Nghiên cứu này cũng cho thấy tỷ lệ thừa cân
và béo phì ở trẻ vị thành niên khác nhau giữa
hai giới. Có nhiều lý do để giải thích cho hiện
tượng này. Đó có thể là sự khác biệt trong hoạt
động thể lực và cả thói quen ăn uống(18,19). Ngoài
ra, trẻ nữ thường có xu hướng chú ý đến hình
dáng bên ngoài nên sẽ cố gắng có vóc dáng
“thon thả” hơn trẻ nam(14,10). Một nghiên cứu về
nhận thức của bản thân đối với cân nặng của
mình trên học sinh Mỹ gốc Việt cũng thấy rằng
nữ có xu hướng tự cho là mình bị thừa cân trong
khi trên thực tế không phải như vậy(2). Cần có
nhiều nghiên cứu thêm, bao gồm cả nghiên cứu
định tính để hiểu thêm về khía cạnh văn hóa của
hiện tượng này ở trẻ vị thành niên TPHCM.
Tóm lại, như tác giả Shields va Tremblay
phát biểu “khi diễn giải tỷ lệ thừa cân và béo phì
ở trẻ em và trẻ vị thành niên, cần phải lưu ý đến
định nghĩa đã sử dụng và phương pháp thu
thập số liệu”(16). Việc sử dụng hai chuẩn đánh
giá quốc tế khác nhau để định nghĩa thừa cân và
béo phì ở trẻ em đưa đến sự khác biệt trong các
tỷ lệ thừa cân và béo phì. Ở thời điểm này, điểm
cắt của IOTF vẫn thích được sử dụng hơn vì dễ
so sánh với số liệu của nhiều nước. Tuy nhiên,
việc sử dụng điểm cắt BMI theo IOTF có thể ước
lượng thấp mức độ thừa cân và béo phì ở trẻ em.
Cần có thêm nghiên cứu để đánh giá nguy cơ
sức khỏe liên quan đến các điểm cắt BMI của trẻ
em theo IOTF và theo WHO.
6 trang |
Chia sẻ: huongthu9 | Lượt xem: 558 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu So sánh tỷ lệ thừa cân-Béo phì đánh giá bằng chuẩn BMI theo tuổi của who và điểm cắt BMI theo IOTF, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012 Nghiên cứu Y học
Hội nghị Khoa Học Kỹ Thuật Trường Đại Học Y Phạm Ngọc Thạch 2012 155
SO SÁNH TỶ LỆ THỪA CÂN-BÉO PHÌ ĐÁNH GIÁ BẰNG CHUẨN BMI
THEO TUỔI CỦA WHO VÀ ĐIỂM CẮT BMI THEO IOTF
Tăng Kim Hồng*
TÓM TẮT
Mục tiêu: Nghiên cứu này nhằm so sánh việc sử dụng hai bộ số liệu để xác định thừa cân và béo phì ở trẻ
em và trẻ vị thành niên bằng cách tạo ra các đường cong tăng trưởng dựa vào điểm cắt của IOTF và WHO và
bằng cách so sánh tỷ lệ thừa cân và béo phì theo định nghĩa của IOTF và WHO dựa vào số liệu của nghiên cứu
cắt ngang năm 2004.
Phương pháp: Chúng tôi dùng dữ liệu có các giá trị L, M, S đã được công báo của của IOTF và WHO để
tính các điểm z-score của trẻ em và trẻ vị thành niên. Số liệu của mẫu đại diện ngẫu nhiên gồm 2660 trẻ vị thành
niên (1332 nam, 1328 nữ) tuổi từ 11 đến 16 được dùng để ước lượng tỷ lệ thừa cân và béo phì.
Kết quả: Các đường cong tạo từ điểm cắt BMI của IOTF để xác định thừa cân và béo phì luôn luôn nằm cao
hơn các đường cong tạo từ điểm cắt với số liệu tham chiếu của WHO ở cả hai giới cho cả thừa cân lẫn béo phì. Tỷ
lệ thừa cân nếu dùng các điểm cắt của WHO thì cao hơn tỷ lệ thừa cân được xác định bằng các điểm cắt của
IOTF. Có sự khác biệt có ý nghĩa trong tỷ lệ thừa cân và béo phì giữa nam và nữ dù theo chuẩn của IOTF hay
chuẩn của WHO.
Kết luận: Việc sử dụng điểm cắt BMI theo IOTF có thể ước lượng thấp mức độ thừa cân và béo phì ở trẻ em
và trẻ vị thành niên.
Từ khóa: điểm cắt, chuẩn đánh giá tăng trưởng, trẻ vị thành niên.
SUMMARY
PREVALENCE OF OVERWEIGHT-OBESITY AMONG ADOLESCENTS OF HCMC: COMPARISON
BETWEEN WHO AND IOTF REFERENCES
Tang Kim Hong * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 16 - Supplement of No 1 - 2012: 155 - 160
Objective: To compare the performance of the two data sets in defining overweight and obesity in children
and adolescents by plotting the International Obesity Task Force (IOTF) cut-offs against WHO curves and by
comparing the prevalence of overweight and obesity, as defined by IOTF reference and by the WHO standard,
using 2004 cross-sectional data from Ho Chi Minh City, Vietnam.
Methods: We used published data on L, M, S values of IOTF and WHO to calculate the exact Z-scores in
children and adolescents. Data of a random representative sample of 2660 adolescents (1332 boys; 1328 girls) aged
11–16 years were also used to estimate the prevalence of overweight and obesity.
Results: The curves for the IOTF BMI cut-offs for overweight were consistently higher than similar cut-offs
from the WHO growth reference for both overweight and obesity in both genders. The prevalence of overweight
and obesity using WHO cut-offs was higher than that of IOTF cut-offs. There were significant differences in
overweight and obesity prevalence between boys and girls according IOTF reference and WHO standard.
Conclusion: Use of IOTF BMI cut-offs to define overweight and obesity may underestimate the extent of
overweight and obesity in children and adolescent populations.
Key words: Cut-offs, growth reference, adolescents.
* Bộ môn Dịch tễ học Cơ bản – Dân số học, Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch
Tác giả liên lạc: TS.BS. Tăng Kim Hồng ĐT: 0903350503 Email: hongutc@yahoo.com
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012
Hội nghị Khoa Học Kỹ Thuật Trường Đại Học Y Phạm Ngọc Thạch 2012 156
ĐẶT VẤN ĐỀ
Tình trạng thừa cân-béo phì ở trẻ em đang
gia tăng rất nhiều, đặc biệt ở các nước có nền
kinh tế phát triển(12,20). Theo ước tính của các
chuyên gia quốc tế thì khoảng 10% trẻ em trong
độ tuổi đi học trên thế giới là bị thừa cân và ¼
trong số đó là bị béo phì(12). Số liệu gần đây cho
thấy ở châu Âu 31,8% học sinh là bị thừa cân
trong đó 7,9% là bị béo phì, trong đó vùng Nam
Âu có tỷ lệ tương đối cao hơn(13,9). Béo phì sẽ làm
gia tăng nguy cơ của các bệnh mãn tính như rối
loạn lipid máu, cao huyết áp, bệnh mạch vành,
kháng insulin và đái tháo đường. Hơn nữa, béo
phì cũng ảnh hưởng không ít đến sự phát triển
tâm, sinh lý của trẻ(8). Ngoài ra, khoảng 1/3 trẻ
em bị thừa cân và ½ trẻ vị thành niên bị thừa cân
sẽ trở thành béo phì ở tuổi trưởng thành(20,17). Vì
vậy, việc can thiệp để phòng ngừa thừa cân-béo
phì ở mọi độ tuổi cần phải xem là một trong
những công tác ưu tiên hàng đầu của ngành y tế
công cộng.
BMI là một chỉ số được sử dụng rộng rãi và
thiết thực để xác định tình trạng thừa cân-béo
phì ở trẻ em và trẻ vị thành niên trong các cuộc
điều tra. Tuy nhiên, trên thực tế, cho đến nay
chúng ta vẫn chưa có một chuẩn đánh giá thống
nhất cho thừa cân-béo phì ở trẻ em. Một số quốc
gia sử dụng các đường cong tăng trưởng của
Trung tâm Phòng ngừa và Kiểm soát bệnh tật
(Centers for Disease Control and Prevention –
CDC) Hoa kỳ, với số liệu thu thập từ các cuộc
điều tra năm 1963 và 1994(11).
Một chuẩn đánh giá khác được một nhóm
chuyên gia của Tổ chức hành động vì béo phì
Quốc tế (International Obesity Task Force –
IOTF) khuyến cáo từ năm 2000 là sử dụng các
điểm cắt BMI theo tuổi và giới của Tim Cole(3).
Các điểm cắt này được xây dựng từ số liệu của
sáu quốc gia đại diện: Anh, Braxin, Hà lan,
Hồng kông, Mỹ và Sing-ga-po. Mặc dù được sử
dụng rộng rãi, nhưng những điểm cắt theo IOTF
này có một số hạn chế: Thứ nhất, đó chỉ có
những điểm cắt tương ứng với BMI 25 và 30
kg/m2 ở người lớn. Thứ hai, các đường cong
LMS làm số liệu tham chiếu cho việc tạo nên các
điểm cắt BMI chưa được công bố, vì vậy gây
khó khăn trong việc tạo ra các điểm cắt khác.
Chuẩn đánh giá thứ ba được sử dụng từ
năm 2006, khi tổ chức y tế thế giới (World
Health Organization – WHO) công bố chuẩn
tăng trưởng mới cho trẻ em dưới 5 tuổi trên thế
giới, với các biểu đồ tăng tưởng BMI theo
tuổi(22). Đến năm 2007, WHO công bố các chuẩn
tăng trưởng cho trẻ từ 5 đến 19 tuổi(7).
Trong những năm gần đây, chuẩn đánh giá
của IOTF và WHO (2007) được sử dụng phổ
biến do kết quả dễ so sánh với số liệu của nhiều
nước trên thế giới. Mục đích của bài báo này là
nhằm so sánh các đường cong tăng trưởng theo
điểm cắt của IOTF và WHO, đồng thời so sánh
tỷ lệ trẻ thừa cân và béo phì khi sử dụng chuẩn
đánh giá của IOTF và WHO, để từ đó khuyến
cáo phương pháp thích hợp, áp dụng cho đánh
giá thừa cân-béo phì ở trẻ em Việt Nam.
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu này sử dụng dữ liệu đã được
công bố về giá trị L, M, S của IOTF(5) và WHO(22,7)
để phân tích. Các đường cong BMI bách phân vị
được vẽ theo phương pháp LMS(5). Trong
phương pháp LMS, các số liệu được tổng hợp
thành đường cong phân vị theo tuổi và giới dựa
trên 3 đường cong đại diện cho độ lệch của BMI
(L – Lambda), trung vị BMI (M – Mu) và hệ số
thay đổi của BMI (S – Sigma). Khi có các giá trị
L, M, S, chúng ta sẽ tính được các điểm trên
đường cong phân vị và các điểm z tương ứng
với từng điểm phân vị theo công thức sau:
(4)
Trong bài báo này chúng tôi cũng sử dụng
số liệu của nghiên cứu cắt ngang của 2600 học
sinh cấp 2 TPHCM (được thu thập vào năm
2004)(18) để làm thí dụ minh họa cho việc tính tỷ
lệ thừa cân và béo phì sử dụng định nghĩa của
IOTF và WHO. Phần mềm Stata v.12.0 với lệnh
“egen” và chức năng “zbmicat” được sử dụng
để xác định trẻ thừa cân và trẻ béo phì theo tiêu
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012 Nghiên cứu Y học
Hội nghị Khoa Học Kỹ Thuật Trường Đại Học Y Phạm Ngọc Thạch 2012 157
chuẩn đánh giá của IOTF. Đối với việc đánh giá
theo chuẩn của WHO, các chuyên gia khuyến
cáo rằng trẻ có BMI > 2 độ lệch chuẩn (+2 SDs)
(tương ứng với 97,7 percentile) thì được xếp loại
là béo phì, còn trẻ có BMI từ 1 đến 2 SDs (+1 SD)
(tương ứng với 84 percentile) thì được xếp loại
là thừa cân. Đầu tiên, chức năng “zanthro” được
sử dụng để tính các giá trị z-score, sau đó, phân
loại thừa cân và béo phì dựa theo các điểm cắt
được khuyến cáo như trên. Số liệu về tình trạng
thừa cân-béo phì được trình bày dưới dạng tỷ lệ
(với khoảng tin cậy 95%) và phép kiểm Chi-bình
phương được sử dụng để so sánh sự khác biệt
theo giới.
KẾT QUẢ
Để so sánh điểm cắt BMI của IOTF và WHO,
các đường cong BMI theo tuổi của trẻ nam và
nữ được thể hiện với số liệu tham chiếu
(reference data) đã được công bố của IOTF và
WHO. Do tiêu chuẩn đánh giá thừa cân-béo phì
của IOTF chỉ khu trú ở trẻ từ 2 đến 18 tuổi nên
đường cong BMI theo tuổi của IOTF chỉ thể hiện
ở độ tuổi này. Ở mốc 18 tuổi, điểm cắt để xác
định thừa cân của IOTF (25 kg/m2) và WHO
(+1SD) trùng nhau, trong khi điểm cắt để xác
định béo phì của IOTF (30 kg/m2) cao hơn của
WHO (+2SD). Nhìn chung, ở các lớp tuổi khác
nhau, các điểm cắt để xác định thừa cân và béo
phì của IOTF luôn cao hơn của WHO (Hình 1 và
Hình 2).
Hình 1. So sánh các đường cong BMI theo tuổi để xác định thừa cân và béo phì của IOTF và WHO 2007 ở
trẻ nam
Ở trẻ nữ, đường cong xác định thừa cân của
IOTF gần trùng với đường cong xác định thừa
cân của WHO trong khi ở trẻ nam, đường cong
xác định thừa cân của IOTF cao hơn đường
cong của WHO nhiều.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012
Hội nghị Khoa Học Kỹ Thuật Trường Đại Học Y Phạm Ngọc Thạch 2012 158
B
M
I
(k
g/
m
2
)
Hình 2. So sánh các đường cong BMI theo tuổi để xác định thừa cân và béo phì của IOTF và WHO 2007 ở
trẻ nữ
Bảng 1 trình bày tỷ lệ thừa cân và béo phì ở
trẻ vị thành niên trong cuộc điều tra cắt ngang
năm 2004. Trong bảng này ta thấy nếu sử dụng
điểm cắt BMI chuyên biệt theo tuổi và giới của
IOTF thì tỷ lệ thừa cân và béo phì ở trẻ vị thành
niên thấp hơn: tỷ lệ thừa cân với điểm cắt của
IOTF là 11,7% nhưng nếu dùng chuẩn của WHO
thì tỷ lệ này là 15,6%. Tỷ lệ béo phì nếu dùng
điểm cắt của IOTF là 2,1% nhưng nếu dùng
chuẩn WHO là 2,4%. Xu hướng này được thấy ở
cả hai giới, tỷ lệ thừa cân dùng với điểm cắt
IOTF cho kết quả thấp hơn nếu dùng với chuẩn
của WHO, nhưng tỷ lệ béo phì dùng với điểm
cắt IOTF cho kết quả cao hơn. Tỷ lệ thừa cân và
béo phì ở trẻ nam luôn cao hơn ở trẻ nữ.
Bảng 1. Tỷ lệ thừa cân ở trẻ vị thành niên TPHCM, Việt Nam năm 2004 theo giới tính khi sử dụng các giá trị
điểm cắt BMI theo tuổi của IOTF & của WHO
Boys (n=1332) Girls (n=1328) Total (n=2660)
n % (KTC 95%) n % (KTC 95%) n % (KTC 95%)
IOTF
Thừa cân
Béo phì
245
16
16,1 (13,1 – 19,2)
3,1
(2,0 – 4,2)
109
46
7,2 (5,6 – 8,8)
1,0
(0,4 – 1,6)
354
62
11,7
(10,0 – 13,3)
2,1
(1,5 – 2,6)
WHO
Thừa cân
Béo phì
321
47
21,9
(18,4 – 25,4)
3,5
(1,2 – 4,1)
143
21
9,3
(7,4 – 11,3)
1,6
(0,2 – 2,3)
464
63
15,6
(13,7 – 17,5)
2,4
(1,0 – 2,9)
BÀN LUẬN
Cho đến nay, các chuẩn đánh giá thừa cân-
béo phì quốc tế được sử dụng rộng rãi và giúp
ích rất nhiều cho việc so sánh giữa các nghiên
cứu, các quốc gia, cũng như giám sát xu hướng
thừa cân-béo phì trên toàn cầu, tuy nhiên chưa
có bằng chứng kết luận nào cho thấy các chuẩn
đánh giá này có giá trị cho các nước đang phát
triển(21). Nghiên cứu này mô tả tỷ lệ trẻ vị thành
niên thừa cân và béo phì dựa vào chuẩn đánh
giá của IOTF và của WHO. Chuẩn đánh giá của
WHO cho tỷ lệ trẻ thừa cân và béo phì cao hơn
chuẩn đánh giá IOTF. Cũng như nhiều nghiên
cứu khác, tỷ lệ thừa cân-béo phì luôn cao hơn
khi dùng chuẩn WHO(15,1,6,16). Sự khác biệt về các
tỷ lệ thừa cân và béo phì ở trẻ em và trẻ vị thành
niên thường là do sự khác biệt về mẫu khảo sát
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012 Nghiên cứu Y học
Hội nghị Khoa Học Kỹ Thuật Trường Đại Học Y Phạm Ngọc Thạch 2012 159
mà dựa vào đó các điểm cắt được xây dựng,
phương pháp được sử dụng để vẽ các đường
cong tăng trưởng và tiêu chuẩn được sử dụng
để xác định các điểm cắt. Đường cong tăng
trưởng của WHO cho trẻ 0 đến 5 tuổi dựa trên
dân số chuẩn hơn là dân số tham chiếu(7). Do đó,
đường cong này chủ yếu mô tả trẻ nên phát
triển thế nào chứ không phải mô tả trẻ đang
phát triển thế nào. Ngược lại, đường cong tăng
trưởng của IOTF (và cả của CDC) được xây
dựng dựa trên dân số tham chiếu (là các mẫu
đại diện của các nước được chọn) và các đường
cong này phản ánh sự tăng trưởng của trẻ.
Ngoài ra, phân loại thừa cân-béo phì của WHO
cũng còn có vấn đề cần lưu ý: Đối với trẻ dưới 5
tuổi, nếu trẻ có BMI > 1SD được phân loại là “có
nguy cơ thừa cân”, > 2SD được xem là thừa cân
và > 3SD là béo phì. Tuy nhiên với trẻ trên 5
tuổi, đường cong BMI ở độ tuổi 19 gần trùng
với chẩn đoán thừa cân ở người lớn (BMI 25) khi
> 1SD, và chẩn đoán béo phì ở người lớn (BMI
30) khi > 2SD. Do đó, điều này sẽ gây ra sự bất
cập khi một đứa trẻ lúc 59 tháng tuổi thì được
chẩn đoán là thừa cân, nhưng chỉ một tháng sau,
cũng với BMI z-score đó, lại được chẩn đoán là
béo phì.
Nghiên cứu này cũng cho thấy tỷ lệ thừa cân
và béo phì ở trẻ vị thành niên khác nhau giữa
hai giới. Có nhiều lý do để giải thích cho hiện
tượng này. Đó có thể là sự khác biệt trong hoạt
động thể lực và cả thói quen ăn uống(18,19). Ngoài
ra, trẻ nữ thường có xu hướng chú ý đến hình
dáng bên ngoài nên sẽ cố gắng có vóc dáng
“thon thả” hơn trẻ nam(14,10). Một nghiên cứu về
nhận thức của bản thân đối với cân nặng của
mình trên học sinh Mỹ gốc Việt cũng thấy rằng
nữ có xu hướng tự cho là mình bị thừa cân trong
khi trên thực tế không phải như vậy(2). Cần có
nhiều nghiên cứu thêm, bao gồm cả nghiên cứu
định tính để hiểu thêm về khía cạnh văn hóa của
hiện tượng này ở trẻ vị thành niên TPHCM.
Tóm lại, như tác giả Shields va Tremblay
phát biểu “khi diễn giải tỷ lệ thừa cân và béo phì
ở trẻ em và trẻ vị thành niên, cần phải lưu ý đến
định nghĩa đã sử dụng và phương pháp thu
thập số liệu”(16). Việc sử dụng hai chuẩn đánh
giá quốc tế khác nhau để định nghĩa thừa cân và
béo phì ở trẻ em đưa đến sự khác biệt trong các
tỷ lệ thừa cân và béo phì. Ở thời điểm này, điểm
cắt của IOTF vẫn thích được sử dụng hơn vì dễ
so sánh với số liệu của nhiều nước. Tuy nhiên,
việc sử dụng điểm cắt BMI theo IOTF có thể ước
lượng thấp mức độ thừa cân và béo phì ở trẻ em.
Cần có thêm nghiên cứu để đánh giá nguy cơ
sức khỏe liên quan đến các điểm cắt BMI của trẻ
em theo IOTF và theo WHO.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Baya BA, Perez-Cueto FJ, Vasquez Monllor PA, Kolsteren PW.
(2010) International BMI-for-age references underestimate
thinness and overestimate overweight and obesity in Bolivian
adolescents. Nutr Hosp. (Comparative Study Research Support,
Non-U.S. Gov't). 25(3):428-36.
2. Choi J, Hwang J, Yi J. (2011) Acculturation, Body Perception, and
Weight Status Among Vietnamese American Students. Journal
of Immigrant and Minority Health:1-9.
3. Cole TJ, Bellizzi MC, Flegal KM, Dietz WH. (2000) Establishing a
standard definition for child overweight and obesity worldwide:
international survey. BMJ. 6;320(7244):1240-3.
4. Cole TJ, Green PJ. (1992) Smoothing reference centile curves: the
LMS method and penalized likelihood. Stat Med. 11(10):1305-19.
5. Cole TJ. (1990) The LMS method for constructing normalized
growth standards. Eur J Clin Nutr. 44(1):45-60.
6. de Onis M, Lobstein T. (2010) Defining obesity risk status in the
general childhood population: Which cut-offs should we use?
International Journal of Pediatric Obesity;5(6):458-60.
7. de Onis M, Onyango AW, Borghi E, Siyam A, Nishida C,
Siekmann J. (2007) Development of a WHO growth reference
for school-aged children and adolescents. Bull World Health
Organ. 85(9):660-7.
8. Dietz WH. (1998) Health consequences of obesity in youth:
childhood predictors of adult disease. Pediatrics. 101(3 Pt 2):518-
25.
9. Janssen I, Katzmarzyk PT, Boyce WF, Vereecken C, Mulvihill C,
Roberts C, et al. (2005) Comparison of overweight and obesity
prevalence in school-aged youth from 34 countries and their
relationships with physical activity and dietary patterns. Obesity
Reviews;6(2):123-32.
10. Kilpatrick M, Ohannessian C, Bartholomew JB. (1999)
Adolescent weight management and perceptions: an analysis of
the National Longitudinal Study of Adolescent Health. J Sch
Health. 69(4):148-52.
11. Kuczmarski RJ, Ogden CL, Grummer-Strawn LM, Flegal KM,
Guo SS, Wei R, et al. (2000) CDC growth charts: United States.
Adv Data. 8(314):1-27.
12. Lobstein T, Baur L, Uauy R. (2004) Obesity in children and
young people: a crisis in public health. Obes Rev. May;5 Suppl
1:4-85.
13. Lobstein T, Frelut ML. (2003) Prevalence of overweight among
children in Europe. Obes Rev;4(4):195-200.
14. McElhone S, Kearney JM, Giachetti I, Zunft HJ, Martinez JA.
(1999) Body image perception in relation to recent weight
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012
Hội nghị Khoa Học Kỹ Thuật Trường Đại Học Y Phạm Ngọc Thạch 2012 160
changes and strategies for weight loss in a nationally
representative sample in the European Union. Public Health
Nutr. 2(1A):143-51.
15. Pedrosa C, Correia F, Seabra D, Oliveira BM, Simoes-Pereira C,
Vaz-de-Almeida MD. (2009) Prevalence of overweight and
obesity among 7-9-year-old children in Aveiro, Portugal:
comparison between IOTF and CDC references. Public Health
Nutrition. (Comparative Study Research Support, Non-U.S.
Gov't). 14(1):14-9.
16. Shields M, Tremblay MS. (2010) Canadian childhood obesity
estimates based on WHO, IOTF and CDC cut-points.
International Journal of Pediatric Obesity.5(3):265-73.
17. Singh AS, Mulder C, Twisk JW, van Mechelen W, Chinapaw MJ.
(2008) Tracking of childhood overweight into adulthood: a
systematic review of the literature. Obes Rev. 9(5):474-88.
18. Tăng Kim Hồng và cộng sự. (2010) Factors associated with
adolescent overweight/obesity in Ho Chi Minh city. Int J Pediatr
Obes. 5(5):396-403.
19. Tăng Kim Hồng và cộng sự. (2009) Factors associated with
physical inactivity in adolescents in Ho Chi Minh City, Vietnam.
Med Sci Sports Exerc. 41(7):1374-83.
20. Wang Y, Lobstein T. (2006) Worldwide trends in childhood
overweight and obesity doi:10.1080/17477160600586747.
International Journal of Pediatric Obesity;1(1):11-25.
21. Wang Y, Monteiro C, Popkin BM. (2002) Trends of obesity and
underweight in older children and adolescents in the United
States, Brazil, China, and Russia. Am J Clin Nutr. 2002 June
1;75(6):971-7.
22. Who Multicentre Growth Reference Study G, de Onis M. (2006)
WHO Child Growth Standards based on length/height, weight
and age. Acta Pædiatrica.;95:76-85.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- so_sanh_ty_le_thua_can_beo_phi_danh_gia_bang_chuan_bmi_theo.pdf