Sự biến đổi cơ cấu kinh tế - xã hội Việt Nam 1986 - 2000
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
I. Tính cấp thiết của đề tài
II. Phạm vi, giới hạn của đề tài
III. Tình hình nghiên cứu đề tài
IV. Phương pháp nghiên cứu, nguồn tài liệu
V. Cấu trúc tiểu luận
BIẾN ĐỔI CƠ CẤU KINH TẾ - XÃ HỘI 1991 – 1995
I. Hoàn cảnh của công cuộc đổi mới đất nước 1991 – 1995, Những nhân tố tác động đến sự biến đổi cơ cấu kinh tế- xã hội Việt Nam
1. Quốc tế
2. Trong nước
II. Đường lối của Đảng và Nhà nước ảnh hưởng biến đổi cơ cấu kinh tế – xã hội 1991- 1995
III. Biến đổi cơ cấu kinh tế xã hội năm 1991 - 1995
1. Biến đổi cơ cấu kinh tế
3.1.1. Cơ cấu vốn đầu tư
3.1.2. Cơ cấu xuất- nhập khẩu
3.1.3. Cơ cấu thành phần kinh tế
3.1.4. Cơ cấu theo ngành kinh tế
3.1.5. Cơ cấu kinh tế theo vùng và lãnh thổ
2. Biến đổi cơ cấu xã hội 1991 - 1995
3.2.1. Dân số và lao động xã hội
3.2.1.1. Dân số
3.2.1.2. Lực lượng lao động
3.2.2. Biến đổi giai cấp 1991 - 1995
KẾT LUẬN
61 trang |
Chia sẻ: thanhnguyen | Lượt xem: 3679 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Sự biến đổi cơ cấu kinh tế - Xã hội Việt Nam 1986 - 2000, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh.
+ Vùng Đà Nẵng, Huế, Dung Quất (Quảng Ngãi).
Đây là 3 khu vực có nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển kinh tế nhất nước ta. Ba khu vực này phát triển sẽ giữ vai trò như đầu tàu kéo kinh tế cả nước phát triển. Ba vùng trọng điểm này chiếm tỷ trọng cao trong cơ cấu GDP; riêng 60 khu công nghiệp tập trung ở vùng đã đóng góp 10% giá trị toàn ngành công nghiệp, 10% giá trị xuất khẩu và thu hút trên 100.000 lao động vào làm việc.
Những vùng còn lại đều có sự phát triển nhất định theo hướng phát huy cao nhất hiệu quả nguồn lực, tiềm năng của mình.
Với việc phân bố địa lý các vùng kinh tế trọng điểm, cơ cấu kinh tế nước ta đã có sự chuyển biến tích cực, khai thác phát huy được thế mạnh của các vùng nhất là những vùng có lợi thế để phát triển kinh tế quốc dân.
Trong những năm 1991- 1995, kinh tế nước ta đã có những thay đổi lớn lao, đó thực sự là thành tựu to lớn mà ta đạt được. Tốc độ tăng trưởng nền kinh tế cao và ổn định; cơ cấu ngành, thành phần, xuất nhập khẩu, và vốn đầu tư… đều có sự chuyển đổi theo hướng tích cực, hiện đại, công nghiệp hoá- hiện đại hoá dưới sự quản lý của nhà nước. Nền kinh tế nước ta đã thoát khỏi khủng hoảng, suy thoái và đã vượt qua giai đoạn suy giảm tăng trưởng, đạt mức tăng trưởng cao; chất lượng, hiệu quả va sức cạnh tranh của số sản phẩm, lĩnh vực có sự chuyển biến tích cực. Có thể nói sau một thời gian dài kinh tế tăng trưởng bấp bênh, những năm này kinh tế nước ta phát triển nhanh và ổn định nhất so với những năm trước đó; cơ cấu kinh tế đã có sự chuyển dịch tích cực, theo hướng hội nhập, công nghiệp hoá- hiện đại hóa.
Bên cạnh nhưng thành tựu đã đạt được, quá trình chuyển dịch kết cấu kinh tế ở nước ta cũng còn nhiều hạn chế, cần được khắc phục trong những năm kế tiếp.
Sự chuyển đổi cơ cấu ngành kinh tế quốc dân theo hướng nêu trên còn diễn ra rất chậm, cả về tỷ trọng và chất lượng. Xét một cách tương đối, mức độ chuyển dịch cơ cấu ngành ở nước ta lúc đó chỉ tương đương với các nước ASEAN vào khoảng trước những năm 1980. Nông nghiệp vẫn chiếm tỷ trọng quá cao trong kết cấu kinh tế; tốc độ và tỷ trọng của ngành dịch vụ còn thấp, không tương xứng với vị thế của ngành này trong nền kinh tế đổi mới, hướng ngoại và hội nhập.
Quá trình chuyển đổi cơ cấu ngành còn chưa làm thay đổi căn bản về chất của cơ cấu ngành, chưa tạo ra được sự nhảy vọt trong cơ cấu; chưa tăng cường sự gắn kết chặt chẽ giữa các ngành công- nông nghiệp và dịch vụ, giữa các phân ngành, phân nhóm ngành nội bộ các ngành đó.
Sự biến đổi của cơ cấu kinh tế vẫn chủ yếu nghiêng về hướng nội, chưa triệt để tuân theo chiến lược hướng vào xuất khẩu.
Cơ cấu ngành nước ta những năm này nhìn chung khai thác nguồn lực kém hiệu quả, năng lực cạnh tranh kinh tế thấp.
2. Biến đổi cơ cấu xã hội 1991 - 1995
Đất nước đang trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội, các giai cấp, tầng lớp xã hội cũng đang trong quá trình vận động và biến đổi mạnh mẽ, không ngừng dưới tác động của nhiều yếu tố chủ quan, khách quan. Cơ cấu xã hội có những biến đổi sâu sắc, toàn diện hơn so với các thời kỳ trước. Bởi cơ cấu kinh tế và cơ cấu xã hội có mối quan hệ mật thiết, biện chứng với nhau. Quá trình tồn tại, biến đổi của cơ cấu xã hội giai cấp luôn gắn liền với quá trình vận động và bị quy định bởi cơ cấu kinh tế.
Ở nước ta, từ khi bắt đầu đổi mới, Đảng ta xác định nền kinh tế nước ta là nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần. Như vậy nền kinh tế nhiều thành phần được thực nhận như một thực tế khách quan. Qua đó xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất hiện có thông qua phát triển nền kinh tế nhiều thành phần nhằm khai thác, phát huy cao nhất mọi khả năng để phát triển lực lượng sản xuất, xây dựng kết cấu kinh tế hợp lý. Cơ cấu kinh tế như vậy tất yếu sẽ đưa lại một cơ cấu xã hội phức tạp, đa dạng. Bản thân nội tại từng ngành kinh tế cũng có sự thay đổi nhất định làm cơ cấu xã hội cũng thay đổi theo. Tóm lại, bên cạnh nhiều yếu tố, chính sự biến đổi của kinh tế đã làm cho cơ cấu xã hội nước ta những năm 1991 - 1995 cũng có sự chuyển biến lớn, phù hợp với định hướng của Đảng và nhà nước.
3.2.1. Dân số và lao động xã hội
3.2.1.1. Dân số
Năm 1995, cả nước có 53 tỉnh thành phố được phân thành 7 vùng kinh tế: vùng miền núi và trung du phía Bắc, vùng Đồng bằng sông Hồng, vùng khu IV cũ, vùng Duyên hải miền Trung, Tây Nguyên, Đông Nam Bộ, Đồng bằng sông Cửu Long. Cả nước có 100 thị xã, thành phố thuộc tỉnh 474 huyện; 1301 thị trấn, phường và 8781 xã. Dân số và lực lượng phân theo các vùng, tỉnh thành này có những biến đổi sâu sắc, vừa là kết quả tác động của chuyển dịch cơ cấu kinh tế, vừa là sự phát triển tất yếu của xã hội.
Cơ cấu dân số phân theo vùng 1991- 1995
Đơn vị %
1991
1992
1993
1994
1995
Cả nước
100
100
100
100
100
Đồng bằng Sông Hồng
22,67
22,62
22,57
22,5
22,41
Đông bắc
11,68
11,67
11,67
11,66
11,67
Tây Bắc
2,8
2,83
2,84
2,85
2,86
Bắc trung bộ
13,5
13,46
13,41
13,36
13,32
Duyên hải Nam trung bộ
8,68
8,7
8,65
8,64
8,62
Tây Nguyên
4,16
4,27
4,2
4,53
4,7
Đông nam bộ
14,08
14,52
14,63
14,72
14,85
Đồng bằng sông Cửu Long
22,1
21,96
21,84
21,71
21,57
Niên giám Thống kê 1995
Năm 1991, diện tích cả nước rộng khoảng 331900 km2 với tổng dân số cả nước là 67242,4 nghìn người, mật độ dân số đạt 204 người/km2. Dân số nước ta tăng khá nhanh và liên tục trong những năm 1991 - 1995 dù tỷ lệ gia tăng tự nhiên có xu hướng giảm dần từ 1,86% năm 1991 xuống còn 1,65% năm 1995.
Đến năm 1995, dân số cả nước đã lên tới 73.959 nghìn người, tăng hơn 6,75 triệu người so với năm 1991. Tốc độ gia tăng tự nhiên luôn ở mức cao (cả 5 năm đều trên 1,6%). Đây là tỷ lệ rất cao so với nhiều nước trên thế giới. Mật độ dân số do đó cũng tăng lên không ngừng; năm 1995 đã lên 219 người/km2 (trong khi đó mật độ dân số thế giới vào khoảng 40 người/km2, châu Á là 100 người/km2). Song dân số phân bố không đồng đều giữa các vùng, các địa phương. Dân số tập trung đông ở các vùng đồng bằng khu đô thị trong khi đó tập trung thưa thớt ở vùng miền núi, hải đảo. Trong 5 năm 1991 - 1995, dân số phân theo các vùng này cơ bản không có sự chuyển hướng lớn, tỷ lệ gia tăng dân số ở vùng đô thị, đồng bằng vẫn cao hơn vùng núi,vùng sâu xa. Điều này mang tính tất yếu trong điều kiện nước ta lúc đó và gây khó khăn cho sự nghiệp xây dựng đất nước. Phát triển kinh tế- xã hội trên phạm vi toàn quốc.
Theo khu vực, dân số được chia thành 2 bộ phận thành thị và nông thôn. Trong đó, dân số nông thôn tuy chiếm tỷ trọng áp đảo trong kết cấu dân số thành thị - nông thôn, nhưng có xu hướng giảm dần. Năm 1991 số nông thôn gấp gần 4,1 lần dân số thành thị và chiếm 80,3% kết cấu dân số; đến năm 1995, chỉ còn gấp 3,82 lần dân số thành thị và giữ 79,3% trong kết cấu dân số. Song sự thay đổi tỷ lệ giữa 2 bộ phận này nhìn chung nhỏ, chưa tạo ra bước chuyển biến lớn nào trong kết cấu dân số.
Dân số đô thị ngày càng tăng tỷ trọng gắn liền với quá trình đô thị hoá đang diễn ra khá mạnh từ khi bắt đầu đổi mới toàn diện đất nước mà trọng tâm là đổi mới kinh tế. Nó cũng là kết quả của sự chuyển cư từ nông thôn ra thành thị của một bộ phận người dân nông thôn. Đồng thời việc quy hoạch đô thị trong những năm này cũng làm lượng dân số có hộ khẩu thành phố, thị xã tăng lên và được xác định rõ hơn thời kỳ trước.
Bảng cơ cấu dân số theo thành thị - nông thôn 1991 - 1995
* Kết cấu dân số theo giới tính
Xét tổng thể, kết cấu dân số theo giới tính ở nước ta khá ổn định, không có sự biến đổi gì lớn. Trong đó tỷ lệ nữ tuy luôn cao hơn nam nhưng khá cân bằng nhau, độ chênh lệch không lớn, không tạo ra sự bất ổn về xã hội. Năm 1991 cả nước có 32814,3 nghìn nam (chiếm 48,8%) và 34428,1 nghìn nữ (chiếm 51,2% kết cấu dân số theo giới tính). Đến năm 1995, nam có 3433,2 nghìn bằng 48,9%; nữ có 36758,1 nghìn người tỷ trọng trong kết cấu dân số giới tính là 51,1% (giảm 0,1% so với năm 1991).
Kết cấu dân số theo giới tính 1991- 1995
Đơn vị %
Tổng
Nam
Nữ
1991
100
48,8
51,2
1992
100
48,83
51,17
1993
100
48,86
51,14
1994
100
48,9
51,1
1995
100
48,94
51,06
Nguồn Niên giám Thống kê 1995
3.2.1.2. Lực lượng lao động
Trên nền tảng dân số như vậy, nguồn lao động nước ta có cơ cấu tương tự và cũng có sự chuyển biến trong những năm 1991 - 1995 này, sự tiếp tục giai đoạn trước đó.
Cùng với sự gia tăng dân số, lực lượng lao động cũng tăng lên không ngừng với tốc độ ngày càng nhanh. Trong suốt những năm này, bình quân mỗi năm nguồn lao động tăng thêm 3,4% tương đương với khoảng trên 1 triệu người. Số thanh niên đến tuổi lao động tập trung đến 40% ở 2 thành phố lớn là Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh và 2 vùng đồng bằng chính (đồng bằng sông Hồng và sông Cửu Long).
Năm 1991, tổng lực lượng lao động cả nước là 30134,6 nghìn; năm 1995 tăng lên 33030,6 nghìn gấp 1,1 lần và tăng 189,6 nghìn năm 1991.
Nguồn lao động của nước ta có cơ cấu trẻ với số thanh niên từ 16 - 35 tuổi chiếm 54% tổng số người trong độ tuổi lao động.
Cơ cấu trình độ của lực lượng lao động kỹ thuật lại khá lạc hậu nhưng đã có sự chuyển hướng tích cực trong những năm 1991 - 1995 này. Tuy vậy cho đến năm 1995, phần lớn nguồn lao động nước ta mới chỉ được đào tạo về giáo dục phổ thông mà ít được đào tạo về chuyên môn.
Cơ cấu lực lượng lao động phân theo vùng: trong 7 vùng kinh tế của cả nước, miền núi và trung du Bắc Bộ có tỷ lệ người tham gia lao động với dân số toàn vùng cao nhất (năm 1995 là 70,38%); thấp nhất là vùng Đông Nam Bộ chỉ đạt 62,45%. Nhưng chính tỷ lệ này cũng phản ánh sự phát triển của từng khu vực, từng vùng.
Dân số và nguồn lao động tập trung cao nhất ở Đồng bằng sông Hồng, kế theo là Đông Nam Bộ,vùng núi cao Tây Bắc tập trung thấp nhất
Tỷ lệ người không có việc làm tính từ 15 đến 60 cả nước là 5,82%; cao nhất là lứa tuổi từ 15 đến 24 với tỷ lệ 29,35%. Vùng thành phố và đồng bằng, tỷ lệ người không có việc làm làm cao nhất, tới 7,84%, riêng khu IV cũ (8,01%). Tỷ lệ lao động thiếu việc làm cao nhất cả nước là Hải Phòng (8,24%); Tây Nguyên có tỷ lệ này thấp nhất (2,36%). Lao động tính theo vùng kinh tế không đều cả về số lượng kết cấu.
* Cơ cấu lao động phân theo thành phần kinh tế
Theo điều tra toàn bộ lực lượng lao động đang làm việc vào ngày 1.7.1995, cả nước có 33.030.600 lao động. Lực lượng đang lao động này được cơ cấu thành 2 khu vực sở hữu: quốc doanh và ngoài quốc doanh. Thành phần kinh tế quốc doanh có lực lượng lao động là 3053100 người, chiếm 9,24% thành phần kinh tế tế ngoài quốc doanh chiếm số lượng và tỷ tọng áp đảo trong cơ cấu lực lượng lao động phân theo thành phần kinh tế. Năm 1995 khu vực này thu hút 29.977.500 người, chiếm 90,76%.
Bảng cơ cấu lao động đang làm việc trong nền kinh tế tại thời điểm 1.7 hàng năm phân theo khu vực sở hữu
Đơn vị: %
Năm
Tổng
Quốc doanh
Ngoài quốc doanh
1991
100
10,4
89,6
1992
100
9,42
90,58
1993
100
9,37
90,63
1994
100
9,1
90,9
1995
100
9,24
90,76
Niên giám thống kê 1996
+ Cơ cấu lao động trong kinh tế quốc doanh
Lực lượng lao động trong khu vực kinh tế quốc doanh trong những năm 1991 - 1995 nhìn chung có xu hướng giảm dần về cả số lượng và tỷ trọng trong cơ cấu lao động theo thành phần kinh tế. Chỉ có năm 1995, lực lượng này mới có sự tăng trưởng từ 9,1% năm 1994 lên 9,24%.
Cùng với quá trình sắp xếp, tổ chức lại thành phần kinh tế quốc doanh, số lượng các doanh nghiệp quốc doanh giảm đáng kể (từ 1991 đến 1995, giảm gần 1/2 số doanh nghiệp). Đến tận năm 1994, số doanh nghiệp nhà nước có dưới 100 lao động vẫn còn chiếm tỷ lệ rất cao, tới 46,1% tổng số các doanh nghiệp nhà nước (nguồn: Tổng cục Thống kê). Điều này cho thấy các doanh nghiệp nhà nước ta còn nhỏ bé về quy mô, hạn chế về số lượng. Đồng hành với quá trình này là quá trình cắt giảm biên chế lao động trong khu vực. Năm 1990 có 3415,6 nghìn người, sang năm 1995 còn 3053,1 nghìn (năm 1994 chỉ còn 2928,3 nghìn lao động). Trong khi đó, khu vực ngoài lại phát triển mạnh, tạo ra nhiều việc làm mới hấp dẫn. Tất cả điều trên đều góp phần làm số lượng lao động quốc doanh giảm cả về số lượng tuyệt đối và tỷ trọng trong nền kinh tế.
Lao động thuộc thành phần kinh tế quốc doanh có 2 bộ phận: lực lượng do Trung ương quản lý và do địa phương quản lý. Trong sự biến đổi chung của toàn khu vực, lao động phân theo 2 bộ phận này cũng có sự chuyển dịch tương ứng, xu hướng chính của sự chuyển dịch là giảm tuyệt đối về số lượng lao động.
Lực lượng do Trung ương quản lý, vai trò. Năm 1991, lao động thuộc quản lý của trung ương có khoảng 1,3 triệu người, chiếm 41% toàn bộ lao động quốc doanh. Đến năm 1995 tăng lên chiếm 42% toàn bộ lao động quốc doanh. Đến năm 1995 tăng lên chiếm 42% nhưng lại giảm gần 1 vạn người. Trong đó, lực lượng lao động thuộc ngành công nghiệp đồng nhất, tỷ trọng cao nhất (34,71% năm 1995), kế tiếp là các ngành vận tải (12,33%), xây dựng 14,12%).
Lực lượng lao động do địa phương quản lý cũng có sự giảm tuyệt đối (giảm gần 30 vạn người từ 1991 đến 1995) chỉ có lực lượng lao động của ngành giáo dục - đào tạo, văn hoá nghệ thuật là không giảm mà còn tăng lên về lực lượng lao động so với những năm trước (năm 1995, chiếm gần 38% trong tổng lao động trong khu vực).
+ Cơ cấu lao động trong kinh tế ngoài quốc doanh
Ngược lại với khu vực quốc doanh, lực lượng lao động trong khu vực ngoài quốc doanh những năm 1991 - 1995 có xu hướng tăng dần về số lượng và tỷ trọng trong lao động phân theo thành phần kinh tế.Năm 1994, lao động thuộc khu vực này có 26998,4 nghìn người, chiếm 89,6% con số này tăng dần qua các năm; đến 1994, đã có 29,375,1 nghìn người, chiếm 90,9%; năm 1995 tuy giảm xuống còn 90,76% thấp hơn 1994 nhưng vẫn cao hơn 1991.
Kinh tế ngoài quốc doanh có 4 bộ phận cấu thành: tập thể, tư nhân, cá thể và hỗn hợp. Trong đó, lực lượng lao động nông nghiệp, chủ lực là nông dân giữ vai trò là lực lượng lao động xây dựng đông nhất; chiếm 76% tổng số lao động ngoài quốc doanh và 69% tổng lao động toàn xã hội. Điều này là tất yếu trong điều kiện nước ta vẫn là một nước có nền kinh tế chính là nông nghiệp, đại bộ phận dân số thuộc khu vực nông thôn, làm nông nghiệp. Tuy nhiên từ khi đất nước đổi mới, có sự chuyển dịch theo hướng tích cực, hiện đại, phù hợp trong lao động nông nghiệp: giảm dần số lượng và tỷ trọng; chuyển một phần lao động (hay một phần thời gian lao động trong gia đình) sang làm nghề khác, hướng vào nền kinh tế hàng hoá.
Giữ vị trí thứ 2 trong cơ cấu lao động trong khu vực ngoài quốc doanh là lao động công, gồm chiều ngành. Đông nhất là công nghiệp chế biến; chiếm hơn 80% lực lượng lao động công nghiệp, 8% lao động ngoài quốc doanh. Lực lượng lao động công nghiệp ngoài quốc doanh này có sự chuyển đổi theo khuynh hướng tăng cả về số lượng và tỷ trọng, với tốc độ tăng trưởng khá cao.
Ở nhiều ngành nghề khác, lao động ngoài quốc doanh cũng chiếm ưu thế, với tỷ trọng rất cao so với lao động cùng ngành thuộc kinh tế quốc doanh như: thuỷ sản, khách sạn du lịch, vận tải, kho bãi… Đáng lưu ý là tỷ trọng của lao động thuộc khu vực này không những không giảm mà còn có xu thế tăng lên; trong khi lao động thuộc khu vực quốc doanh lại có xu hướng giảm đi.
Trong những năm 1991 - 1995 này, cơ cấu lao động xuất hiện thêm lực lượng lao động làm thuê trong các gia đình tư nhân. Đây là một bộ phận trong lực lượng lao động phục vụ cá nhân. Đây là một bộ phận trong lực lượng lao động phục cá nhân và cộng đồng, với tổng số trên 30 vạn người tập trung chủ yếu ở khu vực ngoài quốc doanh.
* Kết cấu lao động theo ngành kinh tế:
Cơ cấu lao động theo ngành nghề kinh tế 1991- 1995
Đơn vị %
Niên giám 1995
Không có sự thay đổi quá lớn về tỷ trọng lao động phân theo các ngành kinh tế 1991- 1995. Lao động trong nông- lâm nghiệp có xu hướng giảm dần dù còn chậm và vẫn chiếm tỷ trọng rất cao (đều trên 70%). Lao động trong các ngành công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng, chế biến đã có xu thế tăng; ngược lại công nghiệp khai khoáng lại có xu thế giảm dần tỷ trọng. Lực lượng lao động trong khu vực dịch vụ cũng tăng đáng kể. Dù có sự thay đổi về tỷ trọng, số lượng lao động trong các ngành và toàn nền kinh tế đều tăng. Năm 1995 đã tăng 317.8 người so với năm 1991
Lực lượng và cơ cấu dân số, lao động xã hội 1991 - 1995 là sự kế tiếp những năm trước đó. Về cơ bản, cơ cấu lao động không có những chuyển biến lớn, mang tính chất bước ngoặt; mà sự chuyển dịch diễn ra với tốc độ chậm, không có sự chênh lệch quá nhiều giữa các năm. Điểm nổi bật, quan trọng nhất trong sự chuyển dịch cơ cấu dân số và lực lượng lao động là sự phân bố lại lực lượng lao động trên nhiều địa bàn sản xuất có chế độ sở hữu khác nhau. Kết quả là sự gia tăng nhanh chóng về cả quy mô, tốc độ, tỷ trọng của lực lượng lao động ngoài quốc doanh; nhất là ở khu vực tư nhân kinh tế tư nhân cá thể, hỗn hợp. Ngược lại, lực lượng lao động trong khu vực quốc doanh lại giảm đi những đây vẫn là khu vực kinh tế chủ đạo, quan trọng nhất của nền kinh tế quốc dân.
3.2.2. Biến đổi giai cấp 1991 - 1995
Khi nghiên cứu sự biến đổi cơ cấu kinh tế - xã hội, phải xem xét đến các giai cấp, tầng lớp xã hội đang tồn tại bởi đây chính là các yếu tố cấu thành nên cơ cấu xã hội - giai cấp ở nước ta.
Nhìn chung cơ cấu giai cấp nước ta những năm 1991 - 1995 có biến đổi, tương ứng phù hợp với sự chuyển dịch của cơ cấu kinh tế - xã hội. Sự biến đổi này trong tương đối toàn diện, tới mọi tầng lớp giai cấp; nhưng về cơ bản nước ta vẫn là nước có nền kinh tế nông nghiệp, còn lạc hậu và kém phát triển so với nhiều nước trên thế giới.
Giai cấp công nhân
Về mặt số lượng, lực lượng công nhân không có sự thay đổi quá lớn nhưng xu thế của nó là tăng dần về số lượng, chất lượng dù tốc độ gia tăng còn thấp. Đến năm 1995, cả nước có khoảng 6 triệu người, chiếm khoảng 55% tổng số lao động không nằm trong ngành công nghiệp. Đội ngũ này có mặt ở mọi ngành, mọi thành phần kinh tế. Trong đó công nhân tập trung đông nhất cả số lượng tuyệt đối và tỷ trọng ở ngành công nghiệp. Tuy nhiên tỷ lệ phân theo nội bộ ngành lại có thay đổi.
Công nhân công nghiệp ở ngành khai thác mỏ và chế biến vẫn là lực lượng chiếm tỷ trọng cao nhất và ngày càng tăng trong những năm 1991 - 1995. Trong khoảng thời gian này, lực lượng công nhân của ngành khoảng 2,5 triệu, chiếm 40% tổng công nhân cả nước. Kế tiếp là công nhân trong nhóm ngành thương nghiệp - sửa chữa xe có động cơ - mô tô xe máy và đồ dùng cá nhân, với trên 1,5 triệu người, chiếm 25% tổng số công nhân.
Cùng với sự chuyển dịch của kinh tế, kinh tế ngoài quốc doanh ngày càng giữ vai trò quan trọng đặc biệt là trong việc tạo việc làm cho người lao động thì công nhân Việt Nam cũng có sự biến đổi tương ứng, tăng nhanh trong khu vực ngoài quốc doanh, giảm trong khu vực nhà nước. Đến năm 1995, lực lượng công nhân quốc doanh chiếm khoảng 35% lực lượng công nhân cả nước, công nhân trong các cơ sở sản xuất ngoài quốc doanh chiếm khoảng 65%.
* Cơ cấu lực lượng công nhân theo thành phần kinh tế
+ Cơ cấu đội ngũ công nhân quốc doanh
Phân theo cấp quản lý, công nhân quốc doanh có hai bộ phận: thuộc trung ương hoặc địa phương quản lý. Cả hai bộ phận này đều có sự thay đổi nhất định.
So với năm 1991, lực lượng của 2 khu vực đến năm 1995 đều giảm và giảm trên 10 vạn người, trong đó lực lượng công nhân do địa phương quản lý giảm khoảng 7 vạn người; do trung ương quản lý giảm khoảng 3 vạn người. Năm 1991, lực lượng công nhân do địa phương quản lý chiếm khoảng 58% đến năm 1995 chiếm 60%; lực lượng do trung ương quản lý chiếm 42% năm 1991, đến năm 1995, lực lượng do trung ương quản lý còn gần 40% lực lượng công nhân quốc doanh Như vậy tỷ lệ lực lượng công nhân do địa phương quản lý có tăng hơn trước.
Kinh tế thị trường mở tạo điều kiện phát triển số lượng công nhân quốc doanh, vì kinh tế công nghiệp là bộ phận then chốt nhất của kinh tế quốc doanh. Nhưng mặt khác kinh tế thị trường đòi hỏi người làm công phải sản xuất được hàng hoá có chất lượng cao. Công nhân Việt Nam đặc biệt là bộ phận thuộc thành phần kinh tế quốc doanh trong những năm 1991- 1995 chịu tác động to lớn của tình hình trong và ngoài nước. Đó là sự cạnh tranh của thị trường khắt khe, việc điều hành sản xuất chưa hiệu quả cùng với năng lực của đội ngũ công nhân trực tiếp sản xuất cứng và sự tan rã của các nước xã hội chủ nghĩa ở châu Âu ảnh hưởng lớn đến đội ngũ công nhân Việt Nam. Sự tác động này thể hiện qua hai nhân tố.
Một là số lượng cơ sở sản xuất, kinh doanh của kinh tế quốc doanh giảm sút đáng kể so với năm 1990 (giảm gần 10 vạn người). Rất nhiều cơ sở sản xuất tuy chưa giải thể nhưng gặp rất nhiều khó khăn vì thiếu vốn sản xuất hoặc vì không có thị trường tiêu thụ, hoặc thiếu cả hai nhân tố.
Hai là, do đòi hỏi phải nâng cao năng lực sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm, nên tay nghề chuyên môn của đội ngũ công nhân quốc doanh ngày càng cao hơn trước. "Hội chứng bao cấp" trong đội ngũ công nhân quốc doanh đã giảm dần sau gần 10 năm thực hiện đổi mới.
Lực lượng công nhân quốc doanh phân bố trong 14 ngành kinh tế, nhưng chủ yếu trong khu vực sản xuất vật chất. Vào năm 1991, cơ cấu đội ngũ công nhân quốc doanh như sau: công nhân trong ngành công nghiệp chiếm khoảng 35%, công nhân xây dựng chiếm khoảng 15%, công nhân nông nghiệp khoảng 15%, công nhân trong thương nghiệp - cung ứng vật tư khoảng 17%, còn lại thuộc công nhân giao thông vận tải, bưu điện và các ngành khác. Đến nằm 1995, công nhân công nghiệp chiếm khoảng 40%, công nhân xây dựng chiếm khoảng 15%, công nghiệp nông nghiệp chiếm khoảng 13%, công nhân giao thông vận tải chiếm khoảng 6%, thương nghiệp - cung ứng vật tư chiếm hơn 10%... Như vậy đội ngũ công nhân công nghiệp có tỷ trọng cao hơn trước, trong khi các ngành sản xuất vật chất chủ yếu còn lại khác có tỷ trọng giảm.
Bộ phận công nhân trong các cơ sở sản xuất quốc doanh do trung ương quản lý vào năm 1991 nhiều hơn số lượng công nhân quốc doanh do địa phương quản lý. Đến năm 1995, tỷ lệ số công nhân do địa phương quản lý đã cao hơn số lượng công nhân do trung ương quản lý. Năm 1995, bộ phận công nhân quốc doanh do địa phương quản lý chiếm khoảng 52% tổng số công nhân quốc doanh. Tuy tăng về tỷ trọng trong kết cấu công nhân quốc doanh nhưng là xu thế chung, công nhân do dịa phương quản lý có khuynh hướng giảm dần dù không lớn; nhất là lực lượng trong ngành thương nghiệp - cung ứng vật tư. Riêng công nhân ngành công nghiệp tăng gần vài vạn người và chiếm gần 40% tổng số công nhân quốc doanh do địa phương quản lý; công nhân ngành thương nghiệp -cung ứng vật tư chiếm khoảng 15%, công nhân ngành xây dựng chiếm khoảng 12% và công nhân ngành nông nghiệp chiếm khoảng 10%.
So với năm 1991, đến năm 1995, trừ ngành công nghiệp và bưu điện có số công nhân tăng, còn lại các ngành khác đều giảm với tổng số giảm vài vạn người. Lực lượng công nhân quốc doanh ở ngành công nghiệp tăng vài vạn người trong những năm 1991 - 1995 và đến năm 1995 chiếm khoảng 40% tổng số công nhân quốc doanh do trung ương quản lý; lực lượng công nhân xây dựng chiếm khoảng 15%, công nhân nông nghiệp khoảng 12%, công nhân giao thông vận tải chiếm khoảng 6%.
Trong 53 tỉnh thành tính theo đơn vị hành chính lúc đó, có 16 đơn vị có số công nhân tăng trong những năm 1991 - 1995, còn lại đều giảm. Hầu hết các tỉnh có số công nhân tăng thuộc vùng nông thôn các tỉnh phía nam, nơi trước đó có kinh tế công nghiệp thấp và đội ngũ công nhân ít. Ngược lại các vùng có công nghiệp hoặc tiểu công nghiệp, thủ công nghiệp tương đối phát triển trước đây, số công nhân đều giảm tuyệt đối. Hiện tượng này chỉ ra trình trạng công nghiệp hoá không đều giữa các vùng trước đây.
- Cơ cấu đội ngũ công nhân ngoài quốc doanh
Năm 1991, lực lượng công nhân trong các đơn vị kinh tế tập thể rất đông, chiếm xấp xỉ một nửa toàn bộ lực lượng công nhân trong các đơn vị sản xuất ngoài quốc doanh. Lực lượng công nhân thuộc thành phần kinh tế cá thể chỉ cao hơn lực lượng công nhân trong các đơn vị sản xuất lập thể một ít. Khoảng 85% lực lượng công nhân thuộc thành phần kinh tế tư nhân - cá thể tập trung chủ yếu trong khu vực sản xuất của các hộ tiểu công nghiệp, thủ công nghiệp.
Mấy năm đầu thập kỷ 90, thành phần kinh tế ngoài quốc doanh càng phát triển phong phú và cơ cấu lao động của nó ngày càng phức tạp. Đến năm 1995, cơ cấu số công nhân ngoài quốc doanh ước tính khoảng 60% lao động thuộc các hộ tiểu công nghiệp, thủ công nghiệp và cá thể, 15% thuộc thành phần kinh tế tư nhân và hỗn hợp, 10% thuộc các hợp tác xã thủ công nghiệp và 15% còn lại làm việc trong các ngành dịch vụ.
So với năm 1991, số công nhân. sản xuất trong các đơn vị tập thể giảm chỉ còn 18%. Nơi có lực lượng lao động trong các hợp tác xã thủ công nghiệp giảm mạnh nhất là các vùng nông thôn. Vùng núi và trung du Bắc Bộ giảm 6 lần, vùng khu Bốn cũ giảm 5 lần, vùng Tây Nguyên giảm 10 lần, vùng đồng bằng sông Cửu Long giảm 4,5 lần. Nơi có lượng công nhân ở khu vực kinh tế tập thể còn tương đối đông gồm các địa bàn thành thị, như Hà Nội, Hải Phòng, thành phố Hồ Chí Minh.
Số công nhân và số cơ sở sản xuất trong các xí nghiệp kinh tế tư nhân và hỗn hợp tăng nhanh. Năm 1993 đánh dấu như một cột mốc phát triển của [ực lượng công nhân trong các xí nghiệp tư nhân, với số lượng tăng gấp 3 lần so với năm 1991. Đến năm 1995 lực lượng lao động ở khu vực này tăng khoảng 5 lần so với năm 1991. Công nhân trong các xí nghiệp tư nhân và hỗn hợp tập trung chủ yếu ở các tỉnh đồng thuộc vùng Nam Bộ (chiếm tới 77% tổng số công nhân trong cơ sở tư nhân) và vài thành phố ở phía Bắc như Hà Nội, Hải Phòng. Nơi có lượng công nhân thuộc kinh tế tư nhân và hỗn hợp đông nhất là thành phố Hồ Chí Minh, chiếm 12% tổng số công nhân trong các xí nghiệp tư nhân và hỗn hợp. Các địa phương có tỷ lệ này cao sau thành phố Hồ Chí Minh là Tiền Giang, Đồng Tháp, Kiên Giang, Sông Bé, An Giang. Tỉnh có số công nhân ở khu vực này phát triển nhanh nhất là Long An, Tây Ninh. Nói chung tốc độ phát triển của lực lượng công nhân trong các xí nghiệp tư nhân, hỗn hợp ở các tỉnh phía Nam nhanh hơn phía Bắc.
Riêng số hộ tiểu công nghiệp, thủ công nghiệp cá thể phát triển rất nhanh. Đến năm 1995 đã có trên 50 vạn hộ. Số công nhân lao động tính trung bình cho mỗi hộ thuộc diện này ngày càng đông. Ước tính trung bình mỗi hộ thuê 3 người làm vào năm 1995. Đặc điểm phát triển có liên quan đến cơ cấu lao động của các hộ tiểu công nghiệp, thủ công nghiệp cá thể là số lượng hộ tiểu công nghiệp, thủ công nghiệp giữa các địa phương không đều và trong từng địa phương, số lượng thay đổi chưa ổn định. Ví dụ tại Hà Tây, năm 1991 có 3,5 vạn hộ, sang năm, 1992 tăng lên 4,3 vạn hộ và tăng vọt lên 6 vạn hộ vào năm 1993, nhưng đến năm 1995 lại giảm sút. Tình hình các địa phương khác cũng như vậy.
Công nhân trong các cơ sở sản xuất thuộc các hộ tiểu công nghiệp, thủ công nghiệp tập trung nhiều nhất ở ngành chế biến gỗ và lâm sản, chiếm tới gần 24% tổng số công nhân ở thành phần kinh tế này. Ngành thực phẩm có số lượng công nhân tăng nhanh nhất vào các năm 1991 - 1993 (những năm này ngành thực phẩm có số lượng công nhân đông nhất), nhưng giảm nhanh kể từ năm 1994 và đến năm 1995 xuống vị trí thứ 2 sau ngành chế biến gỗ và lâm sản. Ngành dệt có số công nhân đông thứ 3 và có số lượng lao động tăng đều trong các năm 1991 - 1995.
Không phải đến những năm 1991 - 1995 mới có lực lượng công nhân thuộc các cơ sở sản xuất cá thể, tư nhân hoặc hỗn hợp. Nhưng trong những năm này, số lượng công nhân ở các khu vực trên tăng nhanh và thực sự trở thành một bộ phận quan trọng cấu thành đội ngũ công nhân Việt Nam. Dù đội ngũ công nhân ngoài quốc doanh có tay nghề không cao như công nhân trong các cơ sở sản xuất quốc doanh, nhưng giữa các bộ phận này không có sự khác biệt lớn như thời kỳ trước. - Cơ cấu theo ngành sản xuất
Đội ngũ công nhân có mặt trong mọi ngành, mọi thành phần và mọi khu vực kinh tế. Dù tỷ lệ có khác nhau, dù cơ cấu lực lượng công nhân có biến đổi như vừa nêu ở trên, nhưng nó luôn luôn là một phần quan trọng trong cơ cấu lao động xã hội của mọi ngành kinh tế.
Tuy nhiên, tỷ lệ giữa số lượng công nhân trên tổng số lực lượng lao động của các ngành kinh tế không giống nhau. Đa số công nhân tập trung ở khu vực sản xuất vật chất, khoảng từ 70 đến 80% tổng số công nhân. Trong khu vực không sản xuất vật chất, hầu hết số công nhân thuộc khu vực kinh tế quốc doanh, với nhiệm vụ chủ yếu không phải sản xuất ra sản phẩm mà phục vụ tạo điều kiện cho các cơ quan, công sở hoạt động.
Đội ngũ công nhân công nghiệp vẫn là lực lượng đông nhất và đóng vai trò xương sống của giai cấp công nhân Việt Nam. Năm 1991, công nhân công nghiệp chiếm khoảng 39% tổng số công nhân (trong đó 21% thuộc quốc doanh, 31% thuộc tập thể, 47% thuộc kinh tế cá thể). Đến năm 1995 công nhân công nghiệp giảm một ít, còn chiếm khoảng 36% tổng số công nhân. Trong đội ngũ công nhân công nghiệp, có hai bộ phận là công nhân khai thác mỏ và công nhân thuộc công nghiệp chế biến. Công nhân khai thác mỏ chủ yếu sản xuất trong các đơn vị quốc doanh, với tỷ trọng chiếm khoảng 3,5% tổng số công nhân công nghiệp. Đội ngũ công nhân chế biến, nhất là chế biến thực phẩm, lương thực có số lượng đông nhất và bộ phận công nhân ngoài quốc doanh chiếm tỷ trọng ngày càng cao.
Đội ngũ công nhân thuộc bộ phận thương nghiệp, sửa chữa xe máy, ô tô, đồ dùng điện, có số lượng đông thứ 2, chiếm khoảng từ 15 đến 18% tổng số công nhân. Lực lượng này phát triển khá nhanh trong những năm 1991 - 1995, đặc biệt số lượng công nhân sửa chữa xe máy, xe động cơ, đồ dùng điện trong gia đình. Tỷ lệ công nhân ở khu vực ngoài quốc doanh chiếm khá cao, chiếm khoảng 70% lực lượng công nhân của ngành này. Nơi nào có xe gắn máy, đồ dùng điện xuất hiện, ở đó có người sửa chữa hành nghề. Vì thế, lực lượng này vừa tập trung đông ở các đô thị, vừa phân bố khắp mọi địa phương.
Công nhân xây dựng có lực lượng đông thứ 3, chiếm khoảng trên 10% tổng số công nhân. Trong đó lực lượng công nhân xây dựng thuộc các cơ sở sản xuất quốc doanh chiếm gần 30%,.còn lại đa số thuộc các cơ sở sản xuất tư nhân, cá thể.
Công nhân giao thông vận tải, kho tàng chiếm khoảng từ 5 đến 7% tổng số công nhân, trong đó công nhân trong các cơ sở quốc doanh chiếm khoảng 35%, khu vực tập thể chiếm 25% và khu vực cá thể chiếm 40%.
Công nhân nông nghiệp chủ yếu thuộc các cơ sở sản xuất của quốc doanh, trong các nông trường, trạm trại nhân giống. Lực lượng này chiếm khoảng 3% tổng số công nhân.
Đội ngũ công nhân sản xuất và phân phối điện, nước, khí đốt chiếm khoảng 2 đến 3% tổng số công nhân, trong đó có khoảng 2/3 làm việc trong các cơ sở sản xuất ngoài quốc doanh. Bộ phận công nhân phân phối điện chủ yếu thuộc thành phần kinh tế nhà nước và lực lượng này tập trung ở các thành phố, nhà máy thuỷ - nhiệt điện và các khu mỏ.
Một bộ phận công nhân khác có số lượng ngày càng đông trong các ngành không sản xuất vật chất là nhóm công nhân hoạt động phục vụ cá nhân và cộng đồng. Trước kia nhóm công nhân này chủ yếu tập trung trong các cơ sở sản xuất quốc doanh hoặc tập thể. Những năm đầu thập kỷ 90 số người làm việc ở khu vực tư nhân ngày càng tăng. Đến năm 1995, số người làm việc ngoài quốc doanh, chủ yếu cho cá thể - tư nhân. Riêng bộ phận làm công trong các gia đình lên 76,6 ngàn người năm 1995.
Sau khoảng 10 năm kể từ đổi mới, đội ngũ công nhân tăng về số lượng, nhưng tỷ lệ của nó trong lực lượng lao động xã hội không tăng. Kể từ sau năm 1991, số công nhân làm việc trong các cơ sở sản xuất thuộc tư nhân, cá thể, hỗn hợp ngày càng tăng. Trong khi đó số công nhân trong các đơn vị sản xuất tập thể giảm nhiều và giảm rất nhanh.
+ Lực lượng nông dân và sự phân hoá của cư dân nông thôn
Nước ta vẫn là nước có nền kinh tế nông nghiệp đang thực hiện đổi mới quá độ lên nền kinh tế công nghiệp, do vậy cư dân nông nghiệp vẫn là lực lượng xã hội đông đảo nhất Sự biến đổi của kinh tế - xã hội kể từ sau năm 1986 diễn ra trên mọi khu vực; nhưng vẫn tập trung chủ yếu ở địa bàn nông thôn, nông dân, nông nghiệp. Sự biến đổi của cơ cấu xã hội vùng nông thôn trong thời gian này diễn ra khá nhanh và khá sâu sắc so với mọi thời kỳ lịch sử trước đó
Tỷ lệ số lượng nông dân bao gồm cả lực lượng lao động nông nghiệp và người ăn theo không có biến đổi so với tổng lao động và dân số xã hội. Trong những năm 1991 -1995, lực lượng lao động nông nghiệp chiếm khoảng 70% tổng số lực lượng lao động xã hội. Cả nước có khoảng 9,65 triệu hộ nông nghiệp, chiếm 80,5% tổng số hộ nông thôn.
Nhưng tỷ lệ dân số nông nghiệp trên tổng dân số cả nước cao hơn tỷ lệ giữa lao động nông nghiệp với toàn bộ lực lượng lao động xã hội và cao hơn tỷ lệ giữa số hộ nông nghiệp với tổng số hộ cả nước bởi trung bình mỗi gia đình nông dân có số trẻ em cao nhiều hơn so với số trẻ em trong mỗi gia đình phi nông nghiệp. Vì vậy, dân số nông nghiệp vẫn chiếm khoảng 75% tổng dân số toàn quốc.
Điều khác biệt căn bản giữa lực lượng nông dân ở thời gian này so với trước là vai trò của kinh tế hộ gia đình. Kinh tế hộ gia đình đã trở thành đơn vị sản xuất, tiêu thụ sản phẩm thay cho vai trò của hợp tác xã sản xuất nông nghiệp trước đây. Trên thực tế, vai trò kinh tế hộ gia đình đã bắt đầu được xác lập từ thời gian trước, mà một cột mốc quan trọng của tiến trình này là việc áp dụng khoán 10 (năm 1988) đã trả lại vị trí của kinh tế hộ trong hoạt động sản xuất. Nhưng nó thực sự được củng cố kể từ khi luật đất đai được ban hành và vận dụng vào năm 1993.
Là đơn vị tự chủ trong sản xuất, kinh doanh nên cơ cấu mới của nông dân Việt Nam trước hết gắn với kinh tế hộ. Nội dung và tính sản xuất tập thể của nông dân đã khác. Trong các đơn vị tập thể ở thời gian này, vị trí của kinh tế hộ gia đình là nhân tố trung tâm, quyết định mọi hoạt động của các hợp tác xã kiểu mới.
Vấn đề khác liên quan đến cơ cấu nông dân trong thời gian trên là do diện tích canh tác có hạn nên phần lớn các hộ nông nghiệp không sử dụng hết sức lao động trong gia đình, nhất là vào thời gian nông nhàn. Do vậy hàng chục vạn lao động nông nghiệp kiếm việc làm thêm ở thành phần hoặc nghề phu tại nhà. Tại những vùng gần đô. thị, chợ, trục giao thông cơ hội kiếm việc làm thêm ngoài nông nghiệp của các hộ nông dân thuận lợi hơn những người ở vùng sâu, vùng xa. Tuỳ mức độ khác của các vùng, có khoảng từ 10 đến 40% số hộ có việc làm thêm ngoài sản xuất nông nghiệp. Hiện tượng này chưa làm thay đổi cơ cấu lao động nông nghiệp toàn diện nhưng cho thấy cơ cấu lao động của cư dân nông nghiệp không còn cố hữu như trước- Trong nhiều làng ở vùng đồng bằng sông Hồng và đồng bằng sông Cửu Long, có hàng chục vạn lao động trẻ đi kiếm việc làm xa quê nhà, họ chỉ quay về lại trong mùa thu hoạch. Dù thành phần xuất thân và sổ quản lý nhân khẩu của họ vẫn là nông dân, nhưng xét từ nguồn thu nhập và nghề nghiệp thực tế của họ, họ không còn là nông dân nữa.
Liên quan đến vấn đề trên còn có hiện tượng chuyển cư của hàng chục vạn hộ nông dân trong những năm 1991 -1995. Dù có đi đến vùng kinh tế mới theo kế hoạch hay tự do, nhưng luồng di chuyển cư dân nông nghiệp theo hướng bắc - nam ngày càng tăng. Bộ phận dân di chuyển lớn nhất là nông dân các tỉnh vùng đồng bằng sông Hồng và miền núi - trung du Bắc Bộ vào Tây Nguyên lập nghiệp.
Nếu như trước đây luồng di dân di chuyển theo hướng từ đông sang tây (miền Bắc có thêm luồng từ nam lên bắc), thì hướng di chuyển trong những năm đầu thập kỷ 90 diễn ra mạnh mẽ theo trục bắc - nam và tây - nam và luồng thứ 2 là từ nông thôn ra đô thị. Luồng di dân này cùng với di chuyển theo mùa của nông dân ra thành phố kiếm việc làm đã tạo nên biến đổi trong cơ cấu lao động, cơ cấu dân số và nghề nghiệp ở nơi dân rời đi và ở vùng mới tới định cư.
Trong thời gian trước - nhất là thời kỳ trước năm 1986, quá trình di chuyển dân cư diễn ra với quá trình công nghiệp hoá theo kế hoạch bao cấp. Lúc đó chuyển cư gần như đồng nghĩa với chuyển nghiệp và lực lượng chính tham gia tiến trình này là thanh niên nông thôn được tuyển chọn vào sản xuất công tác trong các cơ sở sản xuất, công sở nhà nước. Hướng di chuyển chủ yếu là từ nông thôn ra thành thị. Trong những năm 1991 - 1995, hàng chục vạn hộ nông dân đã chuyển cư (nhưng cơ bản không chuyển nghề) từ vùng nông thôn này sang vùng nông thôn khác và đồng thời có hàng chục vạn lao động trẻ từ nông thôn ra thành thị kiếm sống vào lúc nông nhàn. Xét về kinh tế, ý nghĩa tích cực của sự chuyển cư này là làm tăng thêm nhân tố kinh tế thị trường, tăng thêm lượng sản xuất hàng hoá trong nông nghiệp ở những nơi cư dân mới vừa đến. Dù đa số hai lực lượng trên chưa tách rời lao động nông nghiệp, chưa tách rời sinh hoạt khỏi cộng đồng nông thôn, nhưng đây là tiền đề quan trọng dẫn đến biến đổi cơ cấu lực lượng nông thôn trong những năm vừa qua cũng như trong thời gian tới.
Sự biến đổi của lao động nông nghiệp và sản xuất nông nghiệp còn thể hiện ở sự xuất hiện của hàng vạn trang trại. Từ khi có chính sách giao khoán đất, rừng cho nông dân sử dụng lâu dài, trang trại của nông dân phát triển khá nhanh. Nếu nông dân ở một số vùng đồng bằng nghề thủ công phục hồi và phát triển thì ở vùng trung dư và miền núi, nhiều hộ nông dân phát triển kinh tế trang trại. Đến năm 1995 cả nước có khoảng vài vạn hộ đã xây dựng trang trại của mình. Sự xuất hiện của các trang trại sau năm 1993 là nhân tố mới trong cơ cấu kinh tế - xã hội ở nông thôn, nhất là ở vùng trước kia kinh tế hàng hoá kém phát triển.
- Biến đổi khác trong xã hội nông thôn
Cơ cấu hộ và ngành nghề
Trong những năm 1991 - 1995, dân số nông thôn tăng hàng năm khoảng 1 triệu người. Nhân khẩu từ tuổi 16 đến 60 (tuổi lao động ở nông thôn) chiếm 52,65%, số người có khả năng lao động trong độ tuổi kể trên chiếm 48% tổng số cư dân nông thôn. Tổng số có 11.974.515 hộ. Hộ nông nghiệp chiếm 77,80%, trong đó 77,80% số hộ thuộc dân tộc Kinh, còn lại 9,2% thuộc các dân tộc khác. Hộ lâm nghiệp chiếm 0,15% và tỷ lệ hộ lâm nghiệp của các dân tộc khác cao hơn hộ lâm nghiệp của dân tộc Kinh. Hộ thuỷ sản chiếm 1,92%, hộ người Kinh chiếm 2,16%, các dân tộc khác chiếm 0,24%. Hộ công nghiệp chiếm 1,34%, trong đó các hộ người Kinh chiếm 1,50% và các dân tộc khác chiếm 0,18%. Hộ xây dựng chiếm 0,27%; hộ thương nghiệp chiếm 3,21%, ; hộ dịch vụ chiếm 1,18% và các hộ khác chiếm 12,35%.
Số hộ còn trong các hợp tác sản xuất kiểu mới chiếm 59,11%, hộ cá thể chiếm 26% (riêng hộ cá thể của các dân tộc ít người chiếm 40,82%), hộ nông nghiệp chuyên làm thuê chiếm 5,61%; hộ khác chiếm 7,8%1.
Theo kết quả điều tra về kinh tế - xã hội nông thôn ở 18 tỉnh thuộc 7 vùng kinh tế khác nhau đại diện cho nông thôn cả nước được tiến hành trong năm 1996-1997, cho thấy số hộ nông-lâm - ngư nghiệp chiếm đến khoảng 65% tổng số hộ ở nông thôn và số hộ nông-lâm-ngư nghiệp ở phía bắc cao ở phía nam khoảng 8%. Trong nhóm hộ này, có khoảng 65% là hộ thuần nông và số hộ thuần nông ở phía bắc cao hơn phía nam đến 10%. Hộ kiêm chiếm khoảng 20% và tỷ lệ số hộ kiêm ở phía nam cao hơn ở phía bắc khoảng 4%. Hộ chuyên chiếm gần 10% và tỷ lệ hộ kiêm ở phía nam cao hơn phía bắc 3,5%. Hộ chế biến nông sản chiếm khoảng 1,5% và tỷ lệ giữa các tỉnh phía nam và bắc xấp xỉ bằng nhau. Hộ công nghiệp và xây dựng chiếm khoảng 2,5%. Hộ hộ công nghiệp - dịch vụ ở phía nam cao hơn ở phía bắc khoảng 5%.
Tổng số hộ, cơ sở ngành nghề ở vùng nông thôn có khoảng 1,3 triệu đơn vị, trong đó có 97% là của các hộ chuyên hoặc kiêm, còn 3% của các doanh nghiệp. Trong các doanh nghiệp đang hoạt động vào năm 1995, có khoảng 15% thuộc quốc doanh, 7% của các hợp tác xã còn lại khoảng 78% thuộc các doanh nghiệp tư nhân.
Tốc độ phát triển hộ ngành nghề ở nông thôn trong những năm nửa đầu 90 khoảng 10%. Sự phát triển này có quan hệ hữu cơ với sự giải thể, giảm số lượng của các hợp tác xã ngành nghề cũng như sự thu hẹp (giải thể hoặc sát nhập) của các xí nghiệp quốc doanh ở các địa phương.
Thu nhập - mức sống.
Quá trình đổi mới đã nâng cao mức sống nhân dân, nhưng hiện tượng phân hoá giàu nghèo cũng xuất hiện ngày càng rõ nét. Nói chung cư dân nông thôn nghèo hơn thành thị. Mức sống và thu nhập của cư dân nông thôn không còn bình quân như thời gian trước.
Theo điều tra tiến hành vào năm 1993, so mức sống của các hộ với năm 1990, có 52,74% hộ nông dân có đời sống khá hơn, 17% kém đi và 30,26% vẫn như cũ. Tuy nhiên, tỷ lệ này ở các vùng rất khác nhau.
Khoảng hơn 72% số nông dân trong diện điều tra ở vùng đồng bằng sông Hồng có mức sống cao hơn trước và chưa đến 8% kém trước. Mức sống của nông dân vùng miền núi và trung du Bắc Bộ có tỷ lệ khá/ kém trong thời gian trên giống như ở vùng châu thổ sông Hồng. Trong khi đó ở vùng đồng bằng sông Cửu Long chỉ có 36,42% hộ có mức sống cao hơn trước, 28,24% kém trước và 35,34% vẫn như cũ. Tỷ lệ này cũng gần tương tự như của nông dân vùng duyên hải miền Trung..
Tính chung trong cả nước, sau 10 năm đổi mới, có khoảng hơn 4% số hộ giàu có, 17% hộ trên mức trung bình, 36,5% hộ trung bình, 23,3% hộ dưới trung bình và 20% hộ nghèo. Hầu hết hộ nghèo đều thuộc vùng nông thôn và tỷ lệ hộ nghèo thuộc nông dân chiếm tuyệt đối. Như vậy có khoảng 2,4 triệu hộ nông dân thuộc diện nghèo đói. Mức nghèo tính theo thời điểm lúc ấy là thu nhập trung bình mỗi người/tháng dưới 50.000 đồng.
Khoảng cách thu nhập tính trung bình mỗi người ở nông thôn kém hơn 2 lần so với mỗi người ở đô thị. Thu nhập của nông dân ở vùng Đông Nam Bộ cao nhất so với nông dân toàn quốc, cao khoảng 2 lần so với nông dân vùng miền núi và trung du Bắc Bộ, vùng khu Bốn cũ và Tây Nguyên. Thu nhập của nông dân ở vùng đồng bằng sông Cửu Long cao hơn nông dân ở 3 vùng nghèo vừa nêu khoảng 1,5 lần.
+ Các tầng lớp xã hội khác
Cùng với sự phát triển của kinh tế dịch vụ, những tầng lớp xã hội liên quan đến nganhg nghề dịch vụ, thương nghiệp... cũng phát triển và có những thay đổi đáng kể trong hoàn cảnh mới này.
- Người kinh doanh thương nghiệp và dịch vụ tư nhân
Số người kinh doanh thương nghiệp ăn uống công cộng và dịch vụ tư nhân là một trong những bộ phận có số lượng tăng nhanh trong những năm 1991 - 1995. Năm 1991 cả nước có khoảng 899.000 người, đến năm 1995 đã lên 1.777.020 người.
Tỷ lệ giữa số người kinh doanh trong các ngành nghề trên ở các tỉnh phía nam luôn cao hơn phía bắc từ 1,5 đến 2 lần. Dù số lực lượng này ít nhiều khác nhau, nhưng địa phương nào cũng có số người và số hộ kinh doanh thương nghiệp, ăn uống công cộng và dịch vụ tư nhân. Đến năm 1995, về căn bản lực lượng này đã thay thế lực lượng lao động quốc doanh trong ngành ăn uống và thay thế cả vị.trí của lực lượng thương nghiệp trong các cửa hàng mua bán của các hợp tác xã mua bán trước kia.
Sự phân bố của lực lượng kinh doanh thương nghiệp, ăn uống và dịch vụ tư nhân có quan hệ hữu cơ đến mức độ phát triển kinh tế của từng địa phương. Tại khu vực đô thị, số người kinh doanh nhiều hơn vùng nông thôn. Địa phương có số người kinh doanh thương nghiệp ăn uống và dịch vụ tư nhân nhiều nhất cả nước là thành phố Hồ Chí Minh, sau đến Hà Nội. Tỷ lệ người kinh doanh, phục vụ ở Hồ Chí Minh vào năm 1995 chiếm hơn 13% tổng số người kinh doanh cùng ngành của cả nước, Hà Nội chiếm 7%, còn lại khoảng 80% thuộc các tỉnh và khác.
Lực lượng thương nghiệp, ăn uống, phục vụ tư nhân tập trung ở vùng thị xã, thị trấn, các điểm trung tâm kinh tế của địa phương và của các chợ làng. Các tỉnh thuộc vùng đồng bằng có số người kinh doanh các ngành nghề trên cao hơn vùng rừng núi, trung du từ 3 đến 10 lần. Các tỉnh thuộc vùng Đông Nam Bộ có số lượng đều và cao nhất so với các vùng nông nghiệp còn lại
Có thể nói chưa bao giờ có ngành nghề nào mà mọi địa phương có số lao động phát triển đều, nhanh như ngành kinh doanh ăn uống dịch vụ tư nhân như trong 5 năm 1991 - 1995. Sự phát triển nhanh của lực lượng thương nghiệp, ăn uống và dịch vụ tư nhân trong những năm 1991 - 1995 thể hiện nhu cầu phát triển nhiều thành phần kinh tế của nền kinh tế nói riêng và nâng cao mức sống của xã hội nói chung. Sự tăng trưởng số lượng của lực lượng này góp phần quan trọng làm thay đổi cơ cấu lực lượng lao động của cả nước và nó là một trong những nhân tố quan trọng làm diện mạo của xã hội nông thôn biến đổi cả về kinh tế lẫn xã hội.
KẾT LUẬN
Trong tiến trình xây dựng và phát triển kinh tế của nước ta, nếu như Đại hội Đảng lần VI được coi như đại hội bắt đầu đổi mới, có ý nghĩa quyết định đến sự hình thành mô hình kinh tế vĩ mô phù hợp với thực tế đất nước và quy luật khách quan; thì đại hội lần thứ VII với cương lĩnh Đổi mới đất nước là sự khẳng định và hoàn thiện bổ sung đường lối của Đại hội VI. Giai đoạn 1991- 1995 được xem là giai đoạn phát triển mới của nền kinh tế nước ta; kinh tế nước ta những năm này cơ bản đã khắc phuạc được tình trạng khủng hoảng, lạm phát của thời kỳ trước đó; là giai đoạn kinh tế tăng trưởng nhanh và ổn định nhất từ trước đến thời điểm đó. Cơ cấu kinh tế cũng đã có những thay đổi lớn tương ứng phù hợp với định hướng phát triển kinh tế kinh tế. Sự phát triển, biến đổi của kinh tế đã dẫn đến một hệ quả tất yếu là sự chuyển biến trong cơ cấu xã hội.
Tổng sản phẩm trong nước không ngừng tăng. Tính chung năm năm, tổng sản phẩm trong nước tăng 48,3%, bình quân mỗi năm tăng 8,2% và năm sau bao giờ cũng tăng cao hơn năm trước. Tốc độ tăng trưởng kinh tế trong năm năm này không chỉ cao hơn tốc độ của 3 kế hoạch năm năm trước đó mà còn vượt cả chỉ tiêu kế hoạch đề ra là 5.5-6,5% mỗi năm. Nhìn chung tất cả các ngành sản xuất đều có sự tăng trưởng. Nhưng tốc độ này không giốg nhau và đã có sự thay đổi cơ bản. Nông nghiệp vẫn giữ tỷ trọng cao trong cơ cấu GDP nhưng đã sụt giảm tỷ trọng, và cũng không còn giữ được tốc độ tăng trưởng như các giai đoạn trước. Công nghiệp có chỉ số phát triển nhanh nhất, sau đó là các ngành dịch vụ. Từ vị trí thấp nhất trong cơ cấu GDP, dịch vụ đã có bước tiến nhảy vọt lên vị trí số 1.
Kinh tế tăng trưởng khá, sản xuất trong nước đã đủ tiêu dùng và bắt đầu có tích luỹ. Đây thực sự là một bước tiến lớn của nước ta khi mà trong những năm trước đây toàn bộ quỹ tích luỹ và một phần quỹ tiêu dùng phải được bù đắp bằng vay nợ và viện trợ nước ngoài.
Cơ cấu kinh tế có sự chuyển dịch theo hướng công nghiệp hoá- Hiện đại hoá, hội nhập kinh tế thế giới. Trong cơ cấu kinh tế mới này, khu vực kinh tế nhà nước tuy đã có sự suy giảm tỷ trọng nhưng vẫn giữ vai trò then chốt, chủ đạo trong nền kinh tế, nắm giữ những ngành trọng yếu. Trong khi đó, vai trò của các thành phần kinh tế khác ngày càng được nâng cao; khu vực kinh tế tập thể, các đơn vị hợp tác xã đang từng bước được tổ chức lại.
Chính sách Đổi mới kinh tế đã mang lại một diện mạo mới cho nền kinh tế Việt Nam phức tạp và đa dạng hơn. Cơ cấu kinh tế mới gồm nhiều ngành nghề, nhiều hình thức sở hữu, nhiều loại hình doanh nghiệp khác nhau. Bản thân tốc độ phát triển của mỗi khu vực, mỗi ngành nghề trong nền kinh tế là khác nhau. Có sự tăng giảm về tỷ trọng nhưng về cơ bản các nhóm ngành nghề đều có sự gia tăng về số liệu tuyệt đối. Chính điều này đã làm tổng sản phẩm quốc nội không ngừng tăng qua các năm. Trong những năm này bộ phận khách sạn và du lịch phát triển nhanh chóng , được chú ý. Song số này phát triển kớong đều, phân bố chủ yếu ở các thành phố lớn, các khu du lịch.
Trong những năm này, ta đã đẩy lùi được tình trạng siêu lạm phát. Năm 1991, giá bán lẻ hàng hoá và dịch vụ tiêu dùng tăng với tốc độ là 67,4%, đến năm 1995 chỉ số này chỉ còn 12,7%- là mức có thể kiểm soát được và siêu lạm phát khó có thể tái diễn trong những năm kế tiếp.
Cả nước đã hình thành nên các vùng kinh tế trọng điểm, nổi bật lên có 3 vùng đó là những tam giác phát triển kinh tế:
Hà Nội- Hải Phòng- Quảng Ninh
Vinh- Huế- Đà Nẵng
Thành phố Hồ Chí Minh- Đồng Nai- Bà Rịa Vũng Tàu
Các vùng này có ý nghĩa quan trọng trong việc phát huy nguồn lực phát triển kinh tế- xã hội vùng và cả nước.
Cơ cấu kinh tế (với ba ngành chính là nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ) xã hội Việt Nam 1991- 1995 chuyển dịch theo xu hướng chính sau:
Dù tỷ trọng có sự tăng giảm nhưng tổng sản phẩm xã hội tăng nên tổng sản phẩm toàn xã hội luôn tăng qua các năm.
Trong cơ cấu có sự chuyển dịch, đổi chỗ cho nhau giữa các ngành. Khu vực dịch vụ từ vị trí cuối cùng đã vươn lên vị trí số 1thay thế cho nông nghiệp. Công nghiệp xây dựng tăng dần tỷ trọng và đứng ở vị trí thứ hai.
Theo thành phần kinh tế, khu vực kinh tế quốc doanh vẫn chiếm vai trò, vị trí quan trọng nhất trong nền kinh tế quốc dân; đặc biệt là trong ngành công nghiệp; khu vực ngoài quốc doanh có vị trí ngày càng quan trọng hơn, có tỷ trọng rất cao trong nông nghiệp và dịch vụ.
Cơ cấu kinh tế những năm vừa qua đã mang tính liên kết, liên doanh giữa các nhóm ngành và giữa các khu vực kinh tế. Các loại hình doanh nghiệp ngày càng phong phú, đa dạng hơn. Vì vậy có thể thấy rằng chưa bao giờ kinh tế Việt Nam lại có được cơ cấu phong phú, đa dạng và uyển chuyển như vậy.
Cả nước đang diễn ra xu thế hình thành những vùng kinh tế trọng điểm, những khu công nghiệp tập trung, khu trọng điểm lương thực ở hai đồng bằng lớn nhất cả nước, những vùng trồng cây công nghiệp Đông Nam Bộ, Tây Nguyên. Những vùng này có điều kiện thuận lợi và được đầu tư lớn, có chính sách để phát triển. Và có vai trò to lớn trong sự phát triển chung của nền kinh tế đất nước.
Cơ cấu nền kinh tế tác động trực tiếp đến cơ cấu xã hội. Cơ cấu xã hội những năm 1991- 1995 chuyển biến theo hướng chính sau:
Nguồn lao động được bổ sung hằng năm ở nước ta rất lớn ( 1,1 triệu). Điều này vừa tạo ra sự dồi dào về lực lượng lao động, đáp ứng đầy đủ nhu cầu về lao động cho các ngành kinh tế; tuy nhiên nó cũng tạo nên sức ép về việc làm cho người lao động.
Lao động nếu như trước kia chỉ làm việc trong hai khu vực kinh tế: nhà nước và ngoài quốc doanh; đến nay, trong nền kinh tế nhiều thành phần đã làm việc linh động hơn, trong nhiều ngành nghề, khu vực kinh tế hơn. Chính sách kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa này còn làm cho các ngành nghề trước kia tồn tại cách biệt nhau thì nay đã có mối quan hệ chặt chẽ với nhau và khoảng cách ngày càng thu hẹp.
Nối tiếp sự vận động của cơ cấu kinh tế- xã hội của những giai đoạn trước đó, cơ cấu kinh tế- xã hội Việt Nam những năm 1991- 1995 có những biến đổi to lớn, theo hướng tích cực, hiện đại hoá- công nghiệp hoá, hội nhập với kinh tế thế giới; nhưng dù biến đổi theo chiều hướng như thế nào thì vẫn theo định hướng xã hội chủ nghĩa dưới sự quản lý của Nhà nước. Sự biến đổi nội tại của nó đã bước đầu tạo nên những nhân tố có tính chất định hình cho xã hội phát triển lâu dài, phù hợp với nền kinh tế; đặt nền tảng cho đất nước bước vào công cuộc công nghiệp hoá hiện đại hoá, thực hiện đổi mới đất nước thành công.
MỤC LỤC
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- KTCT (88).DOC