn Thanh Huệ, Trịnh Minh Khang, Nguyễn Tấn
Hoàng Sơn và Nguyễn Thị Bích Thuyền, 2012.
Khảo sát thành phần hóa học và hoạt tính kháng
vi sinh vật của tinh dầu gừng (zingiber officinale
roscoe) và tinh dầu tiêu Piper nigrum L.). Tạp chí
Khoa học - Trường Đại học Cần Thơ, 21a 139-143.
19
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 5(114)/2020
Phan Nhật Minh, Mai Thành Chí, Phùng Văn Trung,
Bùi Trọng Đạt và Nguyễn Ngọc Hạnh, 2006. khảo
sát thành phần hóa học của tinh dầu tiêu (Piper
nigrum L.) chiết xuất bằng phương pháp carbon
dioxide lỏng siêu tới hạn. Tạp chí Khoa học - Trường
Đại học Cần Thơ. 2006: 6, 97-102
TCVN 5484:2002. Tiêu chuẩn Việt Nam về Gia vị - Xác
định tro không tan trong axit.
TCVN 7036:2008. Tiêu chuẩn Việt Nam về Hạt tiêu
đen (Piper nigrum L.). Quy định kỹ thuật.
TCVN 7038:2002. Tiêu chuẩn Việt Nam Gia vị & Xác
định tro tổng số.
Nguyễn Tăng Tôn và ctv., 2016. Giống hồ tiêu, ngày truy
cập 29-04-2016. Địa chỉ:
muc/Giong-Ho-Tieu-8195.html.
Al-Jasass FM, Al-Jasser MS., 2012. Chemical
composition and fatty acid content of some spices
and herbs under Saudi Arabia conditions. Scientific
World Journal, 2012:859892, 1-5.
Alan D. Kaye MD, Adam M. Kaye PharmD, Mineral,
Vitamin, and Herbal Supplements, 2012. FASCP,
FCpha, in Anesthesia and Uncommon Diseases
(Sixth Edition).
Henryk, H.J., Anna, G., 2015. Analysis of black
pepper volatiles by solid phase microextraction–gas
chromatography: A comparison of terpenes profiles
with hydrodistillation. J. Chromatogr. A, 1418:
200-209.
Pinho-da-Silva L1, Mendes-Maia PV, Teófilo
TM, Barbosa R, Ceccatto VM, Coelho-de-Souza
AN, Santos Cruz J, Leal-Cardoso JH., 2012. Trans-
Caryophyllene, a natural sesquiterpene, causes
tracheal smooth muscle relaxation through blockade of
voltage-dependent Ca²+ channels. Molecules, 17 (10):
11965-11977.
Pion J., Rodriguez-Feo G., Borges P., Rosado A.,
1990, Chemistry and sensory properties of black
pepper oil (Piper nigrum L.). J. Food/Nahrung, 34 (6):
555-560.
Sruthi D., T. John Zachariah, N. K. Leela and K.
Jayarajan, 2013. Correlation between chemical profiles
of black pepper (Piper nigrum L.) var. Panniyur-1
collected from different locations. Journal of Medicinal
Plants Research, Vol. 7(31), pp. 2349-2357.
Comparison of physicochemical parameters and chemical composition
of black peppers from Phu Quoc and from Cua, Quang Tri province
Hoang Quoc Tuan, Pham Ngoc Hung
Abstract
The main purpose of this study was to compare some physicochemical parameters, fat and essential oil in samples
of pepper from two regions of Phu Quoc and Cua, Quang Tri province. The analytical results showed that there are
differences in physicochemical parameters, fat and essential oil of two pepper samples. In particular, the content of
some main essential oil components such as trans-Caryophyllene of Cua, Quang Tri samples (32.85%) tended to be
higher than that of Phu Quoc (28.03%). The fat content in the pepper sample of Cua (6,92 mg/g) was lower than that
of Phu Quoc (11,22 mg/g). Physicochemical parameters such as protein, ash content, humidity had no differences
between two samples. LAB index showed that the color of Cua pepper (L*a*b: 3,99*1,35*1,97) tended to be brighter
than Phu Quoc pepper (L*a*b: 2,28*1,37*1,54).
Keywords: Black pepper, fat, essential oil, Phu Quoc, Cua
Ngày nhận bài: 28/4/2020
Ngày phản biện: 11/5/2020
Người phản biện: TS. Phan Thanh Bình
Ngày duyệt đăng: 20/5/2020
1 Viện Nghiên cứu Bông và Phát triển Nông nghiệp Nha Hố
ĐÁNH GIÁ, CHỌN LỌC CÁC GIỐNG MĂNG TÂY MỚI NHẬP NỘI
TẠI NINH THUẬN
Nguyễn Văn Sơn1, Trần Thị Thảo1, Phan Công Kiên1,
Trịnh Thị Vân Anh1, Võ Thị Xuân Trang1, Vũ Thị Dung1
TÓM TẮT
Đánh giá khả năng sinh trưởng và năng suất măng của 10 giống măng tây mới nhập nội từ Mỹ, Hà Lan, Đức và
Thái Lan tại Ninh Thuận từ tháng 9 năm 2018 đến tháng 2 năm 2020. Thí nghiệm được bố trí theo phương pháp khối
đầy đủ ngẫu nhiên (CRBD), lặp lại 3 lần. Kết quả cho thấy đã chọn được 2 giống có năng suất cao và thích nghi với
Các file đính kèm theo tài liệu này:
so_sanh_mot_so_chi_tieu_hoa_ly_va_thanh_phan_hoa_hoc_tren_ma.pdf