Tuy nhiên, tại các Khoa cấp cứu luôn quá tải của
các bệnh viện trên toàn quốc, bệnh nhân xét nghiệm
trong máu có cồn không được thường xuyên ghi
nhận. Do đó, bất kể các hình thức xử phạt và hệ quả
đã được quy định rõ trong luật, những bất lợi về
mặt luật pháp và xã hội vẫn không đủ để răn đe, chỉ
có một số lái xe nhận thức được pháp luật sẽ được
thực thi.
Tỷ lệ rất cao số người được khảo sát trong nghiên
cứu này cho biết bạn bè hoặc người thân trong gia
đình có hành vi lái xe sau khi uống rượu cũng khá
cao. Nelson và các đồng nghiệp đã chỉ ra rằng thái
độ và các yếu tố xã hội, bao gồm ảnh hưởng của
bạn bè và đặc biệt là người vợ/bạn gái có liên quan
đến việc tránh lái xe khi uống rượu đối với những lái
xe có nguy cơ say rượu cao. Gia tăng các biện pháp
phòng ngừa chung (ý thức đạo đức và xã hội hóa
thói quen đề phòng) cùng với sự gia tăng các biện
pháp ngăn ngừa (sợ bị phạt) cho thấy có thể giúp
kiểm soát việc lái xe trong tình trạng bị ảnh hưởng
bia rượu [11].
Nhiều nghiên cứu cũng đã cho thấy sự thay đổi
đáng kể của người dân trong quan niệm và thái độ
có liên quan đến những thay đổi về số tử vong do
tai nạn giao thông liên quan đến bia rượu. Đồng
thời, việc kiểm soát hành vi có thể giúp phòng ngừa
hành vi lái xe uống rượu ngay cả đối với những tài xế
nhiều lần phạm luật lái xe uống rượu. Chính vì vậy,
các can thiệp chính sách để ngăn chặn hành vi lái xe
uống rượu đang được khuyến khích để tăng cường
kiểm soát hành vi của nhóm đối tượng vi phạm [8].
7 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 28 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu So sánh tỷ lệ sử dụng rượu bia và lái xe sau uống rượu bia ở các nhóm học sinh, sinh viên và công nhân trẻ tại các tỉnh Bắc Giang và Bình Thuận, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
61
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 6, số 5 - tháng 10/2016
JOURNAL OF MEDICINE AND PHARMACY
SO SÁNH TỶ LỆ SỬ DỤNG RƯỢU BIA VÀ LÁI XE
SAU UỐNG RƯỢU BIA Ở CÁC NHÓM HỌC SINH, SINH VIÊN VÀ
CÔNG NHÂN TRẺ TẠI CÁC TỈNH BẮC GIANG VÀ BÌNH THUẬN
Nguyễn Minh Tâm1, Jean-Pascal Assailly2
(1) Trường Đại học Y Dược Huế
(2) Viện Khoa học Kỹ thuật Giao thông Cộng hoà Pháp
Tóm tắt
Đặt vấn đề: Tai nạn giao thông (TNGT) và lái xe sau uống rượu bia ở tuổi thanh thiếu niên là vấn đề y tế
đáng lưu ý ở nhiều nước trên thế giới. Số liệu thống kê tại Việt Nam cho thấy khoảng 40% các vụ tai nạn giao
thông (trong đó có 11% bị tử vong) là có liên quan đến ruợu bia. Mục tiêu: Mô tả thực trạng sử dụng rượu
bia và lái xe sau khi sử dụng rượu bia ở các nhóm thanh thiếu niên ở độ tuổi 15-25 tại tỉnh Bắc Giang và Bình
Thuận. Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang được tiến hành trên 4.850 nguời dân trong
độ tuổi 15-25 tuổi ở 2 tỉnh Bắc Giang và Bình Thuận. Kết quả: Tỷ lệ học sinh có sử dụng rượu bia trong năm
qua là 25,9%, tỷ lệ này ở nhóm sinh viên và người lao động trẻ tuổi lần lượt là 61,1% và 71,2%. Trong khi tỷ
lệ học sinh lái xe sau khi uống rượu bia là thấp (12,1%), tỷ lệ lái xe sau khi uống rượu bia ở nhóm sinh viên và
người lao động trẻ cao hơn nhiều (54,2% đối với nhóm sinh viên và 64,3% đối với người lao động trẻ tuổi).
Kết luận: Tỷ lệ uống rượu bia và lái xe sau khi uống rượu bia ở thanh thiếu niên là khá cao. Kết quả nghiên
cứu là cơ sở giúp xây dựng các chương trình can thiệp hiệu quả nhằm hạn chế tình trạng uống rượu bia, lái
xe sau khi uống rượu bia cũng như nguy cơ mắc các tai nạn giao thông ở nhóm đối tượng này.
Từ khóa: thanh thiếu niên, tuổi từ 15-25, sử dụng rượu bia, lái xe sau khi sử dụng rượu bia
Abstract
A COMPARISON OF DRINKING AND DRINK-DRIVING PATTERNS
AMONG STUDENTS AND WORKERS AGED 15-25 YEARS
IN BAC GIANG PROVINCE AND BINH THUAN PROVINCE
Nguyen Minh Tam1, Jean-Pascal Assailly2
(1) Hue University of Medicine and Pharmacy
(2) The French Institute for Transport Sciences and Technologies
Traffic accidents and drink driving are serious health concerns for the young adult population. Statistics
data in Vietnam shows that about 40% traffic accidents (with 11% fatalities) are involved with alcohol.
Objective: To describe the situation of drinking and driving among young people aged 15-25 years. Methods:
A cross-sectional descriptive study was conducted among 4,850 young adults in 2 provinces of Bac Giang and
Binh Thuan. Results: The proportion of high school students drinking last year was 25.9%, that of students
and adult workers were 61,1% and 71,2%, respectively. While the proportion of high school students who
reported driving after drinking was still low (12.1%), that of students and young workers were much higher
(54.2% among college/university students and 63,4% among young workers). Conclusion: The percentage
of alcohol consumption and drink-driving among people aged 15-25 years was high. The important practical
implications of these results are to design effective interventions to prevent alcohol consumption and drink
driving as well as the risk of traffic crashes in the young population.
Keywords: young adults, 15-25 years old, alcohol consumption, drink-driving
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
- Địa chỉ liên hệ: Nguyễn Minh Tâm, email: dr.nmtam@gmail.com
- Ngày nhận bài: 15/7/2016; Ngày đồng ý đăng: 12/10/2016; Ngày xuất bản: 25/10/2016
Với xu thế hội nhập toàn cầu mức sống ngày
càng tăng dẫn đến việc tiêu thụ bia rượu cũng gia
tăng đáng kể và làm thay đổi thói quen uống rượu.
Tiêu thụ rượu bia tại Việt Nam tăng 152% từ 1.001
triệu lít (12,4 lít/người) vào năm 2003 lên đến 1.525
triệu lít (17,7 lít/người) vào năm 2008. Không có
62
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 6, số 5 - tháng 10/2016
JOURNAL OF MEDICINE AND PHARMACY
giới hạn pháp lý thấp hơn đối với việc tiêu thụbia
rượu và còn ít những ràng buộc về xã hội và tôn giáo
đối với việc sử dụng rượu thì tỷ lệ sử dụng bia rượu
trong thanh thiếu niên dự kiến sẽ tăng [5].
Nhiều bằng chứng nghiên cứu cho thấy gánh
nặng lạm dụng rượu ở Việt Nam rất đáng quan tâm.
Rối loạn sử dụng rượu là nguyên nhân hàng đầu của
YLD (Số năm sống khỏe mạnh mất đi do tàn tật) ở
nam giới, gây ra 319.252 YLD và chiếm 12% của tất
cả các YLD. Trong mười nguyên nhân hàng đầu của
DALYs (Số năm sống hiệu chỉnh theo mức độ tàn tật)
ở nam giới, rối loạn sử dụng rượu xếp tư và gây ra
329.072 DALYs, chiếm 4% của tất cả các DALYs ở nam
giới [14]. Một nghiên cứu gần đây ở các nạn nhân tai
nạn giao thông là nam giới tại các bệnh viện của khu
vực miền Trung Việt Nam [16] cho thấy 60% bệnh
nhân nhập viện do tai nạn giao thông tại khoa Cấp
cứu có nồng độ cồn trong máu vượt quá giới hạn
quy định là 0,08g/100ml.
Trong thời gian gần đây, Chính phủ Việt Nam đã
thực hiện một số thay đổi tích cực, đặc biệt là hạn
chế sử dụng rượu bia ở nơi công cộng. Tuy nhiên,
vẫn còn những khoảng trống lớn trong chính sách/
quy định hiện hành về rượu. Bên cạnh đó, giới hạn
cho phép nồng độ cồn trong máu đối với người điều
khiển xe ô tô và xe gắn máy không đồng nhất đã đưa
ra những thông điệp trái chiều cho người dân Việt
Nam - chủ yếu là người sử dụng xe gắn máy.
Chúng tôi tiến hành nghiên cứu này nhằm mô
tả tình trạng sử dụng rượu bia và lái xe sau khi sử
dụng rượu bia ở nhóm đối tượng thanh thiếu niên
15-25 tuổi.
2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Thời gian nghiên cứu: năm 2014
2.2. Đối tượng nghiên cứu: Đối tượng thanh
thiếu niên có độ tuổi từ 15-25 tuổi ở hai tỉnh Bắc
Giang và Bình Thuận.
2.3. Phương pháp nghiên cứu
Đây là một nghiên cứu mô tả cắt ngang trên mẫu
ngẫu nhiên chọn qua nhiều giai đoạn. Ở mỗi tỉnh,
chúng tôi chọn ngẫu nhiên 3 huyện/ thành phố,
gồm có thành phố Bắc Giang, huyện Lạng Giang và
huyện Việt Yên (tỉnh Bắc Giang) và thành phố Phan
Thiết, huyện Hàm Thuận Bắc, huyện La Gi (tỉnh Bình
Thuận).
Đối với nhóm thanh niên có độ tuổi từ 15-17
tuổi: Tại mỗi huyện/ thành phố tiến hành chọn ngẫu
nhiên 2 trường. Tại mỗi trường lựa chọn các lớp
phân bố đều ở cả 3 khối lớp 10, 11, 12. Đối với nhóm
thanh niên có độ tuổi từ 18-25 tuổi: Chúng tôi chọn
ngẫu nhiên trên nhiều nhóm đối tượng gồm có sinh
viên đại học/ cao đẳng, công nhân tại các nhà máy,
tài xế taxi, và một số khác (nông dân, lao động tự do,
người lao động,)
Có tổng cộng 4.850 thanh niên có độ tuổi từ 15-
25 tham gia khảo sát này.
Các đối tượng nghiên cứu sẽ được phỏng vấn
dựa trên một bộ công cụ được thiết kế sẵn bao gồm
các câu hỏi về đặc điểm nhân khẩu học, phương
tiện tham gia giao thông, an toàn khi tham gia giao
thông, vấn đề sử dụng rượu bia, thói quen lái xe sau
khi sử dụng rượu bia.
2.4. Xử lý và phân tích số liệu: Nhập và xử lý số
liệu bằng phần mềm Epidata 3.1, SPSS 18.0 và Excel
2013.
3. KẾT QUẢ
Bảng 1. Đặc điểm chung của đối tượng nghiên cứu
Học sinh Sinh viên Công nhân&lái xe taxi
Bắc Giang Bình Thuận Bắc Giang
Bình
Thuận
Bắc
Giang
Bình
Thuận
Cỡ mẫu 1.388 1.237 345 339 262 187
Giới tính
Nam 41,4 34.7 57.7 34.5 50.4 54.0
Nữ 58.6 65.3 42.3 65.5 49.6 46.0
Phương tiện giao thông sử dụng
Không sử dụng 3,5 6,5 13,9 4,4 3,4 5,3
Xe đạp 60,8 55,7 34,8 30,7 10,3 7,0
Xe đạp điện 32,6 31,1 1,7 0,9 0,0 0,0
Xe máy <50 cc 3,7 8,9 24,3 13,3 36,6 25,1
63
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 6, số 5 - tháng 10/2016
JOURNAL OF MEDICINE AND PHARMACY
Xe máy ≥ 50 cc 2,5 1,5 34,5 62,2 54,6 67,4
Ô tô 1,1 8,1 5,5 1,5 7,6 3,7
Xe buýt 0,0 13,3 1,2 4,4 0,4 0,5
Khác 5,3 0,8 0,0 0,0 0,0 0,0
Nhận xét: Tỷ lệ đối tượng khảo sát là nữ giới cao hơn trong nhóm học sinh trung học (15-17 tuổi) trong
khi tỷ lệ nam giới lại cao hơn trong nhóm thanh niên từ 18-25 tuổi. Đa số học sinh trung học sử dụng xe đạp
và xe đạp điện làm phương tiện giao thông chính. Trong nhóm sinh viên, khoảng một nửa sử dụng xe máy
≥ 50cc làm phương tiện đi lại trong năm vừa qua. 59,9% số công nhân và thanh niên (18-25 tuổi) sử dụng
xe máy và 31,8% sử dụng xe máy <50 cc. Đa số lái xe taxi đều có xe máy. Có sự khác biệt về phương tiện di
chuyển giữa hai tỉnh.
Bảng 2. Tỷ lệ tai nạn giao thông trong 3 năm vừa qua
Học sinh Sinh viên Công nhân
Bắc Giang Bình Thuận Bắc Giang
Bình
Thuận
Bắc Giang
Bình
Thuận
Liên quan trực tiếp
tai nạn giao thông
(Mean)
2,08 1,65 2,44 0,82 0,84 1,00
Tai nạn giao thông cần chăm sóc y tế (%)
Thương tích nghiêm
trọng
24,0 22,5 17,2 21,8 25,0 32,1
Thương tích nhẹ 46,0 45,5 47,1 44,9 53,3 61,2
Nhận xét: Đối tượng khảo sát được hỏi về sự liên quan của họ đến tai nạn giao thông trong 3 năm vừa
qua. Nhóm học sinh trung học có số lượng thương tích cũng như cần chăm sóc y tế cao hơn.
Bảng 3. Độ tuổi bắt đầu sử dụng rượu bia
Học sinh Sinh viên Công nhân
Bắc Giang Bình Thuận Bắc Giang
Bình
Thuận
Bắc
Giang
Bình
Thuận
Lần đầu uống
Trung vị 15 15 17 18 18 19
Trung bình 14,12 15,1 16,74 17,26 19,02 19,13
Độ lệch chuẩn 3,208 2,057 2,669 2,759 2,525 2,068
Lần đầu say
Trung vị 16 16 18 18 20 20
Trung bình 15,25 15,78 18,24 18,34 20,6 19,96
Độ lệch chuẩn 2,916 1,615 2,147 2,379 3,377 2,699
Nhận xét: Nhóm học sinh trung học bắt đầu uống bia rượu sớm hơn các nhóm khác. Nhóm học sinh trung
học cũng cho biết lần đầu say của họ (trung bình và trung vị) là từ 15-16 tuổi và độ tuổi này nhỏ hơn so với
các nhóm khác. Nhìn chung, tất cả các nhóm được khảo sát ở Bắc Giang đều cho thấy lần đầu uống say của
họ ở độ tuổi trẻ hơn những người được khảo sát ở Bình Thuận.
64
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 6, số 5 - tháng 10/2016
JOURNAL OF MEDICINE AND PHARMACY
Biểu đồ 1. Phân bố tần suất sử dụng rượu bia trong năm vừa qua theo nhóm đối tượng
Nhận xét: Tần suất uống rượu bia trong năm vừa qua của đối tượng khảo sát. Tần suất uống thay đổi
giữa các nhóm, trong đó nhóm lái xe taxi, công nhân và thanh niên tham gia lớp học lái xe (18-25 tuổi) uống
thường xuyên hơn các nhóm khác.
Bảng 5. Tình hình lái xe sau khi sử dụng rượu bia ở nhóm đối tượng nghiên cứu
Tần suất Học sinh Sinh viên Công nhân
Tần suất lái xe sau khi uống (%)
Chưa bao giờ 87,9 71,2 35,7
Khoảng 1 lần mỗi tháng hoặc ít hơn 6,6 16,1 28,1
Khoảng 2-4 lần/tháng 1,3 7,8 12,9
Khoảng 2-3 lần/tuần 0,2 0,4 3,6
Khoảng 4 hoặc hơn 4 lần/tuần 0,1 0,2 0,8
Không nhớ 3,8 4,1 18,9
Tần suất ngồi sau xe người say rượu chở (%)
Chưa bao giờ 59,8 47,4 53,6
Khoảng 1 lần mỗi tháng hoặc ít hơn 23,8 31,0 21,7
Khoảng 2-4 lần/tháng 3,6 5,4 7,4
Khoảng 2-3 lần/tuần 0,8 1,3 2,5
Khoảng 4 hoặc hơn 4 lần/tuần 0,3 0,3 0,0
Không nhớ 11,6 14,6 15,0
Nhận xét: Kết quả cho thấy tỷ lệ khá cao trong nhóm lái xe taxi, công nhân và thanh niên tham gia lớp
học cấp bằng lái lái xe sau khi uống rượu. Mặc dù tỷ lệ học sinh sinh viên trả lời lái xe sau khi uống vẫn còn
thấp (12,1% học sinh và 28,8% sinh viên) thì tỷ lệ này vẫn có thể gây ra những hậu quả đáng kể. Tỷ lệ rất cao
những người trong các nhóm đối tượng nghiên cứu khác nhau ngồi sau xe người say rượu chở. Trong khi tỷ
lệ lái xe khi uống rượu giữa các nhóm khác nhau thì tỷ lệ ngồi sau xe người say rượu chở giữa các nhóm này
lại không có sự khác biệt đáng kể.
65
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 6, số 5 - tháng 10/2016
JOURNAL OF MEDICINE AND PHARMACY
Bảng 6. Tần suất lái xe sau khi uống rượu bia của người quen
Học sinh Sinh viên Công nhân
Tần suất lái xe sau khi uống của một người bạn thân (%)
Chưa bao giờ 68,3 36,5 43,2
Khoảng 1 lần mỗi tháng hoặc ít hơn 25,7 45,8 37,4
Hàng tháng 3,2 11,0 10,0
Hàng tuần 1,8 5,1 6,7
Hàng ngày hoặc gần như hàng ngày 1,0 1,6 2,7
Tần suất lái xe sau khi uống của người trưởng thành sống trong cùng một nhà (%)
Chưa bao giờ 34,3 27,3 45,7
Khoảng 1 lần mỗi tháng hoặc ít hơn 46,7 49,4 39,0
Hàng tháng 8,2 11,8 6,7
Hàng tuần 8,3 9,6 7,6
Hàng ngày hoặc gần như hàng ngày 2,6 1,8 1,1
Nhận xét: Vẫn có một tỷ lệ đáng kể những người
được hỏi cho biết những người bạn thân hoặc người
lớn sống trong cùng một nhà lái xe sau khi uống
hàng tuần hoặc hàng ngày.
4. BÀN LUẬN
Phần lớn đối tượng nghiên cứu của chúng tôi là
học sinh trung học phổ thông và sinh viên. Sự phân
bố nam nữ trong quần thể nghiên cứu cũng không
quá khác biệt, tỷ lệ nữ giới cao hơn trong nhóm học
sinh trung học (15-17 tuổi) trong khi tỷ lệ nam giới
lại cao hơn trong nhóm thanh niên từ 18-25 tuổi.
Việc sử dụng phương tiện giao thông, xe đạp là
phương tiện di chuyển phổ biến nhất ở nhóm học
sinh trung học phổ thông, tiếp đến là xe máy <50
cc. Theo báo cáo của Uỷ ban An toàn giao thông
quốc gia năm 2016 [13], học sinh bậc THPT phần lớn
sử dụng xe đạp điện và xe máy điện làm phương
tiện di chuyển (52%), 7% sử dụng xe máy tham gia
giao thông khi chưa đủ tuổi. Trong nhóm sinh viên,
khoảng một nửa sử dụng xe đạp trong khi nửa còn
lại sử dụng xe máy làm phương tiện đi lại trong năm
vừa qua. Trong số công nhân và thanh niên (18-25
tuổi) tham gia lớp học cấp bằng lái xe, khoảng một
nửa có xe máy trong khi nửa kia sử dụng xe đạp hoặc
xe máy <50 cc.
Tai nạn giao thông đuờng bộ cũng là gánh nặng
kinh tế cho gia đình và cộng đồng. Theo Tổ chức Y
tế thế giới (WHO, 2010) thì ở hầu hết các nước có
mức thu nhập cao, khoảng 20% lái xe bị thương tích
dẫn dến tử vong có lượng cồn trong máu vuợt quá
giới hạn ở các nước có mức thu nhập thấp và trung
bình thì từ 33% - 69% lái xe bị thương tích tử vong,
8% - 29% lái xe bị các chấn thương không tử vong có
sử dụng rượu, bia trước khi xảy ra TNGT. Nghiên cứu
của chúng tôi cũng cho thấy trong vòng 3 năm qua
nhóm học sinh trung học có số lượng thương tích
cũng như cần chăm sóc y tế cao hơn các nhóm đối
tượng khác. Tỷ lệ các TNGT cần đến chăm sóc y tế
là cao ở cả 2 tỉnh và phần lớn các tai nạn giao thông
này đều ở mức độ nhẹ. Theo một nghiên cứu ở Thái
Lan về tai nạn xe máy trong đó chỉ có một người trên
phương tiện uống rượu thì 30 trong 40 trường hợp
tai nạn người điều khiển xe máy đã uống [9].
Độ tuổi lần đầu sử dụng rượu bia càng sớm là
một yếu tố dự đoán cho xu hướng uống rượu bia và
lái xe sau khi uống rượu bia trong thời gian sau này.
Trong một nghiên cứu theo dõi của khoảng 4.400
thanh thiếu niên ở Michigan trong khoảng 8 năm,
việc sử dụng rượu bia ở tuổi 15 có liên quan mật
thiết đến nguy cơ tai nạn giao thông sau này [16]
Về tình hình sử dụng rượu bia ở nhóm đối tượng
nghiên cứu, độ tuổi bắt đầu sử dụng rượu bia và
lần đầu tiên say rượu là khá trẻ, trung bình từ 15-19
tuổi. Và độ tuổi bắt đầu uống rượu bia của nhóm
đối tượng nghiên cứu ở tỉnh Bắc Giang thấp hơn
so với ở tỉnh Bình Thuận, không có sự khác biệt về
độ tuổi lần đầu say ở hai tỉnh. Tỷ lệ học sinh, sinh
viên và công nhân có sử dụng rượu bia trong nghiên
cứu của chúng tôi lần lượt là 25,9%, 61,1% và 55,5.
66
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 6, số 5 - tháng 10/2016
JOURNAL OF MEDICINE AND PHARMACY
Trong đó, nhóm lái xe taxi, công nhân và thanh niên
tham gia lớp học lái xe (18-25 tuổi) uống thường
xuyên hơn các nhóm khác. Theo kết quả nghiên
cứu ở Alberta, Canada, độ tuổi trung bình của trẻ
vị thành niên trong lần đầu uống rượu bia là 14
tuổi [2]. Thống kê của CDC (2010), 21,1% học sinh
sử dụng rượu bia lần đầu tiên khi chưa được 13
tuổi [5]. Các nghiên cứu về tình hình sử dụng rượu
bia ở nhóm đối tượng trẻ vị thành niên ở nước ta
cho thấy tỷ lệ cao hơn nhiều so với nghiên cứu của
chúng tôi. Theo báo cáo của Tổng cục thống kê và
Bộ Y tế Việt Nam [18], [19], tỷ lệ sử dụng rượu bia ở
vị thành niên, thanh niên và nữ giới Việt Nam đang
tăng nhanh và hiện ở mức rất cao. Tỷ lệ này đã tăng
gần 10% sau 5 năm (từ 51% năm 2003 lên 60% năm
2009). Năm 2008, trong 10.044 vị thành niên và
thanh niên trong độ tuổi 14-25 ở toàn quốc có tỷ
lệ chung những người được hỏi đã từng uống hết
1 chén rượu/ 1 cốc bia khá cao 58,6%, tỷ lệ này ở
nhóm tuổi 14-17, 18-21 và 22-25 lần lượt là 47,5%,
6,9% và 71,2%. Một nghiên cứu được thực hiên
tương tư cho tỷ lệ thanh thiếu niên lái xe oto, xe
máy sau khi uống rượu bia hoặc ngồi trên xe người
khác lái mà người đó vừa uống rượu bia cao nhất ở
nhóm 21-24 tuổi. [10]
Kết quả cho thấy số người được khảo sát uống
rượu bia và lái xe khi uống rượu chiếm tỉ lệ cao.
Phát hiện nam giới uống rượu bia chiếm tỉ lệ cao
trong nghiên cứu này cũng phù hợp với các kết luận
từ cuộc điều tra dịch tễ học do Giang và các đồng
nghiệp [7] tiến hành ở vùng nông thôn Việt Nam.
Theo nghiên cứu của chúng tôi, tần suất lái xe sau
khi uống rượu bia ở nhóm học sinh THPT là không
cao, 12,1%. Kết quả của chúng tôi cũng khá tương
đồng với nghiên cứu của Trần Thị Thanh Loan [16],
tỷ lệ sử dụng rượu bia khi tham gia giao thông ở
nhóm tuổi 15-17 tuổi chiếm tỷ lệ không đáng kể,
9,2%. Tương tự với kết quả của CDC (2010), 9,7%
học sinh THPT lái xe ô tô hoặc các phương tiện khác
sau khi sử dụng rượu bia [6]. Tuy nhiên, tỷ lệ này ở
nhóm công nhân lại rất cao, 64,3%. Có thể thấy việc
sử dụng rượu rất phổ biến và được xã hội chấp nhận
ở Việt Nam, nên thay vì chỉ nhắm vào hành vi uống
rượu lái xe, điều quan trọng hơn cần làm là kêu gọi
cách tiếp cận chiến lược và toàn diện hơn đối với
chính sách sử dụng bia rượu. Gần đây, chính phủ
Việt Nam đã giao nhiệm vụ cho Bộ Y tế soạn thảo
chính sách quốc gia về phòng chống và kiểm soát
tác hại của lạm dụng bia rượu. Điều quan trọng là
Chính sách quốc gia cần xem xét và tính đến những
biên pháp can thiệp hiệu quả và tiết kiệm, trong đó
biện pháp giảm lái xe uống rượu được ưu tiên hàng
đầu [3].
Hầu hết những người được phỏng vấn cho biết
tần suất lái xe sau khi uống rượu bia hoặc là hành
khách của người say rượu là khá cao. Đáng chú ý,
tỷ lệ tự báo cáo của hành vi lái xe sau khi uống ba
ly hoặc hơn rất lớn. Tỉ lệ này giải thích vì sao tỉ lệ tai
nạn giao thông liên quan đến bia rượu ở Việt Nam
lại cao [16] và cho thấy mức độ ảnh hưởng của bia
rượu [12] đến an toàn của người dân. Những con
số này trái ngược với những con số thu được ở các
nước phát triển. Ví dụ, ở Úc, 86,6-89,3% người dân
lên kế hoạch không uống rượu bia nếu lái xe, và
93,3-94,9% người dân sử dụng các phương tiện giao
thông thay thế nếu họ đã uống [4]. Có nhiều lý do
cho việc hiện tại tỉ lệ lái xe ở Việt Nam chấp hành
luật lái xe khi đã uống rượu bia còn thấp, trong đó
có lý do lực lượng cảnh sát giao thông phân bố quá
mỏng, đặc biệt là so với số lượng xe máy và thiếu
trang thiết bị cần thiết để đo độ cồn trong máu [1].
Theo luật, lái xe trong tình trạng bị ảnh hưởng của
rượu bia sẽ không được thanh toán bảo hiểm y tế
hoặc bảo hiểm bồi thường trong trường hợp xảy ra
tai nạn.
Tuy nhiên, tại các Khoa cấp cứu luôn quá tải của
các bệnh viện trên toàn quốc, bệnh nhân xét nghiệm
trong máu có cồn không được thường xuyên ghi
nhận. Do đó, bất kể các hình thức xử phạt và hệ quả
đã được quy định rõ trong luật, những bất lợi về
mặt luật pháp và xã hội vẫn không đủ để răn đe, chỉ
có một số lái xe nhận thức được pháp luật sẽ được
thực thi.
Tỷ lệ rất cao số người được khảo sát trong nghiên
cứu này cho biết bạn bè hoặc người thân trong gia
đình có hành vi lái xe sau khi uống rượu cũng khá
cao. Nelson và các đồng nghiệp đã chỉ ra rằng thái
độ và các yếu tố xã hội, bao gồm ảnh hưởng của
bạn bè và đặc biệt là người vợ/bạn gái có liên quan
đến việc tránh lái xe khi uống rượu đối với những lái
xe có nguy cơ say rượu cao. Gia tăng các biện pháp
phòng ngừa chung (ý thức đạo đức và xã hội hóa
thói quen đề phòng) cùng với sự gia tăng các biện
pháp ngăn ngừa (sợ bị phạt) cho thấy có thể giúp
kiểm soát việc lái xe trong tình trạng bị ảnh hưởng
bia rượu [11].
Nhiều nghiên cứu cũng đã cho thấy sự thay đổi
đáng kể của người dân trong quan niệm và thái độ
có liên quan đến những thay đổi về số tử vong do
tai nạn giao thông liên quan đến bia rượu. Đồng
thời, việc kiểm soát hành vi có thể giúp phòng ngừa
hành vi lái xe uống rượu ngay cả đối với những tài xế
nhiều lần phạm luật lái xe uống rượu. Chính vì vậy,
các can thiệp chính sách để ngăn chặn hành vi lái xe
uống rượu đang được khuyến khích để tăng cường
kiểm soát hành vi của nhóm đối tượng vi phạm [8].
67
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 6, số 5 - tháng 10/2016
JOURNAL OF MEDICINE AND PHARMACY
5. KẾT LUẬN
Tỷ lệ sử dụng rượu bia và lái xe sau khi sử dụng
rượu bia ở độ tuổi thanh thiếu niên là khá cao. Tuy
nhiên, việc nhấn mạnh hơn vào việc học dần dần kỹ
năng lái xe theo thời gian, được minh họa bằng luật
cấp phép lái xe đã làm giảm tỷ lệ tai nạn xe hơi giữa
các lái xe trẻ tuổi. Ngoài các luật lái xe nghiêm ngặt
hơn, các can thiệp vào chương trình với thanh thiếu
niên và cha mẹ có thể giúp giảm nguy cơ lái xe có
nguy cơ cao và tiêu cực
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Anh VM (2007), Policies on alcohol in Vietnam. Al-
cohol Policies: International Experience and the Case of
Vietnam Workshop; 2007; Hanoi; 2007.
2. Alberta Health Services (2014), Alcohol and Adoles-
cents, Alberta, Canada, 2014.
3. Anderson P, Chisholm D, Fuhr DC (2009), Effective-
ness and cost-effectiveness of policies and programmes
to reduce the harm caused by alcohol, The Lancet, 2009
2009/7/3/;373(9682):2234-46.
4. Baum S et al (2000), Drink driving as a social prob-
lem: comparing the attitudes and knowledge of drink driv-
ing offenders and the general community. Accid Anal Prev.
2000 09;32(5):689-94.
5. Center for Disease Control and Prevention- CDC
(2010), Youth Risk Behavior Surveillance – United State,
2009
6. Euromonitor International. Alcoholic Drinks -Viet-
nam: Euromonitor International (
tor.com); 2009.
7. Giang KB, Allebeck P, Spak F et al (2008), Alcohol
Use and Alcohol Consumption“Related Problems* in Ru-
ral Vietnam: An Epidemiological Survey Using AUDIT. Sub-
stance Use & Misuse. 2008;43(3-4):481-95.
8. Greenberg MD, Morral AR, Jain AK (2004), How Can
Repeat Drunk Drivers Be Influenced to Change? Analysis
of the Association between Drunk Driving and DUI Recid-
ivists’ Attitudes and Beliefs, Journal of Studies on Alcohol.
2004 07;65(4):460-3.
9. Kasantikul V, Ouellet J, Smith T (2005), The role of
alcohol in Thailand motorcycle crashes. Accid Anal Prev.
2005;37:357-66.
10. Trần Thị Thanh Loan (2011), Thực trạng sử dụng
rượu bia trong thanh thiếu niên Hà Nội, Luận văn thạc sĩ
xã hội học, trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn
Hà Nội
11. McCartt AT, Hellinga LA, Wells JK. Effects of a Col-
lege Community Campaign on Drinking and Driving with a
Strong Enforcement Component. Traffic Injury Prevention.
2009;10(2):141-7.
12. Midanik LT, Room R. Epidemiology of alco-
hol consumption. Alcohol Health and Research World.
1992;16(3):183-90.
13. Chu Công Minh (2016), Nghiên cứu về tình hình
tham gia giao thông của học sinh trung học phổ thông tại
Hà Nội và đề xuất giải pháp cải thiện”, Báo cáo Uỷ ban
ATGT quốc gia năm 2016.],
14. Nhung N, Vos T (2010), Vietnam Burden of Dis-
ease and Injury Study. Hanoi: University of Queensland;
2010.
15. Schell TL, Chan KS, Morral AR (2006), Predict-
ing DUI recidivism: personality, attitudinal, and behav-
ioral risk factors. Drug & Alcohol Dependence. 2006
03/15/;82(1):33-40.
16. Shope J.T., Waller P.F., Raghunathan T.E. (2001.)
Adolescent antecedents of high-risk driving behavior into
young adulthood: substance use and parental influences.
Accident Analysis and Prevention, 33, 649-658
17. Tam N, Linh P, Hue D, Trang T, Dunne M, Young
R, et al. Traffic Injuries After Alcohol Consumption in Cen-
tral Vietnam: Perceptions and Risk. The 2nd Asia Pacific
Injury Prevention Conference Hanoi: Ministry of Health,
Vietnam 2008.
18. Tổng Cục thống kê & Bộ Y tế, Báo cáo điều tra
thanh thiếu niên Việt Nam năm 2003 (SAVY 1);
19. Tổng Cục thống kê & Bộ Y tế, Báo cáo điều tra
thanh thiếu niên Việt Nam năm 2009 (SAVY 2)
Các file đính kèm theo tài liệu này:
so_sanh_ty_le_su_dung_ruou_bia_va_lai_xe_sau_uong_ruou_bia_o.pdf