Sổ tay về tự do hóa dịch vụ chuyên nghiệp qua thừa nhận lẫn nhau trong Asean - Dịch vụ kỹ thuật

Dựa trên thảo luận đề cập ở trên, chúng tôi đƣa ra những khuyến nghị nhƣ sau: a. ASEAN và AMS sẽ cần tìm ra mô hình tốt nhất để tăng cƣờng hơn nữa sự di chuyển của các nhà cung cấp dịch vụ chuyên nghiệp trong ASEAN. Cuốn Sổ tay này thảo luận về 4 mô hình khác nhau của sự thừa nhận lẫn nhau, trong đó mô hình của EU/TTMRA và NAFTA có thể đƣợc coi là những quy trình tốt nhất. Mô hình của EU, mà trên đó TTMRA đƣợc lập nên, có thể không phù hợp cho ASEAN do sự khác biệt và khoảng cách trong sự sẵn sàng về mặt kinh tế và tr nh độ năng lực của các chuyên viên trong ASEAN. TTMRA bao gồm Australia và New Zealand, hai quốc gia chia sẻ nhiều điểm chung về di sản, văn hóa, ngôn ngữ và hệ thống giáo dục. EU cũng bao hàm các quy định pháp lý bắt buộc trong một thị trƣờng tích hợp chặt chẽ mà trong đó hai quyền tự do song song là thành lập và cung cấp dịch vụ đƣợc ghi nhận trong một hiệp ƣớc chịu sự ràng buộc bởi các phán quyết của một tòa án công lý siêu quốc gia. b. Các quốc gia Thành viên ASEAN đƣợc cho là thiên về mô h nh đƣợc phát triển bởi các Bên trong NAFTA, nhằm nhóm lại các nƣớc với những bối cảnh đa dạng cùng nhau. Các MRAs của ASEAN đã học tập theo mô hình MRA của NAFTA trong việc sử dụng phƣơng thức tiếp cận theo ngành thay vì tiếp cận chung chung nhƣ trong mô hình của EU. Trong khi mô phỏng mô hình NAFTA, AMS sẽ phải cấp cho các chuyên viên đƣợc đăng bạ thị thực lao động đủ dài để họ có thể ký kết đƣợc một hợp đồng dịch vụ đầu tiên hoặc làm việc ổn định lâu dài ở một AMS khác và sở hữu những văn bằng đƣợc công nhận. Điều này có nghĩa là sự thừa nhận đối với các văn bằng có thể giúp dẫn tới sự tự do di chuyển theo Hiệp định MNP nếu một ngƣời có thể t m đƣợc một công việc hợp đồng tạm thời ở một quốc gia Thành viên ASEAN khác. Vì vậy, việc cấp thị thực và các thủ tục liên quan tới công việc tạm thời nên đƣợc tự động thực hiện chứ không phải là một cản trở đối với sự di chuyển thể nhân theo Phƣơng thức 4.

pdf109 trang | Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 12/01/2022 | Lượt xem: 265 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Sổ tay về tự do hóa dịch vụ chuyên nghiệp qua thừa nhận lẫn nhau trong Asean - Dịch vụ kỹ thuật, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ột mục tiêu chính của công ty là cung cấp dịch vụ kỹ thuật chuyên nghiệp;  Có vốn thực góp là 500000 đô la Singapore, một bản điều lệ hoạt động trong đó quy định rằng đa số các giám đốc sẽ phải là những kỹ sƣ chuyên nghiệp đƣợc đăng bạ hoặc chuyên viên liên kết;  Một giám đốc là kỹ sƣ chuyên nghiệp đƣợc đăng bạ với chứng chỉ hành nghề hợp lệ có trách nhiệm trong việc kiểm soát và quản lý công việc kỹ thuật chuyên nghiệp ở Singapore; và  Bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp. Một công ty đại chúng đƣợc cấp phép sẽ phải thỏa mãn những yêu cầu sau:  Một thỏa thuận thành lập nêu rõ một mục tiêu chính của công ty là cung cấp dịch vụ kỹ thuật chuyên nghiệp;  Một bản điều lệ hoạt động trong đó quy định rằng đa số các giám đốc sẽ phải là những kỹ sƣ chuyên nghiệp đƣợc đăng bạ hoặc chuyên viên liên kết và chỉ duy nhất một giám đốc, quản lý hoặc nhân viên của công ty đó sẽ là một thành viên của công ty; và  Một giám đốc là kỹ sƣ chuyên nghiệp đƣợc đăng bạ với chứng chỉ hành nghề hợp lệ có trách nhiệm trong việc kiểm soát và quản lý công việc kỹ thuật chuyên nghiệp ở Singapore. Một hợp danh đa ngành đƣợc cấp phép sẽ bao gồm chỉ những kỹ sƣ chuyên nghiệp đƣợc đăng bạ và các chuyên viên liên kết với chứng chỉ hành nghề hợp lệ, cùng với những ngƣời có lợi ích trực tiếp trong các tài sản vốn và lợi nhuận của hợp danh đó. Công việc kỹ thuật chuyên nghiệp ở Singapore sẽ nằm dƣới sự kiểm soát và quản lý của một thành viên hợp danh là kỹ sƣ chuyên nghiệp đã đăng ký với chứng chỉ hành nghề hợp lệ Một hợp danh trách nhiệm hữu hạn (LLP) đƣợc cấp phép sẽ phải thỏa mãn những yêu cầu sau:  Một thông cáo đƣợc đƣa ra dựa trên cơ sở Đạo luật LLP nêu rõ một mục tiêu kinh doanh chính của LLP đó là cung cấp dịch vụ kỹ thuật chuyên nghiệp;  Ít nhất một trong số các thành viên hợp danh của LLP đó phải là một kỹ sƣ chuyên nghiệp đƣợc đăng bạ có chứng chỉ hành nghề còn hiệu lực và các thành viên hợp Sổ tay về Tự do hóa Dịch vụ nghề nghiệp thông qua thừa nhận lẫn nhau trong ASEAN : Dịch vụ Kỹ thuật 87 danh khác là các kỹ sƣ chuyên nghiệp đƣợc đăng bạ hoặc chuyên viên liên kết với từng ngƣời đều có chứng chỉ hành nghề còn hiệu lực hoặc các công ty và LLP đƣợc cấp phép theo Đạo luật PE, Đạo luật Kiến trúc sƣ hoặc Đạo luật Kỹ sƣ định giá hoặc Đạo luật Giám định viên địa chính nếu có;  Một thành viên hợp danh là kỹ sƣ chuyên nghiệp đƣợc đăng bạ với chứng chỉ hành nghề hợp chịu trách nhiệm trong việc kiểm soát và quản lý công việc kỹ thuật chuyên nghiệp ở Singapore; và bảo hiểm đối với trách nhiệm nghề nghiệp. Tất cả công ty nội bộ hoặc LLP đƣợc cấp phép phải đƣợc bảo hiểm đối với trách nhiệm cho bất cứ vi phạm trách nhiệm nghề nghiệp nảy sinh trong quá trình tiến hành công việc kinh doanh của nó là cung cấp dịch vụ kỹ thuật chuyên nghiệp. 3.10. Thái Lan 3.10.1. Luật điều chỉnh kỹ thuật chuyên nghiệp Dịch vụ kỹ thuật chuyên nghiệp ở Thái Lan đƣợc điều chỉnh và kiểm soát bởi các quy định trong Đạo luật Kỹ sƣ, B.E. 2542 (1999) (gọi tắt là “Đạo luật Kỹ sƣ”). Đạo luật Kỹ sƣ quy định về việc đăng bạ của kỹ sƣ chuyên nghiệp, điều chỉnh các tiêu chuẩn chuyên môn và hoạt động của kỹ sƣ chuyên nghiệp cùng với các công ty cung cấp dịch vụ kỹ thuật chuyên nghiệp ở Thái Lan. Theo Đạo luật này, “nghề nghiệp kỹ thuật” đƣợc định nghĩa là nghề nghiệp kỹ thuật trong các lĩnh vực kỹ thuật dân dụng, kỹ thuật mỏ, kỹ thuật cơ khí, kỹ thuật điện, kỹ thuật công nghiệp và các lĩnh vực kỹ thuật khác được quy định trong các văn bản pháp luật cấp bộ. Các kỹ sƣ chuyên nghiệp ở Thái Lan đƣợc quản lý bởi Hội đồng Kỹ sƣ (the Council of Engineers – COE), tổ chức có trách nhiệm đăng bạ kỹ sƣ chuyên nghiệp và đặt ra những tiêu chuẩn cho kỹ sƣ chuyên nghiệp ở Thái Lan. Ban quản trị của COE gồm 10 Thành viên đƣợc lựa chọn từ những thành viên thông thƣờng không giữ cƣơng vị trƣởng khoa trong một tổ chức giáo dục với học vị nhất định, 5 Thành viên đƣợc lựa chọn từ các thành viên thông thƣờng là trƣởng khoa trong một tổ chức giáo dục với học vị nhất định và 5 Thành viên đƣợc chỉ định bởi Hội đồng Bộ trƣởng (the Council of Ministers) từ những thành viên thông thƣờng dựa trên đề xuất của Bộ trƣởng liên quan. 3.10.2. Hiệp hội nghề nghiệp Có hơn 10 hiệp hội kỹ thuật chuyên nghiệp ở Thái Lan, bao gồm Viện Kỹ thuật Thái Lan và Hiệp hội Kỹ sƣ tƣ vấn Thái Lan. Đăng ký thành viên với các hiệp hội kỹ thuật chuyên nghiệp là không bắt buộc cho đến khi kỹ sƣ chuyên nghiệp đó đƣợc đăng bạ với COE. 3.10.3. Năng lực cốt lõi Việc hành nghề kỹ thuật ở Thái Lan đƣợc điều chỉnh bởi nhiều thủ tục pháp lý khác nhau ở cấp quốc gia và cấp tỉnh. Cơ quan lập pháp cho phép các thành viên hành nghề và quản lý hoạt động của họ. Ngoài các yêu cầu về tr nh độ học thuật đối với ngƣời xin cấp phép còn có các yêu cầu về kinh nghiệm kỹ thuật trong một khoảng thời gian đƣợc 88 Sổ tay về Tự do hóa Dịch vụ nghề nghiệp thông qua thừa nhận lẫn nhau trong ASEAN: Dịch vụ Kỹ thuật giám sát, khả năng giao tiếp hiệu quả bằng ngôn ngữ kinh doanh, vƣợt qua thành công một bài thi sát hạch thực hành chuyên môn và sự phê chuẩn kinh nghiệm và khả năng thông qua các chƣơng tr nh đào tạo có hệ thống. Tất cả các kỹ sƣ đƣợc đăng bạ phải ít nhất đã 18 tuổi và đƣợc đăng ký với COE với tƣ cách một thành viên thông thƣờng hoặc thành viên đặc biệt. Thành viên thông thƣờng phải là công dân Thái Lan. Có 3 cấp độ nghề nghiệp kỹ thuật đƣợc quy định ở Thái Lan là Kỹ sƣ tập sự; Kỹ sƣ chuyên nghiệp; và Kỹ sƣ cao cấp. Để trở thành Kỹ sƣ tập sự, một ngƣời phải có bằng cử nhân kỹ thuật đƣợc công nhận bởi COE. Việc hành nghề của kỹ sƣ tập sự sẽ đƣợc giới hạn trong phạm vi thực hành và khối lƣợng công việc nhƣ đã quy định chi tiết trong giấy phép liên quan. Để trở thành Kỹ sƣ chuyên nghiệp, một ngƣời phải là Kỹ sƣ tập sự với ít nhất 3 năm kinh nghiệm sau khi đã trở thành Kỹ sƣ tập sự và đã tham dự chƣơng tr nh phát triển nghề nghiệp liên tục (Continuing professional development – CPD). Kinh nghiệm đó phải đƣợc xác thực bởi một Kỹ sƣ chuyên nghiệp hoặc Kỹ sƣ cấp cao. Kỹ sƣ chuyên nghiệp có thể hành nghề kỹ thuật mà không bị giới hạn, nhƣng không đƣợc cung cấp tƣ vấn kỹ thuật. Để trở thành một Kỹ sƣ cấp cao, một ngƣời phải là Kỹ sƣ chuyên nghiệp với ít nhất 5 năm kinh nghiệm ở vị trí này, có đầy đủ tr nh độ chuyên môn và tham dự chƣơng tr nh phát triển nghề nghiệp liên tục. Kinh nghiệm đó phải đƣợc xác thực bởi một Kỹ sƣ cấp cao khác. Một Kỹ sƣ cấp cao có thể hành nghề và cung cấp tƣ vấn kỹ thuật mà không bị giới hạn. Một Kỹ sƣ nƣớc ngoài có thể đăng ký để trở thành Kỹ sƣ phụ tá, ngƣời này sẽ phải tuân thủ yêu cầu cƣ trú là 6 tháng thị thực để sinh sống tại Thái Lan. Tuy nhiên, Kỹ sƣ phụ tá phải vƣợt qua tất cả các bài thi đƣợc thực hiện bằng tiếng Thái. Các cá nhân không hoàn thành một chƣơng tr nh kỹ thuật đƣợc công nhận có thể đáp ứng yêu cầu về học vấn thông qua một chƣơng tr nh sát hạch. Căn cứ trên hồ sơ đăng ký nộp tới COE, các văn bằng học thuật của một ứng viên sẽ đƣợc đánh giá và ngƣời đó sẽ đƣợc yêu cầu tham dự một chƣơng tr nh sát hạch cụ thể đặt ra bởi Ủy ban Văn bằng kỹ thuật. Trên cơ sở vƣợt qua thành công kỳ sát hạch, hoàn thành chƣơng tr nh Kỹ thuật căn bản cho tất cả các ngànhhọc và Kỹ thuật đặc biệt cho từng ngành kỹ thuật, ứng viên đƣợc coi nhƣ đã thỏa mãn yêu cầu đặt ra về tr nh độ học thuật. Tất cả các ứng viên đƣợc yêu cầu phải có ít nhất 3 năm kinh nghiệm kỹ thuật có thể chấp nhận trƣớc khi đăng ký. Kinh nghiệm kỹ thuật đƣợc chấp nhận phải bao gồm việc áp dụng lý thuyết và thực tiễn trong nhiều lĩnh vực nhƣ quản lý, truyền thông và các tác động đối với xã hội của kỹ thuật. Kinh nghiệm kỹ thuật đó phải tuân thủ quy định trong các Bộ Quy tắc Đạo đức, Quy tắc Ứng xử và Quy tắc Hành nghề. Sổ tay về Tự do hóa Dịch vụ nghề nghiệp thông qua thừa nhận lẫn nhau trong ASEAN : Dịch vụ Kỹ thuật 89 Kinh nghiệm kỹ thuật đó phải có đƣợc ở Thái Lan hoặc một môi trƣờng sử dụng tiếng Thái trong ít nhất 2 năm. Phải có tối thiểu một tham chiếu của một kỹ sƣ chuyên nghiệp đang hành nghề hoặc một kỹ sƣ cấp cao có hiểu biết chi tiết về công việc của ứng viên đó cho kinh nghiệm mà ngƣời này đã tuyên bố trong hồ sơ. Cấp trên trực tiếp, ngƣời tuyển dụng trong quá khứ và hiện tại của ứng viên đó là những ngƣời bảo lãnh phù hợp nhất. Đối với những dự án lớn hoặc các công việc kỹ thuật đa dạng, ngƣời bảo lãnh nên cung cấp thông tin đề cập năng lực kỹ thuật của ứng việc đó trong việc áp dụng các nguyên lý và học thuyết kỹ thuật, khả năng giao tiếp, khả năng làm việc nhóm, khả năng thực thi quyết định chuyên môn, và liệu ứng viên đó có hay không phẩm chất đạo đức tốt và đƣợc ghi nhận nhƣ đã thể hiện thông qua các đóng góp cá nhân, ví dụ nhƣ tính chính trực và trách nhiệm. Tất cả các ứng viên đăng ký đƣợc yêu cầu phải vƣợt qua thành công một bài sát hạch để xác nhận rằng họ có đầy đủ kiến thức về các vấn đề đạo đức và những nghĩa vụ song hành với các đặc quyền của vị trí chuyên môn, cũng nhƣ các vấn đề pháp lý liên quan tới việc là kỹ sƣ chuyên nghiệp. Ủy ban Tiêu chuẩn thực hành nghề nghiệp (The Committee of Professional Practice Qualification) tiến hành áp dụng cơ chế đánh giá đối với việc thực hành độc lập. Một báo cáo bổ sung kết hợp với phỏng vấn cùng đƣợc vận dụng trong quy tr nh đánh giá này. Để một kinh nghiệm kỹ thuật đƣợc coi là phù hợp, hồ sơ của ứng viên phải chứng minh đƣợc nó đáp ứng những yêu cầu cơ bản cho Kinh nghiệm Thực hành Nghề nghiệp và tuân thủ với Bộ Quy tắc Ứng xử. Kinh nghiệm đó phải đƣợc lƣu lại trong một báo cáo hoặc một cuốn sổ theo dõi và xác nhận bởi cấp trên trực tiếp hoặc một kỹ sƣ cao cấp đƣợc đăng bạ. Để đủ tƣ cách thực hành khảo sát chuyên nghiệp, các ứng viên sẽ phải trải qua những thủ tục nhất định đặt ra bởi các quy định của COE: a. COE sẽ chỉ định một tiểu ban để xem xét các kinh nghiệm thực hành kỹ thuật bao gồm khối lƣợng công việc, bản mô tả về thực hành kỹ thuật và năng suất làm việc. Chúng phải đáp ứng hạnh kiểm đƣợc yêu cầu, đào tạo có hệ thống và một số điều kiện khác đƣợc quy định cụ thể trong từng ngành kỹ thuật. b. Các ứng viên đã chứng tỏ kinh nghiệm thực hành nghề nghiệp của m nh đáp ứng những yêu cầu cơ bản đƣợc chấp thuận bởi tiểu ban để tham dự bài thi viết đƣợc chi tiết hóa cho từng ngƣời. Mức điểm đạt cho bài sát hạch này là 60% cho từng chủ đề kiểm tra. c. Nội dung bài thi viết liên quan tới công nghệ kỹ thuật hiện tại và các vấn đề thực tiễn, bao gồm 2 phần. Phần thứ nhất là bắt buộc, bao hàm các chủ đề cốt lõi với yêu cầu cơ bản dành cho một ngành kỹ thuật và kỹ thuật đặc trƣng riêng cho một chuyên ngành. Phần thứ hai bao gồm các chủ đề chọn lọc ứng với chuyên ngành của ứng viên. 90 Sổ tay về Tự do hóa Dịch vụ nghề nghiệp thông qua thừa nhận lẫn nhau trong ASEAN: Dịch vụ Kỹ thuật Các ứng viên vƣợt qua bài thi viết đƣợc yêu cầu tham dự bài thi nói, thực hiện thông qua một buổi phỏng vấn. Trong quá trình sát hạch, các ứng viên có thể bị hỏi về những kinh nghiệm thực tiễn và sự phát triển nghề nghiệp. Họ có thể phải trả lời về những vấn đề sau:  Trách nhiệm trong công việc kỹ thuật của ứng viên;  Kĩ năng trong ngành kỹ thuật liên quan tới Bộ Quy tắc Ứng xử và Quy tắc Hành nghề;  Các kinh nghiệm thực tiễn trong việc giải quyết những vấn đề trong công việc kỹ thuật, kĩ năng quản lý, kĩ năng giao tiếp và quy trình tài phán (jurisdiction process);  Sự phát triển nghề nghiệp từ kinh nghiệm thực tiễn tập trung vào phƣơng thức chuyển giao công nghệ cho kỹ sƣ trẻ và xã hội; và  An toàn công cộng và các quy tắc đạo đức. 3.10.4. Năng lực cốt lõi trong việc tổ chức thực hành kỹ thuật Luật kỹ thuật liên quan ở Thái Lan không áp đặt bất cứ giới hạn nào về loại hình tổ chức đƣợc thành lập để hành nghề kỹ thuật, cho dù đó là một hợp danh, hay một công ty. Tuy nhiên, tổ chức đó phải đƣợc công nhận theo quy định pháp luật của Thái Lan, vì vậy, các loại hình phổ biến nhất là hợp danh và công ty. Các yêu cầu khác bao gồm việc có một văn phòng chính ở Vƣơng quốc Thái Lan; và ít nhất một nửa số thành viên hợp danh (trong trƣờng hợp của một hợp danh) hoặc giám đốc (trong trƣờng hợp của một công ty); hoặc có thành viên hợp danh điều hành (đối với hợp danh) hoặc giám đốc điều hành (đối với công ty) hoặc ngƣời điều hành của pháp nhân (đối với hình thức khác của pháp nhân) với giấy phép hành nghề kỹ thuật đƣợc kiểm soát. Công ty mong muốn tổ chức hành nghề kỹ thuật phải có giám đốc điều hành là một kỹ sƣ đƣợc COE đăng bạ hoặc một nửa số giám đốc hoặc ủy viên điều hành là kỹ sƣ đƣợc COE đăng bạ. Kỹ sƣ nƣớc ngoài phải đƣa ra thông tin đăng bạ với nƣớc quốc tịch của m nh; tr nh độ học vấn; và lý lịch cá nhân (CV) cung cấp chi tiết về việc thực hành nghề nghiệp và quy mô của dự án mà mình có tham gia. Hiện diện thƣơng mại đối với kỹ sƣ nƣớc ngoài đƣợc cho phép dƣới hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc hợp danh hữu hạn hay hợp danh thông thƣờng với trụ sở chính đƣợc đăng ký ở Thái Lan và đáp ứng các điều kiện sau: a. Đối với công ty trách nhiệm hữu hạn, ít nhất một nửa số giám đốc, hoặc giám đốc điều hành của nó phải là một ngƣời có quốc tịch Thái Lan và có giấy phép cấp bởi COE; b. Đối với Hợp danh hữu hạn hay Hợp danh thông thƣờng; thành viên hợp danh điều hành hoặc giám đốc phải là ngƣời có quốc tịch Thái Lan; và c. Ít nhất một nửa số thành viên hợp danh của nó phải là ngƣời có quốc tịch Thái Lan và có giấy phép cấp bởi COE. Đơn đăng ký của một ACPE ở một quốc gia thành viên ASEAN khác để làm việc với tƣ cách một RFPE trong Thái Lan phải đƣợc đệ trình lên COE. Trên cơ sở chấp nhận và Sổ tay về Tự do hóa Dịch vụ nghề nghiệp thông qua thừa nhận lẫn nhau trong ASEAN : Dịch vụ Kỹ thuật 91 thanh toán một khoản phí định trƣớc, RFPE đó sẽ đƣợc COE cho phép làm việc trên cơ sở hợp tác với những kỹ sƣ chuyên nghiệp đƣợc đăng bạ trong nƣớc chỉ định trƣớc. RFPE đó sẽ không đƣợc phép hành nghề độc lập khi có sự cần thiết phải chứng thực các công việc kỹ thuật đƣợc yêu cầu trong các Luật và quy định của Thái Lan. Điều này còn áp dụng đối với những mục đích của việc đệ tr nh lên cơ quan quản lý trừ khi ngƣời đó đƣợc đăng bạ với tƣ cách một kỹ sƣ chuyên nghiệp căn cứ theo Đạo luật Kỹ sƣ B.E. 2542. Các kỹ sƣ nƣớc ngoài cung cấp dịch vụ kỹ thuật ở Thái Lan cũng đƣợc yêu cầu phải tuân theo các luật khác, chẳng hạn nhƣ luật về kiểm soát ngoại hối, luật nhập cƣ và Đạo luật Kinh doanh nƣớc ngoài, B.E. 2542 (1999). 3.11. Việt Nam 3.11.1. Luật và quy định Việt Nam không có bất cứ luật cụ thể nào đối với nghề nghiệp kỹ thuật. Chính phủ, thông qua Bộ Xây dựng (Ministry of Constructions – MoC), chỉ quản lý các kỹ sƣ trong ngành công nghiệp xây dựng. Luật Xây dựng (số 50/2014/QH13 ngày 18 tháng 6 năm 2014) quy định quyền và nghĩa vụ của các tổ chức và cá nhân liên quan tới xây dựng thi công và hành nghề trong lĩnh vực thi công và xây dựng. Một kỹ sƣ chuyên nghiệp Việt Nam là kỹ sƣ đƣợc cấp một chứng chỉ hành nghề bởi cơ quan có thẩm quyền theo Luật Xây dựng cho phép ngƣời đó làm việc với tƣ cách một quản lý dự án và/hoặc kỹ sƣ trƣởng trong điều tra/thiết kế địa chất của công việc kỹ thuật. 3.11.2. Tiêu chuẩn kỹ sƣ chuyên nghiệp Luật Xây dựng cũng quy định về việc đăng ký của kỹ sƣ chuyên nghiệp hoạt động trong các ngành kỹ thuật có liên quan đến xây dựng, quy định về các tiêu chuẩn chuyên môn và hạnh kiểm của những kỹ sƣ đó, và quy định về các tổ chức cung cấp dịch vụ kỹ thuật chuyên nghiệp có liên quan đến xây dựng ở Việt Nam. Theo pháp luật Xây dựng, khả năng hành nghề xây dựng của các cá nhân đƣợc xếp loại dựa trên cơ sở những chứng chỉ nghề nghiệp đƣợc chứng thực bởi một tổ chức đào tạo chuyên môn hợp pháp của họ, kinh nghiệm và đạo đức nghề nghiệp. Các cá nhân tham gia vào công tác kỹ thuật xây dựng và quy hoạch, khảo sát xây dựng, thiết kế và/hoặc giám sát xây dựng, khi tiến hành những hoạt động này, phải có chứng chỉ hành nghề phù hợp và chịu trách nhiệm cá nhân đối với công việc của mình. Hoạt động xây dựng của các tổ chức đƣợc phân loại trên cơ sở khả năng hành nghề của các cá nhân làm việc trong những tổ chức đó, kinh nghiệm xây dựng thực tiễn, tình hình tài chính, thiết bị và năng lực quản lý của chúng. Hai yêu cầu đề cập ở trên cũng áp dụng đối với những tổ chức và cá nhân nƣớc ngoài tham gia vào các hoạt động xây dựng trên lãnh thổ của nƣớc Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam. 92 Sổ tay về Tự do hóa Dịch vụ nghề nghiệp thông qua thừa nhận lẫn nhau trong ASEAN: Dịch vụ Kỹ thuật Đối với các kỹ sƣ ngành kỹ thuật chịu sự quản lý của Luật Xây dựng, họ đƣợc yêu cầu phải có tối thiểu 5 năm kinh nghiệm làm việc với tƣ cách là một kỹ sƣ dân dụng, cơ khí, điện hoặc địa chất trong lĩnh vực xây dựng. Một kỹ sƣ cũng đƣợc yêu cầu phải có một chứng chỉ chuyên môn từ sở xây dựng của các tỉnh. Một ứng viên đăng ký với tƣ cách ngƣời hành nghề trong một ngành kỹ thuật không thuộc sự điều chỉnh bởi Luật Xây dựng đƣợc yêu cầu phải có bằng cử nhân kỹ thuật và ít nhất 4 năm kinh nghiệm thực tiễn liên quan trong ngành kỹ thuật đó, cũng nhƣ đủ năng lực trách nhiệm cho việc đăng ký. Nếu ứng viên đó tham gia công tác giảng dạy hoặc nghiên cứu toàn thời gian, thì kinh nghiệm thực tiễn liên quan để có thể đƣợc chấp nhận bởi MoC phải là ít nhất 6 năm trong ngành kỹ thuật mà ngƣời đó làm việc. Một báo cáo đầy đủ của quá tr nh đào tạo và kinh nghiệm kỹ thuật chuyên môn phải đƣợc đệ tr nh nhƣ là bằng chứng về các kinh nghiệm thực tiễn của ứng viên. Báo cáo này sẽ bao gồm những chi tiết về khoảng thời gian làm việc và sự mô tả về kinh nghiệm thực tế. Báo cáo dài khoảng 2000 từ cần miêu tả đầy đủ về quá tr nh đào tạo và kinh nghiệm kỹ thuật chuyên nghiệp kể từ khi tốt nghiệp. Báo cáo không đƣợc chỉ đơn thuần là một bản liệt kê công việc đƣợc chuẩn bị và thực hiện mà phải mô tả những công việc mà ứng viên phải làm khi đƣợc tuyển dụng trong nghề khảo sát, quy hoạch, thiết kế, xây dựng, sản xuất hay nghiên cứu. Báo cáo cũng sẽ bao gồm nội dung chi tiết về các dự án và chi phí/giá trị của chúng đƣợc trình bày theo thứ tự thời gian, cùng với mức độ trách nhiệm và vị trí công việc chính xác mà ứng viên đó nắm giữ. Ứng viên sẽ phải giải thích chuyên môn của mình, ngoài trừ kinh nghiệm và những vấn đề đặc biệt phát sinh trong quá trình hành nghề. Ủy ban quản lý có thể tiến hành một buổi phỏng vấn chuyên môn với ứng viên. Ủy ban sẽ chỉ định một Ban đánh giá với mục đích xác định những phẩm chất mà ứng viên thu đƣợc từ kinh nghiệm kỹ thuật thực tế. Cuộc phóng vẫn sẽ có nội dung dựa trên Báo cáo kinh nghiệm của ứng viên và những tài liệu đã đệ trình. Mục đích chính của buổi phỏng vấn chuyên môn là để đánh giá: a. Bản chất và khoảng thời gian của kinh nghiệm kỹ thuật thực tế này; b. Khả năng của ứng viên trong việc lập kế hoạch, thiết kế và giám sát việc thi công xây dựng/ vận hành công việc kỹ thuật để đảm bảo an toàn tính mạng và bảo vệ sức khỏe hoặc tài sản công cộng; c. Một báo cáo nghiên cứu hợp nhất mô tả chi tiết một ứng dụng thực tế từ công việc nghiên cứu của ứng viên, nếu có. Báo cáo này có thể đƣợc minh họa bằng bản vẽ và phải chỉ rõ phần công việc thực sự đƣợc tiến hành bởi ứng viên đó; hoặc d. Việt một bài luận về một chủ hoặc chủ đề đƣợc lựa chọn bởi Ban đánh giá nếu điều đó đƣợc họ cho là cần thiết. Ứng viên cũng cần phải đáp ứng yêu cầu của ủy ban quản lý về tƣ cách đạo đức và uy tín của m nh, và nên đệ trình giấy chứng nhận hạnh kiểm tốt từ 2 ngƣời bảo lãnh. Sổ tay về Tự do hóa Dịch vụ nghề nghiệp thông qua thừa nhận lẫn nhau trong ASEAN : Dịch vụ Kỹ thuật 93 3.11.3. Thực hành kỹ thuật Để đủ tƣ cách hành nghề kỹ thuật độc lập, một kỹ sƣ phải đƣợc đăng ký là kỹ sƣ chuyên nghiệp theo Luật Xây dựng và có chứng chỉ hành nghề hợp lệ cấp bởi cơ quan có thẩm quyền. Các công ty và kỹ sƣ nƣớc ngoài đƣợc phép hành nghề ở Việt Nam. Các kỹ sƣ tƣ vấn nƣớc ngoài cũng không bị giới hạn khi làm việc ở Việt Nam. Những nhà cung cấp dịch vụ kỹ thuật nƣớc ngoài chỉ có thể đƣa vào Việt Nam nhân viên quản lý và nhân viên kỹ thuật mà trong nƣớc không có ở thời điểm hiện tại. Trừ khi có quy định khác, các tổ chức kinh tế nƣớc ngoài đều đƣợc phép thành lập hiện diện thƣơng mại ở Việt Nam dƣới hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh. Ngƣời nƣớc ngoài mong muốn làm việc ở Việt Nam phải là ngƣời ít nhất đã 18 tuổi và có sức khỏe đáp ứng yêu cầu công việc. Chỉ những ai với kỹ năng kỹ thuật hoặc trình độ chuyên môn cao ở lĩnh vực liên quan và kinh nghiệm đáng kể mới có thể đƣợc tuyển dụng. Một ngƣời lao động nƣớc ngoài với giấy phép lao động hợp lệ cũng có thể đăng ký xin cấp một Thẻ Tạm trú cho một khoảng thời gian tối đa là 3 năm. Đơn đăng ký phải đƣợc nộp lên Phòng Quản lý xuất nhập cảnh ở các tỉnh, thành phố, và cùng với các tài liệu chứng minh nhƣ hợp đồng thuê nhà và chứng nhận thành lập công ty của ngƣời sử dụng lao động. Một giấy phép lao động thƣờng đƣợc yêu cầu đối với một ngƣời lao động nƣớc ngoài làm việc trong thời gian nhiều hơn 3 tháng ở Việt Nam. Giấy phép này đƣợc cấp bởi Sở Lao động, Thƣơng binh Xã hội (the Department of Labour, War Invalids, and Social Affairs – DOLISA). Giấy phép lao động không đƣợc yêu cầu đối với những ngƣời lao động nƣớc ngoài sau: 1. Thành viên hoặc chủ sở hữu của một công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc một thành viên của hội động quản trị của một công ty cổ phần; 2. Trƣởng văn phòng đại diện, Trƣởng dự án, hoặc đại diện của một tổ chức phi chính phủ cho hoạt động của nó ở Việt Nam. 3. Cán bộ luân chuyển nội bộ của một công ty hoạt động trong 1 trên tổng số 11 ngành dịch vụ đƣợc quy định trong các cam kết về dịch vụ WTO của Việt Nam; và 4. Một ngƣời cung cấp dịch vụ tƣ vấn chuyên nghiệp và kỹ thuật hoặc tiến hành các nhiệm vụ khác để phục vụ công tác thực thi, đánh giá, và giám sát của các chƣơng trình hay dự án Hỗ trợ phát triển chính thức (Offcial Development Aid – ODA) theo các thỏa thuận kỹ giữa đối tác nƣớc ngoài và Chính phủ Việt Nam. 94 Sổ tay về Tự do hóa Dịch vụ nghề nghiệp thông qua thừa nhận lẫn nhau trong ASEAN: Dịch vụ Kỹ thuật 04. PHÂN TÍCH CÁC YÊU CẦU VỀ TIÊU CHUẨN VÀ HÀNH NGHỀ Sổ tay về Tự do hóa Dịch vụ nghề nghiệp thông qua thừa nhận lẫn nhau trong ASEAN : Dịch vụ Kỹ thuật 95 4.1. Giới thiệu Nhƣ đã nói ở các Chƣơng trƣớc, mỗi AMS áp đặt những yêu cầu và điều kiện khác nhau đối với các chuyên viên kỹ thuật muốn đƣợc đăng ký trở thành kỹ sƣ chuyên nghiệp; để thực hành kỹ thuật; và để tuyển dụng kỹ sƣ nƣớc ngoài. Từng AMS cũng có những hệ thống giáo dục đại học khác nhau cho những ngƣời mong muốn trở thành chuyên viên kỹ thuật. Chƣơng này sẽ đƣa ra thảo luận chi tiết về những điểm khác biệt và khoảng cách, bao gồm cả sự bất b nh đẳng giới tính, trong hệ thống đánh giá nghề nghiệp kỹ thuật ở ASEAN. 4.2. Trình độ giáo dục và chuyên môn Trong quá trình chuẩn bị cuốn sổ tay này, các tác giả đã tiến hành ghé thăm và thảo luận với những cơ quan quản lý và hiệp hội nghề nghiệp (liên quan và nếu có) ở từng AMS. Các tác giả nhận thấy rằng từng AMS có những hình thức khác nhau trong hệ thống giáo dục đại học và hệ thống đánh giá tr nh độ chuyên môn đối với nghề nghiệp kỹ thuật. Mặc dù tất cả AMS đều cung cấp giáo dục kỹ thuật ở cấp độ đại học, một số quốc gia nhƣ Brunei không có chƣơng tr nh đào tạo một số ngành kỹ thuật nhất định do thiếu nhu cầu từ sinh viên. Vì vậy, các sinh viên mong muốn có thể phải theo đuổi việc học tập kỹ thuật ở nơi khác. Tất cả chƣơng tr nh đào tạo kỹ thuật ở cấp độ đại học của các AMS đƣợc thiết kế để hƣớng đến đáp ứng yêu cầu tối thiểu để sinh viên có thể đủ tƣ cách để trở thành một kỹ sƣ chuyên nghiệp. Để tăng cƣờng những tiêu chuẩn của sự chuyên môn hóa kỹ sƣ, những thành viên AMS mới nhƣ Lào, Campuchia và Việt Nam đang cố gắng hƣớng đến việc thiết lập các cơ quan quản lý nghề nghiệp để cấp văn bằng chuyên môn cho các kỹ sƣ chuyên nghiệp tiềm năng. Ở phần lớn các AMS, những cơ quan có thẩm quyền nhƣ Hội đồng Kỹ sƣ hoặc Ủy ban Kỹ sƣ quản lý chƣơng tr nh giảng dạy và nghiên cứu ở cấp độ đại học nhằm đảm bảo rằng việc đào tạo đó tuân thủ với những tiêu chuẩn tối thiểu đặt ra bởi cơ quan quản lý. Một số AMS nhƣ Indonesia, Malaysia, Myanmar, Philippines, Singapore và Thái Lan duy trì hệ thống công nhận tr nh độ học vấn kỹ thuật cao để chắc chắn rằng những bằng cấp của các trƣờng đại học liên quan, trong nƣớc và ở nƣớc ngoài, thỏa mãn yêu cầu năng lực cốt lõi của những cơ quan quản lý nghề nghiệp. Malaysia và Singapore, với tƣ cách là thành viên của Thỏa ƣớc Washington, đảm bảo rằng chỉ những sinh viên tốt nghiệp những chƣơng tr nh đƣợc công nhận mới có thể hành nghề với tƣ cách kỹ sƣ chuyên nghiệp. Cùng lúc đó, Lào đang nỗ lực hƣớng tới cải thiện hệ thống giáo dục chuyên môn nhằm tăng cƣờng chất lƣợng của sinh viên tốt nghiệp ngành kỹ thuật của những trƣờng đại học trong nƣớc. Bảng tóm tắt thông tin chính đƣợc trình bày trong Bảng 2 dƣới đây: 96 Sổ tay về Tự do hóa Dịch vụ nghề nghiệp thông qua thừa nhận lẫn nhau trong ASEAN: Dịch vụ Kỹ thuật Brunei Các trƣờng đại học Brunei cung cấp giáo dục đại học ở một số ngành kỹ thuật nhất đinh. Đối với các ngành khác, sinh viên sẽ phải theo học ở nƣớc ngoài. Để có thể đăng ký trở thành kỹ sƣ chuyên nghiệp, một ứng viên phải có một bằng đại học đƣợc công nhận bởi Ủy ban Kiến trúc sƣ, Kỹ sƣ chuyên nghiệp và Kỹ sƣ định giá. Campuchia Hội đồng kỹ sƣ đảm bảo rằng bằng cấp đại học đáp ứng yêu cầu đặt ra để cho phép một sinh viên trở thành kỹ sƣ chuyên nghiệp. Indonesia Bằng cấp kỹ thuật phải đƣợc công nhận bởi cơ quan có thẩm quyền nhằm đáp ứng tiêu chuẩn chuyên môn đặt ra bởi LPJK và BNSP. Có nhiều hiệp hội nghề nghiệp đặt ra thêm các tiêu chuẩn bổ sung khi đăng ký thành viên và đƣa ra những chƣơng tr nh phát triển nghề nghiệp liên tục. Lào Đại học Quốc gia Lào cấp bằng kỹ thuật đáp ứng tiêu chuẩn kỹ thuật quốc gia. Tuy nhiên việc thiếu cơ quan quản lý và hiệp hội nghề nghiệp có thể gây ảnh hƣởng đối với chất lƣợng của sinh viên tốt nghiệp ngành kỹ thuật của Lào. Malaysia Bằng cấp kỹ thuật của Malaysia đƣợc công nhận bởi Ủy ban Kỹ sƣ và đáp ứng tiêu chuẩn đặt ra bởi Thỏa ƣớc Accord. Hiệp hội nghề nghiệp này cũng đƣa ra những chƣơng tr nh phát triển nghề nghiệp liên tục. Myanmar Hội đồng Kỹ sƣ Myanmar quản lý chƣơng tr nh đào tạo đại học ở Mymanar nhằm chắc chắn rằng các văn bằng đƣợc cấp ra đáp ứng tiêu chuẩn tối thiểu khi đăng ký thành viên chuyên nghiệp. Philippines Các trƣờng đại học ở Philippines cung cấp những chƣơng tr nh cấp bằng đáp ứng với tiêu chuẩn của PRC và chƣơng tr nh đó phải bao gồm đào tạo căn bản và các môn học tiêu chuẩn khi sinh viên phải học trong tối thiểu 5 năm. Các hiệp hội nghề nghiệp trực thuộc PRC cũng cung cấp những chƣơng tr nh phát triển nghề nghiệp liên tục. Singapore Các chƣơng tr nh kỹ thuật của Singapore đƣợc công nhận bởi Hội đồng Công nhận Kỹ thuật của Viện Kỹ sƣ Singapore. Các trƣờng đại học Singapore cấp bằng cho những chƣơng tr nh đƣợc công nhận về kỹ thuật dân dụng, cơ khí và điện. Những bằng cấp này đƣợc công nhận cho việc đăng ký để trở thành kỹ sƣ chuyên nghiệp với Hội động Kỹ sƣ chuyên nghiệp Singapore. Viện Kỹ sƣ Singapore cũng cung cấp các chƣơng tr nh phát triển nghề nghiệp liên tục. Thái Lan Các trƣờng đại học Thái Lan đƣa ra chƣơng tr nh đào tạo cấp bằng đáp ứng năng lực cốt lõi đƣợc yêu cầu bởi cơ quan quản lý là COE. Các hiệp hội nghề nghiệp thƣờng tổ chức các chƣơng tr nh phát triển nghề nghiệp liên tục. Sổ tay về Tự do hóa Dịch vụ nghề nghiệp thông qua thừa nhận lẫn nhau trong ASEAN : Dịch vụ Kỹ thuật 97 Việt Nam Các trƣờng đại học Việt Nam cung cấp các khóa học đáp ứng tiêu chuẩn đặt ra bởi Luật Xây dựng. Bảng 2: Việc thực thi năng lực kỹ thuật cốt lõi trong ASEAN 4.3. Khoảng cách và thiếu hụt trong hệ thống văn bằng Mục này kiểm tra về những khoảng cách và thiếu hụt trong công tác quản lý nghề nghiệp và hệ thống văn bằng đối với nghề nghiệp kỹ thuật ở AMS. Các thảo luận sẽ tập trung vào khoảng cách và thiếu hụt trong cơ quan quản lý, yêu cầu đối với sinh viên tốt nghiệp, kỳ thi tuyển sinh và kinh nghiệm chuyên môn tối thiểu. 1. Cơ quan có thẩm quyền Phần lớn các AMS đều có một cơ quan quản lý nghề nghiệp dƣới hình thức một Hội đồng chuyên môn có chức năng quản lý tất cả các ngành kỹ thuật. Tuy nhiên, việc tổ chức và cấu trúc của nó là khác biệt ở từng quốc gia. Philippines và Indonesia có nhiều hơn một cơ quan quản lý nghề nghiệp kỹ thuật. Ở Philippines, PRC lập ra Ủy ban quản lý riêng cho 12 ngành kỹ thuật khác nhau. Ở Indonesia, cơ quan quản lý các ngành kỹ thuật liên quan tới xây dựng là LPJK, trong khi đó, các ngành còn lại đƣợc quản lý bởi BNSP. Brunei, mặt khác, có một cơ quan hỗn hợp quản lý ngành kiến trúc, kỹ thuật và định giá. Trong một số AMS, cơ quan quản lý chỉ điều chỉnh việc thực hành của một số ngành kỹ thuật nhất định. Ở Lào, ALACE chỉ quản lý kỹ thuật dân dụng, trong khi Hội đồng Kỹ sƣ Thái Lan chỉ quản lý kỹ thuật dân dụng, mỏ, cơ khí, điện, công nghiệp, môi trƣờng và hóa học. Các giám định viên cũng đƣợc gộp vào trong công tác hành nghề kỹ thuật dân dụng ở Thái Lan. Trong Việt Nam, mặc dù Bộ Xây dựng là cơ quan chính, nó chỉ quản lý vấn đề kỹ thuật liên quan tới xây dựng. Việt Nam không có văn bản pháp luật nào quản lý những vấn đề kỹ thuật không liên tới xây dựng. 2. Yêu cầu kinh nghiệm tối thiểu Số năm kinh nghiệm tối thiểu cũng là khác nhau ở từng nƣớc Thành viên. Ví dụ, Ủy ban Kiến trúc sƣ, Kỹ sƣ chuyên nghiệp và Kỹ sƣ định giá Brunei yêu cầu 2 năm kinh nghiệm, 1 năm trong số đó phải ở Brunei; trong khi đó, Cambodia đặt ra tiêu chuẩn 5 năm kinh nghiệm cho những ngƣời có học vị cơ bản, 3 năm đối với học vị Thạc sĩ và 2 năm đối với học vị Tiến sĩ. Việt Nam áp dụng mức chung là 5 năm kinh nghiệm. Malaysia yêu cầu 3 năm kinh nghiệm và thời gian đó ở Singapore là 4 năm. Cả hai có thể áp đặt yêu cầu kinh nghiệm đối với cả các chuyên ngành. Indonesia và Thái Lan, mặt khác, đƣa ra quy định về những mức kinh nghiệm riêng với các kỹ sƣ ở 98 Sổ tay về Tự do hóa Dịch vụ nghề nghiệp thông qua thừa nhận lẫn nhau trong ASEAN: Dịch vụ Kỹ thuật cấp độ khác nhau. Myanmar yêu cầu 2 năm đào tạo tổng quát và 5 năm phát triển chuyên môn. 3. Kỳ thi sát hạch chuyên môn đầu vào Các tác giả cũng nhận thấy rằng từng AMS có các mô hình khác nhau đối với kỳ thi sát hạch chuyên môn đầu vào. Ở thời điểm hiện tại, Brunei và Lào không tổ chức bất cứ kì thi sát hạch chuyên môn đầu vào nào. Trong Brunei, Ủy ban Kiến trúc sƣ, Kỹ sƣ chuyên nghiệp và Kỹ sƣ định giá có thể đặt ra các bài thi sát hạch một khi luật mới có hiệu lực thi hành. Malaysia và Singapore tổ chức những Kỳ thi sát hạch chuyên môn gồm 2 phần, trong đó có thể bao gồm các bài thi viết và nói. Campuchia, Indonesia, Myanmar, Thái Lan và Philippines cũng có yêu cầu về một kỳ thi sát hạch chuyên môn rất kỹ lƣỡng. 4.4. Cơ hội công bằng Kết quả từ công tác thực tế cho thấy hệ thống giáo dục chuyên nghiệp và văn bằng của các quốc gia Thành viên ASEAN không có sự phân biệt mang tính hệ thống đối với bất cứ giới tính, chủng tộc hay dân tộc nào. Việc đăng ký thành viên của các tổ chức nghề nghiệp đƣợc mở cho tất cả chủng tộc và giới tính, không một AMS nào có những biện pháp nhằm phân biệt đối xử trong việc tham gia hành nghề của tất cả mọi ngƣời. Nói chung, nghiên cứu nhận thấy rằng, ở phần lớn các AMS, số lƣợng phụ nữ học ở đại học hoặc cao đẳng và đăng ký các khóa học có thể giúp họ đạt đƣợc văn bằng chuyên môn liên quan cao hơn số lƣợng phụ nữ thực tế hành nghề sau khi tốt nghiệp. Thành phần theo giới tính của lĩnh vực kỹ thuật đƣợc thể hiện ở Bảng 3 dƣới đây: Brunei Căn cứ theo Ủy ban, tính đến năm 2013, có 18 kỹ sƣ cơ khí và điện đƣợc đăng bạ, trong số đó có 1 ngƣời là phụ nữ. Có 33 kỹ sƣ dân dụng và kỹ sƣ kết cấu đƣợc đăng bạ, 1 trong số đó là phụ nữ. Trong 135 thành viên của PUJA, khoảng 12% là phụ nữ. Campuchia 824 – Không có dữ liệu về các kỹ sƣ đƣợc đăng bạ là phụ nữ Indonesia 10% là phụ nữ Lào Không có dữ liệu Malaysia Không có dữ liệu Myanmar Không có dữ liệu Philippines 8000 thành viên, và chiếm một tỷ lệ nhỏ là phụ nữ Singapore 3500 kỹ sƣ chuyên nghiệp đƣợc đăng bạ, phụ nữ chiếm khoảng 5% Sổ tay về Tự do hóa Dịch vụ nghề nghiệp thông qua thừa nhận lẫn nhau trong ASEAN : Dịch vụ Kỹ thuật 99 Thái Lan Trên tổng số 190000 kỹ sƣ đƣợc đăng bạ và cấp phép, 6% là phụ nữ Việt Nam Không có dữ liệu Bảng 3: Tỷ lệ giới tính trong nghề nghiệp kỹ thuật ở ASEAN 4.5. Các vấn đề tác động tới sự tự do hóa dịch vụ kỹ thuật Dựa trên thảo luận và phân tích đã đề cập ở trên, ASEAN và AMS sẽ cần phải giải quyết một vài vấn đề để có thể đảm bảo thành công trong việc tự do hóa nghề nghiệp kỹ thuật. a. Mối quan hệ giữa MRA, Hiện diện thƣơng mại và Di chuyển thể nhân Căn cứ trên bối cảnh của các nhà cung cấp dịch vụ chuyên nghiệp ở ASEAN, MRA cho phép các văn bằng đƣợc công nhận bởi cơ quan có thẩm quyền nƣớc sở tại của họ cũng đƣợc công nhận tƣơng hỗ bởi các AMS khác. Việc này thúc đẩy sự di chuyển của các nhà cung cấp dịch vụ chuyên nghiệp trong ASEAN, căn cứ theo các quy tắc và quy định trong nƣớc có liên quan. Thêm vào đó, các công cụ thƣơng mại hài hóa hóa và tiêu chuẩn hóa đơn giản, bao gồm những MRAs đƣợc hi vọng là sẽ cắt giảm chi phí giao dịch. Tuy nhiên, căn cứ trên khảo sát, đặc biệt là Lịch trình thực thi các cam kết của AMS theo AFAS, AMS cần phải giải quyết những vẫn đề liên quan tới hiện diện thƣơng mại (Phƣơng thức 3) nhƣ là yêu cầu đối với quyền sở hữu cổ phần và hội đồng quản trị, di chuyển xuyên biên giới của các kỹ sƣ chuyên nghiệp theo Phƣơng thức 4. Trong một môi trƣờng tự do hóa lý tƣởng, những ngƣời cung cấp dịch vụ kỹ thuật đƣợc công nhận có thể di chuyển giữa các AMS theo Phƣơng thức 3 và 4. Sƣ gia tăng hiện diện thƣơng mại theo Phƣơng thức 3 và sự di chuyển thể nhân theo Phƣơng thức 4 trong các dịch vụ kỹ thuật chuyên nghiệp có thể dẫn tới hệ quả là sự tăng lên trong đầu tƣ nội khối ASEAN vào ngành dịch vụ, việc này sẽ tăng cƣờng sự hấp dẫn của ASEAN nhƣ là một địa điểm đầu tƣ. Sự tăng cƣờng đầu tƣ nội khối ASEAN trong dịch vụ chuyên nghiệp đến lƣợt mình có thể giúp gia tăng sự đầu tƣ từ những nhà cung cấp dịch vụ chuyên nghiệp bên ngoài ASEAN nhƣ là kết quả của chủ nghĩa chuyên nghiệp đƣợc nâng cao và sự tự tin vào tính minh bạch, cũng nhƣ việc quản lý tốt các quy định pháp luật liên quan tới các nhà cung cấp dịch vụ chuyên nghiệp trong ASEAN. Cùng lúc đó, sự tăng cƣờng tự do hóa theo Phƣơng thức 4 sẽ cho phép các kỹ sƣ di chuyển tự do hơn nữa để làm việc khắp ASEAN. Điều này sẽ giúp ASEAN tận dụng các tài năng trong khu vực và sẽ hỗ trợ AMS đang thiếu nhân lực trong nƣớc thông qua việc tuyển dụng kỹ sƣ chuyên nghiệp từ AMS láng giềng. Kết quả có đƣợc là sự hợp tác nội khối ASEAN, thứ cung cấp khả năng tiếp cận lớn hơn đối với kỹ thuật chuyên môn. Các quốc gia Thành viên ASEAN thƣờng có xu hƣớng thiên về sự tự do hóa thƣơng mại theo Phƣơng thức 1 (cung ứng xuyên biên giới) và 2 (tiêu dùng ở nƣớc 100 Sổ tay về Tự do hóa Dịch vụ nghề nghiệp thông qua thừa nhận lẫn nhau trong ASEAN: Dịch vụ Kỹ thuật ngoài). Tuy nhiên, AMS lại cẩn trọng hơn đối với hiện diện thƣơng mại theo Phƣơng thức 3 và việc di chuyển thể nhân tạm thời theo Phƣơng thức 4. Đối với Phƣơng thức 3, nhiều AMS yêu cầu các tổ chức thƣơng mại của các nhà cung cấp dịch vụ chuyên nghiệp phải có tối thiểu 51% cổ phần đƣợc sở hữu bởi công dân hoặc thƣờng trú nhân của nƣớc Thành viên đó. Cùng với đó là sự cần thiết phải có một số lƣợng nhất định thành viên của hội đồng quản trị hoặc thành viên ban chấp hành là kỹ sƣ chuyên nghiệp đƣợc đăng bạ bởi AMS có liên quan. Nhiều luật, quy tắc và quy định trong AMS không đƣa hƣớng dẫn cụ thể về các quyền của kỹ sƣ chuyên nghiệp khi cung cấp dịch vụ theo Phƣơng thức 4, và sự thiếu rõ ràng này có thể khiến những nhà cung cấp dịch vụ chuyên nghiệp nƣớc ngoài gặp bất lợi và cản trở việc sử dụng của các MRAs đã đƣợc thỏa thuận. Mặt khác, nhiều cơ quan điều hành và thành viên của các nhà cung cấp dịch vụ chuyên nghiệp trong quá trình làm việc thực tế hoan nghênh việc hợp tác cùng nhau với các đối tác của họ từ những quốc gia Thành viên ASEAN khác. Sự phối hợp và cộng tác này giúp dẫn tới tự do hóa trong Phƣơng thức 1 và Phƣơng thức 4, nhƣng sẽ giảm hiệu quả tự do đối với hiện diện thƣơng mại (Phƣơng thức 3). Sự cộng tác thông qua Phƣơng thức 4 nên đƣợc khuyến khích khi MRA về Nghề nghiệp Kỹ thuật đƣợc thực thi nhƣ là công cụ đảm bảo rằng các đối tác chuyên nghiệp sẽ có tr nh độ chuyên môn và chất lƣợng đào tạo lẫn kinh nghiệm đƣợc công nhận tƣơng đƣơng. Ví dụ, một Kỹ sƣ ASEAN sẽ phải đảm bảo rằng một ngƣời cụ thể có tiêu chuẩn chuyên môn, phẩm chất và kinh nghiệm trong việc cung cấp dịch vụ đƣợc yêu cầu, phần lớn có lẽ thông qua cộng tác, phối hợp, hoặc liên doanh giữa những nhà cung cấp dịch vụ liên quan trong AMS. b. Sự cần thiết phải tuân thủ với các quy định xuất nhập cảnh và cam kết MNP Sự di chuyển thể nhân theo Phƣơng thức 4 có thể đƣợc tạo thuận lợi theo Hiệp định MNP. Ở thời điểm này, mặc dù một nhà cung cấp dịch vụ kỹ thuật nƣớc ngoài có thể tham gia vào việc góp vốn chủ sở hữu của một công ty, điều này không tự động trao cho cổ đông đó quyền có đƣợc giấy phép nhập cảnh cần thiết để làm việc ở nƣớc AMS chủ nhà. Tuy nhiên, tại thời điểm viết, Hiệp định MNP chỉ điều chỉnh đối với các thƣơng nhân du lịch (thƣơng nhân) và cán bộ luân chuyển nội bộ trong tập đoàn đa quốc gia (cán bộ luân chuyển), còn những ngƣời tìm kiếm tuyển dụng phải trải qua thủ tục xuất nhập cảnh và quy trình xin giấy phép lao động nhƣ thông thƣờng. Ngoài ra, những thƣơng nhân và cán bộ luân chuyển này sẽ phải hiểu về những mức độ khác nhau trong cam kết lập ra bởi AMS theo Hiệp định MNP. Ví dụ, Brunei cho phép các cán bộ luân chuyển đƣợc nhập cƣ với khoảng thời gian lên đến 3 năm, có thể đƣợc tăng thêm 2 năm nhƣng không vƣợt quá 5 năm. Không có cam kết đặc biệt nào về nghề nghiệp kỹ thuật. Sổ tay về Tự do hóa Dịch vụ nghề nghiệp thông qua thừa nhận lẫn nhau trong ASEAN : Dịch vụ Kỹ thuật 101 Ở Campuchia, các cán bộ luân chuyển đƣợc yêu cầu phải có giấy phép cƣ trú tạm thời và giấy phép lao động. Những loại giấy phép này khi đƣợc cấp có giá trị 2 năm và có thể gia hạn hàng năm, với tổng thời gian tối đa là 5 năm. Lào, mặt khác, sử dụng hạn ngạch lao động, khi mà một công ty có thể tuyển dụng các kỹ sƣ nƣớc ngoài nhƣng không đƣợc vƣợt quá 20% tổng số nhân viên. Một tổ chức kinh doanh có thể yêu cầu hạn ngạch cao hơn. Trong Indonesia, các cán bộ luân chuyển giữ vị trí Điều hành, Quản lý và Nhà chuyên môn có thể đƣợc cấp phép tạm trú trong khoảng thời gian lên tới 2 năm và có thể đƣợc gia hạn thêm tối đa 2 lần, mỗi lần có thể kéo dài tới 2 năm. Bất cứ thể nhân nƣớc ngoài cung cấp dịch vụ phải trả các chi phí theo quy định của Chính phủ. Kiểm tra kinh tế đƣợc áp dụng cho việc cƣ trú tạm thời của quản lý và nhà chuyên môn. Malaysia cho phép các cán bộ luân chuyển giữ vị trí điều hành, nhà chuyên môn và chuyên gia cƣ trú trong khoảng thời gian tối đa là 10 năm. Philippines thƣờng cấp giấy phép gia hạn 1 năm cho các cán bộ luân chuyển (điều hành, quản lý và nhà chuyên môn). Kỹ sƣ nƣớc ngoài có thể đƣợc phép hành nghề ở Philippines và tham dự các bài thi sát hạch cấp giấy phép nếu quốc gia của họ cho phép ngƣời Philippines hành nghề tƣơng tự mà không bị giới hạn hoặc thông qua các bài sát hạch tƣơng đƣơng với công dân nƣớc ngoài, bao gồm sự thừa nhận không điều kiện về bằng cấp hoặc chứng chỉ. Singapore thƣờng cho phép các cán bộ luân chuyển đƣợc cƣ trú trong thời hạn 2 năm và có thể đƣợc gia hạn tối đa 3 năm mỗi lần với tổng thời gian không quá 8 năm. Thái Lan cho phép những ngƣời này tạm trú trong khoảng thời gian giới hạn là 1 năm và có thể đƣợc gia hạn thêm 3 lần, mỗi lần không quá 1 năm. Cả Singapore và Thái Lan không có bất cứ cam kết đối với ngành nghề nào. Việt Nam cấp thị thực nhập cảnh và cho phép các cán bộ luân chuyển, quản lý, ngƣời điều hành và nhà chuyên môn, với thời hạn đầu là 3 năm, có thể đƣợc gia hạn theo thời gian hoạt động của các tổ chức mà họ làm việc ở nƣớc này. Việt Nam đƣa ra điều kiện phải có ít nhất 20% số cán bộ quản lý, điều hành và nhà chuyên môn sẽ là ngƣời có quốc tịch Việt Nam. Tuy nhiên, mỗi doanh nghiệp vẫn đƣợc cho phép sử dụng tối thiểu 3 cán bộ quản lý, điều hành và nhà chuyên môn không phải là ngƣời Việt Nam. c. Trình độ phát triển/Sự sẵn sàng khác nhau Sự khác biệt về tr nh độ phát triển giữa các AMS có thể tác động đến sự thu hút tiềm năng trong việc thừa nhận lẫn nhau và và sự sẵn sàng của những nhà cung cấp dịch vụ kỹ thuật khi thực hiện các dịch vụ xuyên biên giới. Điều này có thể đƣợc lập luận rằng những nhà cung cấp dịch vụ kỹ thuật ở AMS tiên tiến hơn sẽ sẵn sàng hơn trong việc thực hiện các dịch vụ xuyên biên giới ở ASEAN, vì thế nhiều khả năng sẽ tìm kiếm sự thừa nhận lẫn nhâu đối với những văn bằng của họ khi đem so sánh với AMS không tiến bộ bằng. Căn cứ trên công tác thực tế và khảo sát trên máy tính, chúng tôi nhận thấy rằng các thành viên AMS 102 Sổ tay về Tự do hóa Dịch vụ nghề nghiệp thông qua thừa nhận lẫn nhau trong ASEAN: Dịch vụ Kỹ thuật mới nhƣ Campuchia, Việt Nam và Lào đang trong quá tr nh cải cách những quy định trong nƣớc của họ ở nhiều ngành nghề khác nhau, bao gồm cả kỹ thuật. Sổ tay về Tự do hóa Dịch vụ nghề nghiệp thông qua thừa nhận lẫn nhau trong ASEAN : Dịch vụ Kỹ thuật 103 05. KHUYẾN NGHỊ THỰC TẾ VÀ KẾT LUẬN 104 Sổ tay về Tự do hóa Dịch vụ nghề nghiệp thông qua thừa nhận lẫn nhau trong ASEAN: Dịch vụ Kỹ thuật Dựa trên thảo luận đề cập ở trên, chúng tôi đƣa ra những khuyến nghị nhƣ sau: a. ASEAN và AMS sẽ cần tìm ra mô hình tốt nhất để tăng cƣờng hơn nữa sự di chuyển của các nhà cung cấp dịch vụ chuyên nghiệp trong ASEAN. Cuốn Sổ tay này thảo luận về 4 mô hình khác nhau của sự thừa nhận lẫn nhau, trong đó mô hình của EU/TTMRA và NAFTA có thể đƣợc coi là những quy trình tốt nhất. Mô hình của EU, mà trên đó TTMRA đƣợc lập nên, có thể không phù hợp cho ASEAN do sự khác biệt và khoảng cách trong sự sẵn sàng về mặt kinh tế và tr nh độ năng lực của các chuyên viên trong ASEAN. TTMRA bao gồm Australia và New Zealand, hai quốc gia chia sẻ nhiều điểm chung về di sản, văn hóa, ngôn ngữ và hệ thống giáo dục. EU cũng bao hàm các quy định pháp lý bắt buộc trong một thị trƣờng tích hợp chặt chẽ mà trong đó hai quyền tự do song song là thành lập và cung cấp dịch vụ đƣợc ghi nhận trong một hiệp ƣớc chịu sự ràng buộc bởi các phán quyết của một tòa án công lý siêu quốc gia. b. Các quốc gia Thành viên ASEAN đƣợc cho là thiên về mô h nh đƣợc phát triển bởi các Bên trong NAFTA, nhằm nhóm lại các nƣớc với những bối cảnh đa dạng cùng nhau. Các MRAs của ASEAN đã học tập theo mô hình MRA của NAFTA trong việc sử dụng phƣơng thức tiếp cận theo ngành thay vì tiếp cận chung chung nhƣ trong mô hình của EU. Trong khi mô phỏng mô hình NAFTA, AMS sẽ phải cấp cho các chuyên viên đƣợc đăng bạ thị thực lao động đủ dài để họ có thể ký kết đƣợc một hợp đồng dịch vụ đầu tiên hoặc làm việc ổn định lâu dài ở một AMS khác và sở hữu những văn bằng đƣợc công nhận. Điều này có nghĩa là sự thừa nhận đối với các văn bằng có thể giúp dẫn tới sự tự do di chuyển theo Hiệp định MNP nếu một ngƣời có thể t m đƣợc một công việc hợp đồng tạm thời ở một quốc gia Thành viên ASEAN khác. Vì vậy, việc cấp thị thực và các thủ tục liên quan tới công việc tạm thời nên đƣợc tự động thực hiện chứ không phải là một cản trở đối với sự di chuyển thể nhân theo Phƣơng thức 4. c. Để khuyến khích đầu tƣ nội khối ASEAN, quy định về dịch vụ chuyên nghiệp có thể đƣợc liên kết với sự tự hóa hơn nữa trong đầu tƣ theo Hiệp định đầu tƣ toàn diện ASEAN (ASEAN Comprehensive Investment Agreement - ACIA). ACIA cho phép tự do hóa đầu tƣ trong 5 ngành và các dịch vụ phụ đi cùng, lần lƣợt là sản xuất, nông nghiệp, ngƣ nghiệp, lâm nghiệm, khai thác mỏ và khai thác đá. V vậy, nghề nghiệp kỹ thuật nên đƣợc ACIA cho phép một mức độ tự do cao hơn về quyền sở hữu và các bảo đảm khác nhằm tăng cƣờng thƣơng mại xuyên biên giới trong các dịch vụ kỹ thuật ở ASEAN. d. Các nỗ lực tự do hóa theo AFAS, thông qua MRA và theo ACIA nên đƣợc khuyến khích thêm. Các quốc gia Thành viên nên mở rộng tự do hơn đối với sự tham gia theo Phƣơng thức 3 thông qua ACIA, AFAS hoặc tự do hóa đơn phƣơng. Họ cũng nên khuyến khích các hoạt động liên doanh, hợp nhất, mua lại và hợp tác thƣơng mại trong dịch vụ chuyên nghiệp nội khối ASEAN. Phần lớn các AMS khuyến khích quan hệ hợp tác nhƣng điều này có thể đƣợc cải thiện hơn nữa bằng cách thiết lập các công ty toàn ASEAN gồm những nhà cung cấp dịch vụ chuyên nghiệp ASEAN đƣợc sở hữu bởi các nhà cung cấp ASEAN khác. Đây có thể là hình thức của công ty đơn hoặc đa ngành nghề. e. Quyền sở hữu nƣớc ngoài của các công ty chuyên nghiệp trong các nƣớc Thành viên ASEAN nên đƣợc phân loại lại để tăng cƣờng đầu tƣ theo Phƣơng thức 3 và Sổ tay về Tự do hóa Dịch vụ nghề nghiệp thông qua thừa nhận lẫn nhau trong ASEAN : Dịch vụ Kỹ thuật 105 sự di chuyển theo Phƣơng thức 4 trong Hiệp định MNP. Một loại hình sở hữu hoặc vốn chủ sở hữu khác có thể đƣợc lập ra là "công dân ASEAN" mà trong đó các công ty có thể có một tỉ lệ cao hơn về vốn chủ sở hữu của công dân ASEAN trong những công ty khác khi so sánh với quyền sở hữu của ngƣời ngoài ASEAN . f. ASEAN và AMS nên xem xét thêm về phạm vi có thể áp dụng cho sự hài hòa hóa ở một số lĩnh vực khi có thể nhƣ chƣơng tr nh đào tạo học thuật, kinh nghiệm làm việc, yêu cầu đào tạo căn bản, yêu cầu về hiện diện thƣơng mại đối với các nhà cung cấp dịch vụ chuyên nghiệp và sự hài hòa hóa trong các quy định pháp luật xuất nhập cảnh về cấp giấy phép lao động tạm thời cho các đối tƣợng trên. g. AMS phát triển hơn cũng có thể đề xuất hỗ trợ kỹ thuật cần thiết cho AMS khác về những quy định trong nƣớc và giúp đỡ tăng cƣờng chƣơng tr nh đào tạo học thuật ở các phân ngành chuyên môn khác nhau. Các cơ quan quản lý dịch vụ chuyên nghiệp và hiệp hội nghề nghiệp trong ASEAN và AMS cũng nên đƣợc khuyến khích tăng cƣờng cộng tác giữa những thành viên của họ. Hợp tác chặt chẽ hơn có thể dẫn tới một cấp độ tự do hóa cao hơn và tạo thuận lợi cho sự thống nhất quy chuẩn trong tạo dựng thƣơng mại. Căn cứ vào thảo luận ở trên, các quốc gia Thành viên ASEAN có thể đƣợc xem nhƣ là đang làm việc để hƣớng đến sự hội nhập và tự do hóa thƣơng mại trong các dịch vụ chuyên nghiệp và kỹ thuật ở một cấp độ cao hơn. Điều này đƣợc chứng minh bởi sự thật rằng AMS đang tăng cƣờng mức độ minh bạch hóa các quy định trong nƣớc điều chỉnh những nghề nghiệp khác nhau đƣợc đề cập bởi các cuốn Sổ tay. Quốc gia Thành viên nhƣ Brunei, Lào, Myanmar và Việt Nam đang trong tiến trình chuẩn bị và thông qua những quy định trong nƣớc mới dành cho giới hành nghề kỹ thuật. Một cấp độ cao hơn của sự hội nhập và tự do hóa cũng có thể đạt đƣợc thông qua sự hợp tác chặt chẽ hơn giữa các AMS, đặc biệt là trong việc khuyến khích cộng tác giữa những chuyên viên liên quan thông qua Phƣơng thức 1 và 4. Cùng thời điểm đó, AMS nên tăng cƣờng sự tham gia của việc mở cửa thị trƣờng và đầu tƣ nội khối ASEAN trong các dịch vụ chuyên nghiệp thông qua Phƣơng thức 3. Một cải thiện trong việc tiếp cận thị trƣờng theo Phƣơng thức 3 và 4 sẽ gia tăng tính sẵn sàng của công nghệ, chuyên môn và vốn giữa các chuyên viên ASEAN nhằm cho phép họ cạnh tranh tốt hơn với các chuyên viên từ những phần khác của thế giới, cả trong và ngoài Đông Nam Á. Cuối cùng, sự quyết tâm đƣợc thể hiện bởi giới hành nghề kỹ thuật nhằm đạt đƣợc một cấp độ cao hơn về hội nhập và tự do hóa trong ASEAN sẽ giúp tổ chức này và các AMS thực hiện những mục tiêu đề ra của Cộng đồng Kinh tế ASEAN trong năm 2015, đánh dấu sự khởi đầu của một quá trình sâu sắc hơn về hội nhập kinh tế toàn ASEAN. Sổ tay về Tự do hóa Dịch vụ nghề nghiệp thông qua thừa nhận lẫn nhau trong ASEAN: Dịch vụ Kỹ thuật DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT Từ viết tắt Tên đầy đủ Tiếng Anh Tên đầy đủ Tiếng Việt ACPE ASEAN Chartered Professional Engineer Kỹ sƣ chuyên nghiệp tiêu chuẩn ASEAN AEC ASEAN Economic Community Cộng đồng Kinh tế ASEAN AFAS ASEAN Framework Agreement on Trade in Services Thỏa thuận khung ASEAN về Dịch vụ AMS ASEAN Member State Quốc gia Thành viên ASEAN ASEAN The Association of Southeast Asian Nations Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á AQF Australian Qualification Frameworks Hệ thống văn bằng Australia CCS Coordinating Committee on Services of ASEAN Ủy ban điều phối dịch vụ ASEAN EC The European Community Công đồng châu Âu EU The European Union Liên minh châu Âu GATS General Agreement on Trade in Services of the WTO Hiệp định chung về Thƣơng mại Dịch vụ MRA Mutual Recognition Agreements Thỏa thuận thừa nhận lẫn nhau PE Professional Engineers Kỹ sƣ chuyên nghiệp PRA Professional Regulatory Authority Cơ quan quản lý chuyên nghiệp PTA Preferential Trade Agreements Hiệp định thƣơng mại ƣu đãi TMRA Trans Tasmanian Mutual Recognition Agreement Thỏa thuận thừa nhận lẫn nhau Trans Tasmanian UK United Kingdom of Great Britain and Northern Ireland Liên hiệp Vƣơng quốc Anh và Bắc Ireland UNCTAD United Nations Conference on Trade and Development Hội nghị Liên Hiệp Quốc về Thƣơng mại và Phát triển USA The United States of America Liên bang Mỹ WTI World Trade Institute, University of Bern Viện Thƣơng mại quốc tế, Đại học Bern WTO World Trade Organisation Tổ chức Thƣơng mại Thế giới www.asean.org ASEAN @ASEAN ASEAN

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfso_tay_ve_tu_do_hoa_dich_vu_chuyen_nghiep_qua_thua_nhan_lan.pdf
Tài liệu liên quan