Những ưu điểm của phương pháp nạo VA
bằng Coblator (điện cực cải tiến) kết hợp
nội soi qua mũi so với các phương pháp
kinh điển khác
Cải tiến được tầm nhìn
Nội soi qua mũi cho phép quan sát trực diện,
cận cảnh và phóng đại những vùng phẫu trường
kín như vùng họng mũi mà không thể hoặc thấy
không rõ bằng đèn Clar hoặc gương trán thậm
chí là nội soi qua miệng.
Ít mất máu
Coblator cũng là hệ thống phẫu thuật điện
nên nó vừa cắt vừa cầm máu nên không gây mất
máu nhiều như trường hợp nạo bằng Moure,
Laforce, microdebrider (Elluru RG 2002; Koltai
PJ 2002; Stanislaw P Jr 2000)(1,2,8).
Ít tổn thương mô lành xung quanh
Hệ thống coblator cắt đốt ở nhiệt độ thấp
nên không gây tổn thương mô lành xung quanh
như dao cắt đơn cực. Do đặc điểm cấu tạo của
điện cực coblator có hệ thống tưới nước và hút
đồng thời nên khi mô VA bị phân cắt ra sẽ được
hút đi ngay cùng với nước tạo hiệu quả giống
như cắt bằng microdebrider nhưng không gây
mất nhiều máu. Và cũng không gây tắc ống như
trong trường hợp dùng ống hút điện đơn cực.
Phẫu thuật viên chủ động vừa cắt, vừa hút
không phụ thuộc vào sự phối hợp nhịp nhàng
của người phụ.
Tuy nhiên do cấu tạo của điện cực Evac 70
thẳng và to nên nếu đưa qua đường miệng thì
không thể đưa đầu điện cực đến tất cả các vùng
VA cần nạo nhất là đối với những trường hợp có
eo họng hẹp, khẩu cái mềm dài. Còn nếu đưa
qua đường mũi thì khó đưa thậm chí không thể
đối với trường hợp trẻ nhỏ, hố mũi bé. Tầm di
chuyển của điện cực bị hạn chế và mặt cắt của
điện cực không áp trực vào mô VA được. Nên
chúng tôi đã nghiên cứu cải tiến điện cực như
sau: bẻ cong 30-450 một đoạn đầu điện cực dài
khoảng 3-4cm sao cho không làm dập đường
ống hút trong điện cực, không làm đứt các mạch
điện trong đó.
8 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 27/01/2022 | Lượt xem: 280 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu So sánh nạo va bằng kỹ thuật Coblation kết hợp nội soi qua mũi và nạo va kinh điển, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 4 * 2011
Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 110
SO SÁNH NẠO VA BẰNG KỸ THUẬT COBLATION KẾT HỢP NỘI SOI
QUA MŨI VÀ NẠO VA KINH ĐIỂN
Trần Anh Tuấn*
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Coblation là một phương pháp (pp) phẫu thuật dùng điện mới được thế giới đưa vào áp dụng
trong phẫu thuật tai mũi họng từ năm 1998 với nhiều ưu điểm như hệ thống cắt đốt lưỡng cực (bipolar) sử dụng
đầu đốt lạnh, nhiệt độ cắt đốt thấp nên ít tổn thương mô lành xung quanh. Tại Việt Nam từ năm 2003 Bệnh viện
Đại học Y Dược TPHCM (cơ sở 2) là đơn vị đầu tiên trong cả nước đưa phương pháp này vào phẫu thuật trong
một số bệnh lý vùng tai mũi họng: cắt amiđan, đốt cuốn mũi dưới và điều trị ngủ ngáy, nạo VA.
Mục tiêu nghiên cứu: Đánh giá hiệu quả và các ưu khuyết điểm của phương pháp (PP) nạo VA bằng
Coblation kết hợp với nội soi ống cứng qua đường mũi có so sánh với phương pháp nạo VA bằng Moure, La Force
kinh điển.
Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu ngẫu nhiên tiến cứu có can thiệp lâm sàng. 113 bệnh nhân tuổi từ 1
đến 20 có viêm VA mạn tính tái đi tái lại nhiều lần, VA quá phát gây tắc nghẽn hoặc viêm tai giữa tràn dịch được
chỉ định nạo VA bằng hệ thống Coblator II (61bệnh nhân) và bằng La forte, Moure (52 bệnh nhân). Thực hiện tại
Bệnh viện Đại học Y Dược TPHCM Cơ sở 2. Tất cả bệnh nhân được gây mê nội khí quản. thời gian phẫu thuật
được tính từ lúc đặt banh miệng cho đến lúc tháo banh miệng. ghi nhận số lượng máu mất trên mỗi bệnh nhân.
Sau mổ cho kháng sinh (Augmentine), giảm đau (Efferalgan). Theo dõi tình trạng bệnh nhân sau mổ dựa vào tái
khám định kỳ và bảng trả lời câu hỏi của bệnh nhân.
Kết quả: lượng máu mất trong mổ trung bình nhóm Coblator: 4,34 ml (2 - 10ml; SD 1,353), nhóm La Force
mù: 36,94 ml (30 - 60ml; SD 6,427); Thời gian phẫu thuật trung bình nhóm Coblator: 10,62 phút (6-18phút; độ
lệch chuẩn 2,62) nhóm La Force mù: 6,58 phút (4 - 10phút; độ lệch chuẩn 1,433); tỷ lệ chảy máu sớm phải can
thiệp: Nhóm Coblator: 0% (0/61), Nhóm La Force: 1,9% (1/52); tỷ lệ chảy máu muộn sau mổ phải can thiệp cả hai
nhóm là 0%; Thời gian ăn uống bình thường (như trước khi phẫu thuật): Nhóm nạo bằng coblator: trung bình là
2,26 (1-5 ngày, SD 1,069). Nhóm nạo bằng La Force mù: trung bình là 2,48 (1-6, SD 1,111) ; Thời gian trở lại
làm việc bình thường: Nhóm nạo bằng coblator: 1,31 ngày (1-3; SD 0,614), nhóm nạo bằng La Force mù: 1,76
ngày (1-4; SD 0,951) ; Và tình trạng bỏ sót mô VA nhóm nạo bằng coblator: 0%, nhóm nạo bằng La Force mù:
96,2%
Kết luận: Nạo VA bằng phương pháp coblation kết hợp với nội soi ống cứng qua mũi an toàn, hiệu quả với
thời gian cắt nhanh, không bỏ sót bệnh tích, ít mất máu trong mổ, ít đau sau mổ, thời gian lành thương nhanh và
ít chăm sóc hậu phẫu.
Từ khóa: Nạo VA bằng Coblation kết hợp với nội soi, nạo VA kinh điển.
ABSTRACT
ENDOSCOPIC TRANSNASAL ADENOID ABLATION (COBLATION) COMPARED WITH
TRADITIONAL ADENOIDECTOMY
Tran Anh Tuan * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 15 - Supplement of No 4 - 2011: 110 - 117
* Đại học Y Dược Tp Hồ Chí Minh
Tác giả liên lạc: TS. BS.Trần Anh Tuấn ĐT: 0903731120 Email: tuantranent@yahoo.com.vn
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 4 * 2011 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 111
Introduction: Coblation is a rather new electrosurgical technique that has applied to ORL surgery since
1998 in the world. This method have many high technologies such as bipolar probe systems, cool probe (Plasma
Wand) with a low temperature molecular disintegration. The result is volumetric tissue removal with minimal
collateral tissue necrosis. In Việt-Nam, the University Medical Center 2 is the first unit which has applied
coblation to some ORL surgical procedures such as tonsillectomy, inferior turbinate interventions to treat mucosal
hypertrophy, UVPP soft palate interventions for snoring and adenoidectomy.
Objective: To assess the morbidity and efficacy of radiofrequency thermal ablation adenoidectomy (coblation)
compared with traditional adenoidectomy
Study design and setting: Prospective, randomized, controlled clinical study of 113 patients aged 1 to 20
years admitted for adenoidectomy therein 61 patients by Coblator II system and 52 patients by La Force, all with
recurrent or chronic adenoiditis, obstructive adenoid hypertrophy or otitis media with effusion. This operation
were carried out in University Medical Center 2. All of them used a general anesthetic technique. Operative time
was recorded as the number of minute from insertion of the mouth gag to removal of the mouth gag. Estimated
blood loss was recorded for each patient. After operation, all patients took antibiotics (Augmentin®) and analgesic
(Efferalgan®). All patients were asked to fill out a postoperative diary.
Results: Intraoperative blood loss: Group of Coblator 4.34 ml (2 - 10ml; SD 1.353), group of La Force: 36.94
ml (30 - 60ml; SD 6.427); Operating time: Group of Coblator:10.62 minute (6-18; SD 2.62) group of La Force:
6.58 minute (4 - 10; SD 1.433). Rate of primary bleeding need to manage: Group of Coblator: 0% (0/61), group of
La Force: 1.9% (1/52). Rates of secondary bleeding after the first 24 hours postoperatively with need to manage in
the two groups 0%. Time of return to a normal diet (as the preoperation): Group of Coblator 2.26 (1-5 ngày, SD
1.069). group of La Force 2.48 (1-6, SD 1.111). the day each patient return to work normaly: Group of Coblator:
1.31 ngày (1-3; SD 0.614), group of La Force: 1.76 ngày (1-4; SD 0.951); And Rates of omission VA tissue:
Group of Coblator: 0%, group of La Force: 96.2%.
Conclusion: Endoscopic transnasal adenoid ablation by coblation is a safe and effective method, with short
surgery time, decrease in blood loss, have not omission VA tissue, less postoperative pain, faster healing and
reduced home care.
Key words: Endoscopic transnasal adenoid ablation by coblation, traditional adenoidectomy.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Phẫu thuật nạo VA rất thường được áp dụng
trong tai mũi họng. Có nhiều phương pháp nạo
VA khác nhau đã được áp dụng trên thế giới
trong đó có 4 phương pháp chính đang được
dùng phổ biến là dùng currette hoặc LaForce,
dao điện đơn cực, microdebrider và coblation
(Walner 2007)(10).
Nạo VA bằng Currette hoặc LaForce là
những phương pháp được sử dụng sớm nhất và
đến nay vẫn còn được dùng nhưng do lượng
mất máu trong mổ khá nhiều và có thể làm tổn
thương một số cấu trúc kế cận (Shambaugh,
1945; Talbot, 1965)(5,9). nên xu hướng hiện nay
đang giảm nhanh, từ 19% cách nay 15 năm, nay
chỉ còn 4,3% sử dụng (Walner 2007)(10).
Dao điện đơn cực đang được sử dụng phổ
biến với tỷ lệ sử dụng là 25,9%. Lý do cho sự lựa
chọn phương pháp là thời gian mổ nhanh, ít mất
máu và giá thành rẻ. (Walner 2007)(10) nhưng vì
nhiệt độ cắt đốt cao nên gây tổn thương nhiều
đến mô lành xung quanh.
Microdebrider cũng là một phương pháp
phổ biến với 19,8% sử dụng nhưng một biến
chứng thường gặp đó là mất máu nhiều (Walner
2007, Rodriguez 2002)(10,4).
Từ năm 1998, trên thế giới đã đưa vào áp
dụng một phương pháp phẫu thuật mới gọi là
phương pháp Coblation. Với những ưu điểm về
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 4 * 2011
Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 112
nhiệt độ cắt đốt thấp (40-70oC) nó đang thu hút
được sự quan tâm của giới y học nói chung và tai
mũi họng nói riêng. Phương pháp phẫu thuật
này hiện nay đã được áp dụng trong nhiều
chuyên khoa khác nhau như tai mũi họng, tim
mạch, thần kinh, da liễu, thẩm mỹ, vv.. Trong tai
mũi họng, người ta có thể dùng nó để cắt
amiđan, đốt cuốn mũi dưới, điều trị ngủ ngáy,
nạo VA.
Về nguyên tắc, phẫu thuật Coblation cũng là
một dạng phẫu thuật điện lưỡng cực nên về
nguyên lý hoạt động cơ bản giống như các
phương pháp phẫu thuật điện trước đây, nhưng
do hệ thống Coblation có sử dụng đầu đốt lạnh
(dùng nước lưu thông trong điện cực để làm mát
và làm môi trường đệm truyền dẫn nhiệt) nên
điện áp và nhiệt độ cắt đốt của chúng khá thấp
(40-70oC) từ đó giảm thiểu được hiện tượng tổn
thương mô lành xung quanh do nhiệt và điện.
Cơ chế hoạt động đó là nước trong điện cực
sẽ tạo một lớp dịch nằm giữa điện cực và mô,
qua trung gian lớp dịch này dưới tác dụng của
điện trường. Các nguyên tử trong lớp dịch này
biến đổi thành các ion (sự ion hóa) tạo thành một
lớp plasma
Hạt tích điện trong lớp plasma được gia tốc
dưới tác dụng của điện trường và đạt được đủ
năng lượng để bẻ gãy cầu nối phân tử của tế bào.
Sản phẩm phụ của quá trình này là các phân tử
cấu thành và khí nhẹ thay vì những mô bị cháy.
Từ năm 2003 Bệnh viện đại học Y Dược Cơ
sở 2 là đơn vị đầu tiên trong cả nước đã đưa kỹ
thuật Coblation vào phẫu thuật tai mũi họng.
Sau một thời gian sử dụng chúng tôi nhận thấy
đây là một phương pháp phẫu thuật an toàn,
hiệu quả. Bệnh nhân ít mất máu, ít đau sau mổ
và thời gian lành nhanh.
PHƯƠNG PHÁP VÀ VẬT LIỆU NGHIÊN CỨU
Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu tiến cứu mô tả, có can thiệp từng
ca theo một quy trình định sẵn cho từng nhóm
nghiên cứu.
Đối tượng nghiên cứu
Cỡ mẫu: 61ca nạo bằng pp Coblator; 52 ca nạo
bằng pp kinh điển được chọn ngẫu nhiên trong số
bệnh nhân đến khám tại Bệnh viện Đại học Y
Dược Cơ sở 2 từ 10/2004 đến 4/2009 có chỉ định
nạo VA không hạn chế tuổi và giới. Chỉ định nạo
VA giống như chỉ định trong các phương pháp
nạo VA khác theo AAO-HNS 2000.
Phương tiện nghiên cứu
Hệ thống coblator II của hãng ArthroCare
Mỹ, đầu đốt Evac 70 cải tiến, hệ thống gây mê
nội khí quản
Thiết kế nghiên cứu
Đánh giá tình trạng bệnh nhân trước mổ
Đánh giá lâm sàng: hỏi kỹ bệnh sử và thăm
khám lâm sàng tổng quát. Đánh giá VA qua nội
soi mũi và hoặc X quang sọ nghiêng.
Đánh giá cận lâm sàng: làm các xét nghiệm
trước mổ đánh giá tình trạng tổng quát của bệnh
nhân (công thức máu, chức năng đông máu,
chức năng gan, thận, đường huyết, tổng phân
tích nước tiểu); chụp phim phổi, đo điện tim.
Phương pháp vô cảm: gây mê toàn thân
đường nội khí quản đặt qua miệng.
Tư thế bệnh nhân: bệnh nhân nằm ngửa,
phẫu thuật viên đứng bên phải bệnh nhân.
Tư thế bệnh nhân và phẫu thuật viên (hình
trái); mô hình phương pháp nạo VA bằng
Coblation (cải tiến) kết hợp nội soi qua mũi (hình
phải)
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 4 * 2011 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 113
Chuẩn bị thiết bị
Hệ thống nội soi: sử dụng hệ thống nội soi
ống cứng, loại 4x180mm, 0o hoặc 2.7x180mm, 0o
đặt monitor phía đầu bệnh nhân mặt đối mặt với
phẫu thuật viên.
Hệ thống coblator: lắp chai dịch Nacl 9‰,
gắn điện cực vào hệ thống (sử dụng loại đầu
điện cực Evac70 cải tiến) máy tự động đặt ở chế
độ cắt 7, đốt 3 (chế độ mặc định), gắn hệ thống
hút và dây dịch truyền vào điện cực, vận hành
thử xem tình trạng điện cực, máy hút, tưới nước.
Cải tiến đầu điện cực Evac70: Bẻ cong điện
cực tại điểm cách đầu điện cực khoảng 3cm tạo
một góc 45 độ so với trục điện cực sao cho diện
mặt cắt hướng theo hướng bẻ cong.
Phương pháp phẫu thuật
* Kỹ thuật nạo VA bằng Coblator cải tiến dưới nội soi
qua mũi
Bệnh nhân nằm ngửa, đặt mỗi bên hốc mũi 1
đoạn mèche có tẩm Otrivin 0,05% (trẻ em) hoặc
Rhinex 0,5% (người lớn) trong 5 phút để làm co
niêm mạc mũi giúp đưa ống nội soi qua hốc mũi
dễ dàng cho tới họng mũi.
Tay trái cầm ống soi đưa vào từng bên mũi
của bệnh nhân để kiểm tra khối VA, hút sạch
dịch nếu có để phẫu trường sạch và rõ ràng. Mở
miệng bệnh nhân bằng banh miệng David, đưa
điện cực nạo VA cải tiến qua đường miệng
hướng đầu điện cực lên nóc vòm. Đưa ống soi
qua mũi sao cho thấy rõ khối VA và đầu điện
cực. Bắt đầu cắt VA từ dưới lên, áp nhẹ mặt cắt
của đầu điện cực vào khối VA bắt đầu từ rìa khối
VA, đạp pedal cắt (pedal màu vàng). Mô VA bị
phân cắt và hút vào điện cực. Cắt dần từ ngoài
vào trong, từ dưới lên trên theo từng lớp cho tới
khi hết khối VA mà ta thấy được. Nạo VA vòi
nếu có. Chuyển ống soi sang hốc mũi kế bên nạo
tương tự. Trong khi cắt nếu có điểm chảy máu
thì đốt cầm máu ngay để tạo phẫu trường sạch
và giảm mất máu.
* Kỹ thuật nạo VA bằng La Force
* Nạo VA vòm và VA vòi theo lối kinh điển (nạo mù)
Bệnh nhân nằm ngửa, đầu để thẳng. Dùng
banh miệng David mở miệng; Dùng La Force
đưa thẳng dọc vào miệng, xoay ngang khi qua
eo họng và hướng dọc lên vùng họng mũi; đè La
Force áp sát vào nóc vòm và bờ sau cửa mũi sau;
mở lưỡi La Force để VA chui vào; bóp mạnh để
lưỡi La Force cắt đứt VA vòm. Đưa chếch La
Force sang 2 bên một góc khoảng 15°, làm tương
tự để nạo VA vòi. Chèn 1 cục bông cầu lên nóc
vòm cầm máu trong 3-5 phút.
Nạo VA vòm, vòi còn sót bằng La Force và
Moure dưới sự hướng dẫn của nội soi.
Chăm sóc hậu phẫu (chung cho cả hai phương
pháp)
Sau khi hồi tỉnh đặt bệnh nhân nằm ngửa,
đầu nghiêng sang một bên, đùa dịch nếu có
trong họng ra ngoài để theo đi. Khi bệnh nhân
nhả nước bọt trong và tỉnh táo hoàn toàn có thể
cho bệnh nhân uống sữa lạnh. Theo dõi tình
trạng bệnh nhân (đau, chảy máu, nhiễm trùng,
ăn uống, mất nước,).
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 4 * 2011
Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 114
Bệnh nhân xuất viện vào ngày hôm sau.
Cung cấp và hướng dẫn hoàn thành bảng theo
dõi đánh giá sau mổ theo mẫu. Yêu cầu bệnh
nhân tái khám sau mỗi tuần trong tháng đầu và
3 tháng sau mổ.
Các tham số cần đánh giá
Thời gian phẫu thuật (tính từ lúc bắt đầu đặt
banh miệng cho đến khi tháo banh miệng).
Lượng máu mất (thể tích dung dịch máu
trong bình trừ đi thể tích dịch truyền).
Ghi nhận các biến chứng trong phẫu thuật
nếu có.
Tỷ lệ chảy máu sớm sau mổ (trong vòng 24
giờ sau mổ).
Tỷ lệ chảy máu muộn sau mổ (sau 24 giờ).
Tình trạng giả mạc và bong giả mạc.
Tình trạng còn sót mô VA: đánh giá qua nội
soi mũi, và hoặc x quang sọ nghiêng.
Ngày bệnh nhân trở lại ăn uống bình
thường.
Ngày trở lại sinh hoạt học tập bình thường.
Sự lành thương vết mổ sau 1 tuần, 2 tuần, 3
tuần, 1 tháng và 3 tháng sau mổ.
KẾT QUẢ
Với 61 bệnh nhân nạo bằng coblator và 52
bệnh nhân nạo bằng La Force. Tất cả các bệnh
nhân đó được tiến hành theo một quy trình đã
trình bày ở phần phương pháp nghiên cứu, tôi
thu được những kết quả sau.
Theo tuổi
Nhóm Coblator tuổi trung bình là 7,56 (1-19
tuổi, SD 4,295); nhóm La Force tuổi trung bình là
7,40 (2-20 tuổi, SD 4,001). Sự khác biệt không có ý
nghĩa thống kê (phép kiểm student, P>0,05).
Thời gian phẫu thuật
Nhóm coblator: 10,62 phút (6 - 18phút; SD
2,32); nhóm La Force: 6,58 phút (4 - 10phút; SD
1,433). Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (phép
kiểm Student, P<0,05).
Lượng máu mất trong mổ
Nhóm Coblator: 4,34 ml (2 - 10ml; SD 1,353);
nhóm La Force mù: 36,94 ml (30 - 60ml; SD
6,427). Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (Phép
kiểm Student, P<0,05).
Tỷ lệ chảy máu sớm (trong vòng 24 giờ sau
mổ)
Nhóm Coblator: 0% (0/61); nhóm La Force:
1,9% (1/52).
Tỷ lệ chảy máu muộn (sau 24 giờ sau mổ)
Cả hai nhóm là 0%.
Giả mạc hố mổ
Nhóm Coblator: 92,3% số bệnh nhân hết giả
mạc vào ngày 14; nhóm La Force: 78,8% số bệnh
nhân hết giả mạc vào ngày 14.
Tình trạng còn sót mô VA
- Nhóm nạo bằng coblator: 100% số ca sau
nạo không còn sót mô VA. Kiểm chứng sau 1
tháng và 3 tháng không ghi nhận bệnh nhân nào
còn sót mô VA.
- Nhóm nạo bằng La Force mù: tất cả các ca
có VA to độ 2 trở lên, phương pháp nạo VA
bằng La Force, 100% trường hợp còn bỏ sót mô
VA viêm, chủ yếu là phần VA ở phía cửa mũi
sau, gờ vòi và hố Rosselmuler. Đối với trường
hợp VA to độ 1 vẫn có tới 50% số ca còn bỏ sót
mô VA.
Tình trạng ăn uống
Ngày bệnh nhân trở lại ăn uống bình
thường.
- Nhóm nạo bằng coblator: trung bình là 2,26
(1-5 ngày, SD 1,069).
- Nhóm nạo bằng La Force mù: trung bình là
2,48 (1-6, SD 1,111).
Sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê
(Phép kiểm Student, P> 0,05).
Tình trạng toàn thân
Ngày trở lại sinh hoạt, học tập bình thường
- Nhóm nạo bằng coblator: 1,31 ngày (1-3; SD
0,614).
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 4 * 2011 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 115
- Nhóm nạo bằng La Force mù: 1,76 ngày (1-
4; SD 0,951)
Sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê
(Phép kiểm Student, P> 0,05).
Tình trạng lành thương hố mổ
BÀN LUẬN
So sánh phương pháp nạo VA bằng
coblator (cải tiến) đưa qua miệng kết hợp
nội soi qua mũi và các phương pháp kinh
điển
Thời gian phẫu thuật: 10,62 phút ± 2,32
Nếu chỉ so sánh giữa phương pháp coblator
và nạo bằng La Force kinh điển (6,58 phút ±
1,433) thì thời gian của phương pháp coblator
dài hơn nhưng nếu tính cả thời gian để lấy sạch
khối VA sau khi nạo mù bằng La Force thì thời
gian của phương pháp coblator ngắn hơn.
So với một số phương pháp của các tác giả
nước ngoài như phương pháp dùng điện tần số
radio đơn cực là 8,56±1,54 và dùng Moure thông
thường là 9,10±1,74 phút (Shehata 2005)(6). Thời
gian nạo VA bằng coblator dài hơn. Tương đương
với phương pháp dùng ống hút đơn cực kết hợp
nội soi đường mũi: 10-15 phút (Shin 2003)(7).
Lượng máu mất trong mổ: 4,34±1,353ml
So sánh với lượng máu mất của phương
pháp nạo VA bằng La Force mù (36,94ml ± 6,427)
thì phương pháp coblator ít mất máu hơn một
cách có ý nghĩa (phép kiểm student, P<0,05). Còn
nếu tính cả lượng máu mất khi nạo bổ sung dưới
nội soi sau nạo mù thì lượng máu mất của
phương pháp coblator càng ít hơn.
Lượng máu mất qua nghiên cứu của chúng
tôi thấp hơn phương pháp kinh điển nạo bằng
Moure (Shehata 34,33±15,08 ml)(6). Tương đương
với lượng máu mất trung bình của phương pháp
dùng điện cực sóng radio kết hợp nội soi của
Shehata(6) là 3,76±2,03ml.
Tình trạng lành thương hố mổ
Trong nhóm nạo bằng Coblator và nội soi
không có ca nào gây tổn thương các cấu trúc
lành xung quanh như gờ vòi, bờ sau vách ngăn
mũi hay trợt rách niêm mạc vùng họng mũi. Đạt
được kết quả này là do phẫu thuật được thực
hiện dưới nội soi qua mũi giúp phẫu thuật viên
quan sát rõ ràng, trực diện, và coblator phân cắt
từng lớp, nhiệt độ cắt đốt thấp nên không gây
tổn thương nhiệt mô lành xung quanh.
Tình trạng bỏ sót mô VA viêm sau mổ
Trong nghiên cứu của chúng tôi, nhóm
nạo bằng coblator không có trường hợp nào
còn sót mô VA sau mổ. Ngược lại nhóm nạo
bằng La Force và Moure có tới 96,2% trường
hợp còn bỏ sót mô VA kể cả khi nạo dưới sự
hướng dẫn của nội soi. Đó là do đầu nạo La
Force và Moure không thể đưa lên nạo VA ở
phía trên cửa mũi sau.
Nạo VA bằng la force hoặc moure theo
phương pháp kinh điển (nạo mù) không triệt để
và phần lớn trường hợp còn bỏ sót mô VA, thậm
chí nạo dưới nội soi, các dụng cụ này cũng
không thể lấy hết được mô VA. Trong nghiên
cứu của chúng tôi 96,2% trường hợp còn sót mô
VA. Phần VA còn sót thường là phần nằm ở phía
trên cửa mũi sau và bờ sau vách ngăn mũi. Chỉ
có 3,8% trường hợp nạo triệt để bằng phương
pháp này là đối với các trường hợp VA nhỏ (to
độ 1) nằm gọn ở vùng vòm không lấn lên gờ vòi
và phía trên cửa mũi sau. Một khó khăn khác khi
nạo VA bằng La Force hoặc Moure là đối với
những bệnh nhi hoặc thiếu niên, bị viêm VA tái
đi tái lại nhiều lần mô VA dai việc cắt mô VA
bằng La Force hoặc Moure là rất khó thậm chí
không thể.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 4 * 2011
Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 116
Theo Wan và cộng sự)(11). thì phương pháp
này chỉ lấy được bó chính của VA, còn theo Shin
và cộng sự (Shin 2003)(7) quan sát trên 200 bệnh
nhân bằng nội soi qua mũi sau khi nạo VA bằng
phương pháp thông thường qua miệng vẫn còn
nguyên phần VA ở phần họng mũi trên.
Trước đây các tài liệu trong y văn ít đề cập
đến việc còn sót mô VA có thể do lúc đó nội soi
chưa phát triển nên việc phát hiện mô VA còn
sót qua khám bằng đèn Clar là rất khó.
Những ưu điểm của phương pháp nạo VA
bằng Coblator (điện cực cải tiến) kết hợp
nội soi qua mũi so với các phương pháp
kinh điển khác
Cải tiến được tầm nhìn
Nội soi qua mũi cho phép quan sát trực diện,
cận cảnh và phóng đại những vùng phẫu trường
kín như vùng họng mũi mà không thể hoặc thấy
không rõ bằng đèn Clar hoặc gương trán thậm
chí là nội soi qua miệng.
Ít mất máu
Coblator cũng là hệ thống phẫu thuật điện
nên nó vừa cắt vừa cầm máu nên không gây mất
máu nhiều như trường hợp nạo bằng Moure,
Laforce, microdebrider (Elluru RG 2002; Koltai
PJ 2002; Stanislaw P Jr 2000)(1,2,8).
Ít tổn thương mô lành xung quanh
Hệ thống coblator cắt đốt ở nhiệt độ thấp
nên không gây tổn thương mô lành xung quanh
như dao cắt đơn cực. Do đặc điểm cấu tạo của
điện cực coblator có hệ thống tưới nước và hút
đồng thời nên khi mô VA bị phân cắt ra sẽ được
hút đi ngay cùng với nước tạo hiệu quả giống
như cắt bằng microdebrider nhưng không gây
mất nhiều máu. Và cũng không gây tắc ống như
trong trường hợp dùng ống hút điện đơn cực.
Phẫu thuật viên chủ động vừa cắt, vừa hút
không phụ thuộc vào sự phối hợp nhịp nhàng
của người phụ.
Tuy nhiên do cấu tạo của điện cực Evac 70
thẳng và to nên nếu đưa qua đường miệng thì
không thể đưa đầu điện cực đến tất cả các vùng
VA cần nạo nhất là đối với những trường hợp có
eo họng hẹp, khẩu cái mềm dài. Còn nếu đưa
qua đường mũi thì khó đưa thậm chí không thể
đối với trường hợp trẻ nhỏ, hố mũi bé. Tầm di
chuyển của điện cực bị hạn chế và mặt cắt của
điện cực không áp trực vào mô VA được. Nên
chúng tôi đã nghiên cứu cải tiến điện cực như
sau: bẻ cong 30-450 một đoạn đầu điện cực dài
khoảng 3-4cm sao cho không làm dập đường
ống hút trong điện cực, không làm đứt các mạch
điện trong đó.
Điện cực Evac 70 của hãng ArthroCare Mỹ
Điện cực Evac 70 cải tiến
Điện cực coblator cải tiến có những ưu điểm
sau: (1) cho phép đưa điện cực qua đường miệng
dễ dàng đến tất cả các vùng VA cần nạo kể cả
những bệnh nhân có eo họng hẹp, dài, há miệng
hạn chế, hạn chế cử động cột sống cổ; (2) khắc
phục được hạn chế của phương pháp cùng đưa
ống soi và điện cực qua 1 hốc mũi làm hạn chế
tầm di chuyển của điện cực, dễ gây trầy niêm
mạc hốc mũi và có thể không dùng được trong
nhưng trường hợp hốc mũi nhỏ (Ku)(3) ; (3)
không cản trở tầm nhìn của nội soi, không cần
vén khẩu cái mềm.
Nạo VA với điện cực
thẳng
Nạo VA với điện cực cải
tiến
Qua những ưu điểm nêu trên chúng tôi có
thể kết luận: Coblator với điện cực cải tiến kết
hợp với nội soi qua mũi là phương pháp rất tốt
để nạo VA. Nó có thể kiểm soát tất cả các vấn đề
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 4 * 2011 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 117
cần kiểm soát cho một cuộc mổ nạo VA (tầm
nhìn rõ, cầm máu tốt, ít tổn thương, nạo triệt để)
từ đó khắc phục được một số hạn chế của các
phương pháp kinh điển khác.
KẾT LUẬN
Nạo VA bằng coblation (với điện cực cải
tiến) kết hợp với nội soi ống cứng qua đường
mũi là phương pháp phẫu thuật an toàn, dễ thực
hiện và cho kết quả ngoạn mục (nạo triệt để,
không bỏ sót, ít mất máu, không tổn thương các
cấu trúc xung quanh, mau lành thương) với ưu
điểm hơn hẳn phương pháp kinh điển trước đây
là không bỏ sót bệnh tích.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Elluru RG, Johnson L, Myer CM 3rd (2002). Electrocautery
adenoidectomy compared with curettage and power-assisted
methods. Laryngoscope 2002;112:23-25.
2. Koltai PJ, Chan J, Younes A (2002). Power-assisted
adenoidectomy: total and partial resection. Laryngoscope
2002;112:29-31.
3. Ku PK, Pak MW, Van Hasselt CA (2002). Combined tranoral
and transnasal power-assisted endoscopic adenoidectomy by
StraitShot microdebrider and Endoscrub device. Annal of
college of surgery in Hongkong 2002; 6: 83-86.
4. Rodriguez K, Murray N, Guarisco JL (2002). Power-assisted
partial adenoidectomy. Laryngoscope 2002;112:26-28.
5. Shambaugh. G. E.Jr (1945). Diseases of the nose, throat and
ear. Philadelphia.W.B. Saunders Company, 1945.
6. Shehata et al (2005): Radiofrequency Adenoidectomy
Laryngoscope 115: January 2005. 162-166
7. Shin JJ, Hartnick CJ (2003). Ann otol rhinol laryngol 112; 2003:
511-514.
8. Stanislaw P Jr, Koltai PJ, Feustel PJ (2000). Comparison of
powerassisted adenoidectomy vs adenoid curette
adenoidectomy. Arch Otolaryngol Head Neck Surg 2000; 126:
845- 850.
9. Talbot. H (1965): Adenotonsillectomy, technique and
postoperative care. Laryngoscope 75 1965:1877-1892.
10. Walner DL, Parker NP, and Miller RP, et al (2007) Past and
present instrument use in pediatric adenotonsillectomy
Otolaryngology-Head and Neck Surgery (2007) 137, 49-53.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- so_sanh_nao_va_bang_ky_thuat_coblation_ket_hop_noi_soi_qua_m.pdf